Một tấc giang sơn

Một dòng máu đỏ…

(Trái tim người lính - thơ Lư Giang)

Năm 2007, khi vừa chuyển công tác từ Truyền hình Quân đội nhân dân sang Tạp chí Văn nghệ Quân đội, tôi đã rất may mắn khi được mời biên soạn và viết một số giai đoạn của Hồi ký “Trung tướng Lư Giang - trái tim người lính trận”.

Hơn một năm tiếp cận các nguồn tư liệu, hình ảnh, nhân chứng, nhất là được trò chuyện với Đại tá, bác sĩ Hàn Thị Trang - phu nhân của Trung tướng Lư Giang, đã cho tôi hình dung sâu sắc về một vị tướng xuất sắc, cả cuộc đời gắn bó với nghiệp binh, người chiến sĩ nhất mực trung thành với Đảng, với Bác Hồ, với Quân đội, là một tấm gương mẫu mực.

Đúng như lời Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định trong lời giới thiệu hồi ký “Trung tướng Lư Giang - trái tim người lính trận”: “Đồng chí Trung tướng Lư Giang đã hoạt động cách mạng từ năm 1942, tham gia Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở quê nhà Bắc Giang 1945. Đồng chí vào quân đội là Đại đội trưởng của đội quân Nam tiến Bắc Bắc. Lần đầu tiên tôi gặp Lư Giang vào năm 1946, khi tôi đi kiểm tra tình hình các tỉnh miền Nam, gặp đồng chí đang chỉ huy đơn vị hành quân Nam tiến. Đồng chí là một người cộng sản kiên trung, một vị tướng có đức độ và tài năng, trưởng thành từ cơ sở, dạn dày trong chiến đấu, lập được nhiều chiến công, sống khiêm tốn, trung thực, gần gũi thương yêu cấp dưới, hết lòng phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân, luôn hoàn thành mọi nhiệm vụ được Đảng và nhân dân giao phó, nêu một tấm gương sáng về phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” (Hà Nội, ngày 24 tháng 7 năm 2008).

Tôi chưa một lần được gặp Trung tướng Lư Giang. Khi ông mất (năm 1994), tôi mới nhập ngũ, còn chưa vào nghiệp văn bút, càng không bao giờ nghĩ sẽ có một ngày biên soạn và viết sách về ông. Đối với Trung tướng Lư Giang, ông luôn có một sự hấp dẫn đặc biệt. Một con người dáng hình nhỏ bé mà hết sức kiên cường, gan góc, một vị anh hùng trong trái tim tôi.

Lư Giang (tên thật là Lê Bá Ước), sinh năm 1920, tại miền sơn cước làng Gàng, xã Võ Tranh, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Đây là vùng đồi núi thuộc sườn Tây Yên Tử, mảnh đất địa linh nhân kiệt Kinh Bắc. Dòng họ Lê tổ tiên của Lư Giang ở đất Võ Tranh là một danh gia vọng tộc trong vùng. Cha ruột của ông là người ôm chí lớn, từng đi khắp đó đây, khi trưởng thành trở về làng Gàng lập nghiệp với cơ ngơi khang trang, điền sản hàng trăm mẫu đất, bao dung nhiều kẻ khó, giúp đỡ người lỡ thời, người yêu nước từ khắp nơi tìm đến, là người có uy tín, danh vọng trong vùng.

Lư Giang được nuôi ăn học cẩn thận, sớm nối chí cha nên đã tham gia hoạt động Việt Minh từ rất sớm. Năm 1942, Lư Giang đã vững vàng trong đội ngũ chiến sĩ cách mạng. Tiếp đó, ông tham gia giành chính quyền tại Bắc Giang năm 1945, với cương vị Đại đội trưởng Cứu quốc quân.

Thuở thanh niên, Lư Giang đã có thiên hướng theo nghiệp văn bút. Ông rất chăm đọc sách báo, theo dõi chặt chẽ tình hình thời thế trong nước, ngoài nước, nên việc tham gia Việt Minh là tất yếu. Trong gia đình Lư Giang, các tên tuổi Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... và nhất là Nguyễn Ái Quốc, luôn được mọi người nhắc đến. Năm 19 tuổi, Lư Giang, với sự giới thiệu của đồng chí Hải Bằng và đồng chí Lan Cường, đã được kết nạp vào Việt Minh tại xóm Trại, làng Gàng.

Ở buổi đầu cách mạng, người chiến sĩ Lư Giang luôn ở tuyến đầu. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, một dấu mốc lịch sử chói lọi phải trả bằng xương máu của biết bao thế hệ anh hùng liệt sĩ để có Ngày Độc lập. Và ngay lập tức, người chiến sĩ bước vào cuộc chiến đấu vô cùng gian khổ, hiểm nguy.

Tháng 11-1945, Lư Giang được đề bạt làm Chi đội trưởng Chi đội Nam tiến đầu tiên, vào thẳng chiến trường, khi ông vừa có con gái đầu lòng Lê Thị Hồng Chinh (sinh tháng 10-1945).

