Biên soạn cuốn Hồi ký của Trung tướng Lư Giang, lắm lúc, tôi thấy lòng mình thắt lại, lặng đi trước những số phận người thân của vị tướng chiến trận này.

Người vợ đầu của ông, cô thanh nữ Trương Thị Hạnh, người con gái đẹp quê Giáp Sơn, Lục Ngạn, Bắc Giang, mất khi mới tròn 24 tuổi. Thuở ấy, hai gia đình đều danh giá, môn đăng hộ đối, nên việc trăm năm của đôi trẻ sớm thành. Buổi đón dâu độc đáo, cô dâu như một nữ hiệp, váy trắng, mũ trắng, giày, tất trắng, cưỡi ngựa trắng thuần thục bên chú rể nho nhã, thư sinh, rụt rè, nhỏ bé. Pháo nổ vang trời mừng đôi trai tài gái sắc.

Trong căn nhà nhỏ nằm ở một góc khuất cuối thành phố Hà Nội, sát Đoàn Nghi lễ 781 (tiền thân của Đoàn Nghi lễ Quân đội), người con gái đầu Lê Thị Chinh của Trung tướng Lư Giang, khi tôi đến thăm năm 2007, đã lên chức bà ngoại, lặng lẽ khóc. Mắt chị khóc mà như cười, lấp lánh sáng, nhìn lên bức ảnh cha mình. Ngoài kia, con sông Hồng đang chảy. Sông Hồng như càng thắt ruột thắt gan, vặn mình ra biển. Và, ở nơi biển xanh, trời xanh, mây trắng, hẳn Trung tướng Lư Giang vẫn đang dõi theo người con gái nhỏ bé, mới lọt lòng đã chịu nhiều thua thiệt. Chồng chị Lê Thị Chinh cũng đã mất, ra đi đã mấy năm, theo người cha suốt đời chiến trận. Nhắc đến chồng, nước mắt người phụ nữ lại nhỏ xuống.

Khi sinh ra không biết mặt cha, lên hai tuổi, chị Chinh lại mồ côi mẹ. Quãng đời đó vô cùng cơ cực với đứa trẻ lên hai. Kháng chiến bùng nổ. Người bố, chiến sĩ Lư Giang vào chiến trường. Khi ấy, cô bé hai tuổi không hiểu được cảnh loạn lạc. Chỉ sau này, chị mới hiểu thế nào là mất mát.

Trong đội quân Nam tiến năm 1945, không ít lúc, Chi đội trưởng Lư Giang lặng im dõi về đất Bắc. Ở đó, có những phần máu thịt của ông. Sau này, năm 1954, khi tập kết ra Bắc, bộn bề công tác đoàn thể, mãi đến năm 1956, ông mới biết rõ hoàn cảnh gia đình mình.

Vợ ông bị ép lấy tên lý trưởng, liền sau đó uất ức mà chết. Bố ông, người hào phú học rộng biết nhiều, bị giặc bắt, giam cầm và đánh chết vì có các con đi kháng chiến. Đứa con gái bé bỏng của ông ở với chú, dì, xóm mạc vùng đất Võ Tranh đá sỏi, cũng bị soi mói, đe dọa.

Lư Giang lặng im, dõi vào cõi lòng mình. Và kể từ đó, là một Lư Giang khác. Dũng cảm, kiên định, táo bạo, tỉnh táo, gan góc trong suốt hai cuộc kháng chiến. Một nghị lực, một niềm tin sắt đá, cháy bền bỉ, đã tạo nên một Lư Giang bằng “thép” trên các chiến trường ác liệt.

Trở lại với người con gái nhỏ thiếu cha, mồ côi mẹ từ tấm bé Lê Thị Chinh, đang se sắt ngồi trong phòng khách đơn sơ. Chị kể: “Tôi được ở bên cha, cộng từng giờ cũng chỉ khoảng hơn một năm, lại chia thành nhiều giai đoạn. Cha tôi chủ yếu ở chiến trường. Bố mất, vợ mất - ở chiến trường. Con gái cưới, sinh nở - ở chiến trường. Mọi chuyện học hành, công tác, nơi ăn, nơi ở, chúng tôi tự lo. Mà chủ yếu dựa vào tổ chức”.