Gạt tình riêng vì nghĩa nước, Chi đội trưởng Lư Giang cùng Chính trị viên Lương Cò (người kết nạp Lư Giang vào Đảng); Chi đội phó Từ Vân, đã tự tay viết những khẩu hiệu cho đoàn quân Nam tiến: “Nước Việt Nam là của Việt Nam”; “Ủng hộ miền Nam kháng chiến”... Anh em Chi đội Nam tiến, nhiều người còn chưa biết chữ, có người chưa đủ tuổi tòng quân đã chữa tuổi tên, nhất tề hát vang: Đoàn giải phóng quân một lần ra đi/ Toàn thắng vinh quang ghi ngày trở về/ Ra đi ra đi, bảo tồn sông núi/ Ra đi ra đi, thà chết chớ lui…

Không khí ấy giống như những tráng sĩ quyết đem sinh mạng của mình bảo vệ non sông, bảo vệ nền độc lập.

Khi đoàn quân Nam tiến do Chi đội trưởng Lư Giang dẫn đầu vượt núi băng rừng vào tới Quảng Ngãi, ngày 22-1-1946, Chi đội vinh dự được đón đồng chí Võ Nguyên Giáp, khi đó là Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Chủ tịch Quân ủy Hội đến thăm và căn dặn: “Các cậu có lực lượng hùng hậu nên sẽ có ảnh hưởng lớn và tác dụng lâu dài, kẻ địch sẽ thấy sức mạnh của cách mạng là chỉ trong một thời gian ngắn đã tổ chức được hàng chi đội, mà lại có kỷ luật nghiêm. Nhưng lần này, vào mặt trận phải có nhận thức mới. Cần chú ý rằng, ban đầu ta đánh có đội hình quy củ, trang bị mạnh, phát huy tính ngoan cường, chủ động, linh hoạt. Song, sau này, có khi không chiến đấu trong đội hình lớn, mà phải phân tán trong lòng địch, phân tán đến từng tiểu đội, từng tổ, từng người, phát huy kinh nghiệm thời kỳ bí mật, chiến đấu du kích linh hoạt, biết giương đông kích tây”.

Trong cuộc mít tinh đêm 2-1-1946 tại thị xã Quảng Ngãi, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã trực tiếp nói chuyện, động viên và có những ý kiến chỉ đạo với Chi đội Nam tiến. Sau cuộc mít tinh, Chi đội trưởng Lư Giang cùng toàn Chi đội lên tàu, vào thẳng mặt trận Nha Trang. Khi đó, mặt trận Nha Trang đã bắt đầu vang tiếng súng.

Chi đội Nam tiến được Bộ chỉ huy mặt trận Nha Trang đóng trong thành Khánh Hòa, giao nhiệm vụ bảo vệ nhân dân và đoàn thể trong thành. Các đoàn đại biểu địa phương nghe tin bộ đội miền Bắc vào Nam chiến đấu, liền kéo đến thăm hỏi, động viên, cầm tay từng chiến sĩ rất cảm động. Bà con cô bác kể lại, trong đợt Tổng tuyển cử toàn quốc ngày 6-1-1946, mặc dù địch thả bom và bắn phá dữ dội, nhưng nhân dân ở đây vẫn đi bỏ phiếu đầy đủ. Tiếp đó, Chi đội Nam tiến tổ chức trận địa phòng ngự chạy dọc ven làng ngoại ô thành phố Nha Trang, dưới những rặng dừa rậm rạp chân núi Xuân Sơn.

Những ngày tháng cùng nhân dân Nha Trang đánh địch và xây dựng đội ngũ là những tháng ngày gian khổ, nhưng hết sức nghĩa tình của Chi đội Nam tiến. Sau này, khi trở lại chiến trường xưa, Trung tướng Lư Giang vẫn còn nhớ như in từng vạt dừa, gương mặt dân quân, các bà mẹ đã đùm đậu những người con miền Bắc.

Khoảng đầu tháng 7-1953, giữa lúc mặt trận khu V đang chuẩn bị chiến dịch lớn, Lư Giang, trên cương vị Trung đoàn trưởng Trung đoàn 108 (Khu V), được lệnh Trung ương gấp rút ra Bắc.

Trong Hồi ký, ông kể lại: “Ra Bắc lần này, tôi có linh tính được gặp Bác Hồ, sẽ nói với Bác những gì mà quân dân Khu V gởi gắm cho tôi. Chắc Bác vui khi biết Khu V trưởng thành, luôn vâng lời Bác dạy, luôn hướng về Người và Trung ương Đảng. Ngày lên đường thật gấp rút, cùng đi với tôi có nhiều đồng chí. Trong đó có cả đồng chí Sơn Ngọc Minh, lúc đó là Bí thư Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Khmer của Campuchia. Tuyệt đối giữ bí mật, đoàn chúng tôi hành quân vượt núi băng rừng. Sau 45 ngày, chúng tôi đã đến đích. Việt Bắc đây rồi, đường vào khu an toàn. Hình ảnh thân thương hiện ra trước mắt tôi. Nỗi nhớ quê hương, gia đình trong 7 năm xa cách. Không một tin tức, không một cánh thư của Nhã Nam, Bố Hạ, Yên Thế”.