Chị Chinh có ba người con gái. Lên chức bà, lại một thân một mình chăm sóc cháu. Chồng chị, bác sĩ quân y, mất vì bệnh nặng. Những ngày con rể ốm, Lư Giang đến thăm, mắng yêu: “Cha mi. Mi chết trước tao là không được đâu. Tao không khóc mi đâu. Cố mà sống chứ, con...”. Lúc ấy, Lư Giang khẽ cười, nụ cười nhăn nheo, hiếm hoi của người lính trận.

Thương bố là thế, mà cũng có lần chị Chinh cự lại bố mình. Ấy là dạo ông mới học ở Liên Xô và Cuba về. Cứ mỗi tháng, ông lại họp toàn bộ đại gia đình lại (vợ và con gái, con rể đều là bộ đội, đảng viên), ra nghị quyết, có thư ký hẳn hoi (thường là người vợ sau của ông).

Cuộc họp luôn diễn ra căng thẳng, kiểm điểm tình hình mọi mặt, đề ra các nhiệm vụ trong tháng, trong quý. Đến lần thứ ba thì cô con gái cả không chịu, bảo thôi cha ơi, đã suốt ngày họp hành ở cơ quan rồi, giờ về lại họp, lại nghị quyết thì mệt lắm, và chị bỏ. Trung tướng Lư Giang nghiêm khắc là thế, cũng cười xòa.

Tôi lặng người trước câu nói của bác Hàn Thị Trang, người vợ sau, người bạn đời thủy chung, son sắt của Trung tướng Lư Giang: “Nhà tôi suốt đời chưa bao giờ có được một ngày nghỉ ngơi, sung sướng”. Khó khăn, gian khổ đã tôi luyện những người phụ nữ trở nên can đảm, kiên cường, biết nhường nhịn, yêu thương, hy sinh vì chồng, vì con, vì cái chung, vì nghĩa lớn.

Đại tá Hàn Thị Trang là điển hình của mẫu người phụ nữ kiên nghị, biết thu xếp mọi công việc trong gia đình, để chồng an tâm công tác. Là vợ một vị tướng trận, hơn ai hết, bà Trang hiểu mình phải làm gì trong những giờ phút khó khăn nhất. Bản thân bà cũng nhiều lần vào chiến trường, lên tuyến đầu chiến đấu, công tác. Trong đại gia đình Trung tướng Lư Giang, bà Trang như một người Chính ủy mềm mỏng và cương quyết. Nhắc đến ông, nhiều lần nước mắt bà nhỏ xuống.

Bà Trang châm mấy nén hương. Khói hương vẽ lên trần nhà những nét trắng đùng đục, ngoằn ngoèo. Khói hương lan tỏa, chia ly, cách trở. Đã bao nhiêu đồng đội của ông hy sinh. Đã bao nhiêu lần bà và ông lặng im bên những nấm mộ liệt sĩ có tên hoặc khuyết danh ở các nghĩa trang trên cả nước. Là một vị tướng trận, ông đã bao đêm thức trắng, tính toán chi li, tiết kiệm từng giọt máu của đồng đội.

Câu chuyện về hai cô con gái của Trung tướng Lư Giang với bà Hàn Thị Trang khiến tôi rất xúc động. Xúc động về đức hy sinh của gia đình vị tướng. Ngay sau đám cưới một thời gian, khi hai cô con gái còn bé bỏng, năm 1964, Lư Giang nhận mệnh lệnh trở lại chiến trường Khu 5, nơi trận chiến đang diễn ra cực kỳ ác liệt. Tạm biệt mái ấm gia đình, Lư Giang lên đường bước vào cuộc chiến đấu. Những đêm đầu trên đường hành quân, hẳn ông không thể nào quên hai con gái bé bỏng và người vợ dịu hiền. Cuộc kháng chiến, một lần nữa, thử thách gia đình người lính.

Chị Lê Thị Hải Lê rất giống cha mình, lặng lẽ, kiên nghị và có phần bướng bỉnh. Hai chị em Hải Lê và Đông Phương sớm có cuộc sống tự lập, từ khi mới năm, sáu tuổi. Ngay sau khi Lư Giang đi chiến trường, năm 1965, theo yêu cầu nhiệm vụ, bà Hàn Thị Trang cũng vào tuyến lửa. Hai đứa trẻ đứng vịn tựa vào nhau, tìm mẹ bên vệ đường lầm bụi đất trong đêm tối. Bà Trang nhớ con, sợ không đi nổi, đã lén đi vào lúc nửa đêm.

Hai chị em bìu ríu chăm sóc nhau, đến năm 1967, được tổ chức gửi sang Trung Quốc học ở Quế Lâm. Khi ấy, Đông Phương còn bé, vào lớp mẫu giáo và Hải Lê vào lớp 1. Nơi đất nước Trung Hoa mênh mông, những đứa trẻ Việt Nam chập chững đến trường, trong tình yêu thương của thầy, của bạn. Đông Phương, cô bé mẫu giáo xinh xinh trường Quế Lâm ngày nào, hiện đã là Đại tá, bác sĩ quân y Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, hẳn không thể nào quên tuổi thơ sớm xa gia đình, sớm đứng trong đoàn thể của mình.

Có những lúc, chị em Hải Lê - Đông Phương hầu như không còn nhớ khuôn mặt cha mình. Năm 1974, trong một lần ra Bắc báo cáo tình hình mặt trận với Bộ Tổng tư lệnh. Lư Giang về thăm con, hai đứa trẻ bấy giờ đã lớn. Hải Lê năm ấy đã 13 tuổi, đứng nép vào góc nhà sợ sệt. Cha đây con! Hai con gái nhỏ lấm lét nhìn người đàn ông đen sạm, khắc khổ, gầy gò đang nhận là cha mình. Hai đứa trẻ nhìn nhau. Đông Phương ngước mắt nhìn chị dò hỏi. Rồi, với sự linh cảm ruột rà, Hải Lê dắt em chạy đến ôm cha. Ba bố con đều khóc. Đêm ấy, Lư Giang không ngủ. Đêm ấy, vợ ông đang ở chiến trường.

Cảm nhận tình cảm của cha mẹ, đặc biệt là người cha dành cho mình, Hải Lê và Đông Phương thường ít nói về những quan tâm bề nổi, mà luôn nhắc đến chiều sâu nhân cách của ông. Ông là một tấm gương về đạo đức sống, lề lối làm việc, tác phong công tác rất chuẩn mực và cao hơn cả, là một tấm lòng nhân văn hiếm thấy. Có lẽ, do đã chứng kiến quá nhiều sự hy sinh của đồng chí, đồng đội, mà ông cực kỳ quý trọng con người, vì con người, coi trọng học đạo làm người là trên hết, hơn mọi thứ phù hoa, phú quý ở đời. Có thể nói rằng, số phận đã giáng vào đời ông, người thân của ông những đòn ghê gớm. Nhưng, cũng chính từ lầm than ấy, ông đã vùng lên, nén đau thương, mất mát, để đứng dậy. Ở ông, nghị lực, ý chí và niềm tin luôn cháy bỏng, bền bỉ và kiêu hãnh, trong suốt cuộc đời binh nghiệp của mình.

Trong những trò chuyện với bác Trang, chị Chinh, chị Lê, chị Phương, tôi như nghe thấy tiếng chim lích rích đâu đó vọng về. Tại sao trò chuyện về chiến trận, không phải là tiếng súng, mà lại là tiếng chim lích rích buổi bình minh được nhỉ? Tiếng chim sẻ, chim ri, chích bông, sáo sậu từ Gàng, Võ Tranh, Lục Nam, Bắc Giang? Hay tiếng chim từ những khu rừng đại ngàn Khu 5? Hay là tiếng chim từ cây khế góc vườn nhà Trung tướng Lư Giang? Không biết từ đâu, nhưng tiếng chim vẫn lích rích len vào tâm trí tôi, một người trẻ tuổi, một thế hệ cầm bút và cầm súng, nối tiếp con đường cha anh lựa chọn. Tiếng chim ấm áp, da diết, vang sâu trong tâm hồn mỗi người ngồi đây, đang nhớ đến ông, một người lính, một vị tướng, một người cha, người chồng bình dị. Có những lúc, mọi người đều im lặng, để tiếng chim thầm hót trong trái tim mình, riêng chung, ngọt ngào, thấm đẫm.

Và, thật kỳ diệu, sau tiếng chim, là ánh nắng chan hòa ùa đến. Nắng lên. Nắng tràn lên những cỏ cây, bảng đồng, bia đá. Nắng bừng lên dưới sắc cờ. Nắng tràn lên các góc phố, nóc nhà, vạt đồi, đỉnh núi, đáy khe. Nắng tung tăng bước chân em nhỏ tới trường, ngôi sao chiến sĩ nơi biên giới, hải đảo. Nắng rọi vào những số phận được-mất, hy sinh, lẫm liệt, vinh quang...