Lần đầu tiên, hai trăm cán bộ cao cấp khắp chiến trường hội tụ về Việt Bắc. Nơi đây, những chiến sĩ Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Cứu quốc quân, phân đội, chi đội về đây. Ai mất, ai còn, nhìn nhau không nói nhiều, nhưng ai cũng thấy chính mình đã trưởng thành và cùng mang theo điều lo lắng của người chỉ huy tạm rời tuyến lửa. Hy vọng lớn lao của mọi người lúc này là được gặp Bác Hồ, được gặp đồng chí Tổng tư lệnh. 

Lớp tập huấn này, nhiệm vụ chính là biên soạn và tổng kết kinh nghiệm, học tập, trao đổi những chặng đường chiến đấu ở các chiến trường và cách đánh khác nhau, phong phú nhiều mặt, giữ vững căn cứ chống càn, xây dựng và củng cố hậu phương, rút ra những bài học kinh nghiệm, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tổng Tư lệnh.

Thấm thoắt đã hết một tháng, lớp tập huấn kết thúc. Lớp bình bầu được 7 đồng chí xuất sắc. Lư Giang vinh dự được đứng trong số đó. Buổi lễ tổng kết long trọng diễn ra. Các đồng chí lãnh đạo lớp học đã có mặt. Mọi người hồi hộp chờ đợi. Bác đến! Mọi người reo ầm lên. Bác bước vào hội trường, vừa tươi cười, vừa giơ tay vẫy ra hiệu mọi người trật tự. Lư Giang nhìn thật kỹ Bác, cố nhớ thật sâu hình dáng của Người, để khi trở về khu V nói với anh em, với đồng chí, đồng bào về vị Cha già kính yêu.

Bác giản dị và nhanh nhẹn, với bộ quần áo như ngày nào đi khảo sát biên giới đầu chiến dịch, chòm râu đã điểm bạc, đôi mắt sáng ngời trìu mến nhìn khắp lượt mọi người, chẳng khác gì người cha đầy tình thương yêu đối với các con đi xa về.

Bác được mời lên hàng ghế Chủ tịch đoàn, cùng với các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Thái.

Lư Giang kể lại trong Hồi ký: “Tôi và 6 đồng chí có thành tích xuất sắc vinh dự được Bác gắn huy hiệu Mác - Lênin. Bác hỏi tôi: “Chú tên là gì?”. Tôi bồi hồi xúc động không nói nên lời (thường ngày trong công việc, tôi là người nói năng lưu loát). Trời mùa thu mà sao lúc này mồ hôi tôi toát ra, lưỡi cứng lại, mặt đỏ lên. Với bao lời định nói, định thưa với Bác, mà lúc này cứ lúng túng mãi. Mấy phút sau, tôi cố nói với Bác: “Thưa Bác, cháu là Lư Giang, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 108, Khu V”.

Thấy tôi nói giọng Bắc mà lại ở Khu V, Bác lại hỏi: “Chú quê ở đâu?”. Lẽ ra tôi phải thưa với Bác: Cháu quê ở Bắc Giang, chỉ huy bộ đội Nam tiến những ngày đầu cách mạng, nhưng tôi chỉ nói được với Bác một câu: “Cháu quê ở Bắc”. Bác thông cảm và cười đôn hậu. Tôi thấy mạnh dạn hơn, với cái nhìn trìu mến, thân thương của người cha.

Bác hỏi: “Đồng bào trong đó có khổ lắm không?”. Tôi đáp: “Thưa bác! Đồng bào vùng tự do không khổ lắm, đời sống mỗi ngày có dễ chịu hơn”.

Bác lại hỏi: “Thế anh em chiến sĩ có đoàn kết không? Đồng bào các dân tộc có đoàn kết không? Bộ đội và đồng bào thế nào?”. Tôi đáp: “Thưa bác! Đoàn kết tốt ạ. Đồng bào miền Nam gởi cháu lời thăm Bác”.

Bác nói tiếp: “Bác nghe ban lãnh đạo lớp học báo cáo chú học tốt, nên Bác tặng chiếc huy hiệu”.

Lư Giang đứng nghiêm, vô cùng xúc động khi được Bác Hồ gắn huy hiệu Mác - Lênin.

Lớp học bế mạc, Lư Giang chia tay đồng đội về đơn vị. Ông nhận công tác là phái viên của Bộ Quốc phòng. Lúc đó, do tình hình chung, phát triển ở các chiến trường rất khẩn trương, ông chưa kịp về thăm gia đình. Nhớ lời Bác dặn dò, quân và dân Khu V đã đập tan chiến dịch Atlante của Navarre, đập tan 22 tiểu đoàn cơ động tinh nhuệ của địch.