Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2024

Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định đến thành công trong quá trình đổi mới đất nước


Tổng Bí thư, chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định: đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Thực tế, sau gần 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, đến nay Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện... đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. 

Từ cuối những năm 70 thế kỷ XX, đất nước lâm vào khủng hoảng KT-XH ngày trầm trọng kéo dài, sản xuất đình trệ cả trong nông nghiệp và công nghiệp năng suất lao động và hiệu quả kinh tế bị giảm sút nhiều mặt bị mất cân đối. Nghiêm trọng các công cụ đòn bẩy kinh tế chính sách giá cả, tiền tệ, tài chính, tiền lương...đều không phát huy tác dụng dẫn đến lạm phát gia tăng (trên 300% năm 1985 và lên tới 774,7% năm 1986).

Nguyên nhân chủ yếu là: về khách quan, tình hình thế giới và khu vực có những mặt tác động không thuận lợi; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị. Về chủ quan, công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, chưa được quan tâm đúng mức; đổi mới tư duy lý luận chưa kiên quyết, mạnh mẽ, có mặt còn lạc hậu, hạn chế so với chuyển biến nhanh của thực tiễn. Nhận thức, phương pháp và cách thức lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước còn nhiều hạn chế. Một số chính sách không phù hợp thực tiễn, chậm được sửa đổi, bổ sung. Bên cạnh đó, chính sách bao vây, cấm vận của Hoa Kỳ và các thế lực thù địch, đặc biệt là bao vây cấm vận về kinh tế tiếp tục gây ra những khó khăn thách thức đối với nước ta. Cùng với đó, lợi dụng những khó khăn của Việt Nam, các thế lực thù địch ra sức kích động, lôi kéo người vượt biên trái phép và chống phá, kích động đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng.

Trước những yêu cầu cấp thiết của thực tiễn cách mạng, rút kinh nghiệm cải cách, cải tổ ở các nước XHCN, Đại hội lần thứ VI (1986) Đảng cộng sản Việt Nam biểu thị quyết tâm của Đảng, giương cao ngọn cờ chủ nghĩa Mác - Lênin, tiến bước theo con đường do Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phấn đấu hết sức mình vì độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội; đánh dấu bước ngoặt trong sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

 Đại hội đã chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm như: tình hình kinh tế - xã hội đang có những khó khăn gay gắt: sản xuất tăng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; phân phối, lưu thông có nhiều rối ren; những mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp, có mặt gay gắt hơn; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố; đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó khăn; hiện tượng tiêu cực xảy ra ở nhiều nơi và có nơi nghiêm trọng”. Đại hội nghiêm khắc chỉ ra rằng nguyên nhân chủ quan của tình hình trên là do “những sai lầm, khuyết điểm trong sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước”; “đẩy mạnh công nghiệp hoá trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết; vừa nóng vội, vừa buông lỏng trong công tác cải tạo XHCN; chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế không còn phù hợp”, “buông lỏng chuyên chính vô sản trong quản lý kinh tế, xã hội, trong đấu tranh tư tưởng, văn hoá, trong việc chống lại những âm mưu, thủ đoạn phá hoại thâm độc của kẻ thù”.

Đại hội đề x­ướng chủ trư­ơng đổi mới đ­ường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở n­ước ta với những nội dung cơ bản sau: Đổi mới tư duy lý luận; Đổi mới cơ cấu kinh tế; Về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; Đổi mới chính sách đối ngoại, Đổi mới về vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước; Đổi mới nội dung và phong cách lãnh đạo của đảng. Đảng chủ trương tập trung làm tốt đổi mới kinh tế; thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần và cơ chế thị trường, song kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư theo hướng coi trọng nông nghiệp, tập trung thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn; coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ ở nước ta; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển sang hạch toán kinh doanh XHCN, theo cơ chế thị trường. Đồng thời với đổi mới kinh tế, từng bước đổi mới về chính trị; kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; kiên trì CN Mác-Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng...Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội: lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất; thực hiện công bằng xã hội phù hợp với điều kiện thực tế. Nâng cao chất lượng giáo dục. Xây dựng nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Mở rộng và nâng cao chất lượng công tác y tế đáp ứng tốt hơn nhu cầu bảo vệ sức khoẻ của nhân dân. Thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng, chăm lo đời sống của đồng bào các dân tộc. Trên lĩnh quốc phòng, an ninh; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng quân đội nhân dân chính quy và ngày càng hiện đại.  Tăng cường tổ chức bảo vệ chủ quyền, bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Phát huy vai trò và hiệu lực lãnh đạo của Đảng, thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng và an ninh. Trên trên lĩnh vực đối ngoại: Đấu tranh giữ vững hoà bình ở khu vực và trên thế giới. Mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. Thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá trong quan hệ đối ngoại trên cơ sở nguyên tắc: độc lập, thống nhất và CNXH

- Những thanh tựu đạt được sau hơn 30 năm đổi mới, đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Tăng trưởng kinh tế khá; phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN với những nhận thức rõ và đầy đủ hơn vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Dân chủ XHCN được phát huy và ngày càng mở rộng. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Nhận thức về mô hình xã hội XHCN và con đường phát triển đất nước ngày càng rõ hơn, có cơ sở khoa học và hiện thực. Thực hiện các chính sách xã hội ngày càng tốt hơn, nhất là chính sách xóa đói giảm nghèo. Phát triển văn hóa, giáo dục, xây dựng con người được chú trọng, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày cang được nâng cao. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Thực hiện nhất quán và thành công “đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới đã cho thấy, đất nước ta, dân tộc ta đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực; điều đó khẳng định một chân lý, ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay đang đặt ra những thời cơ và thách thức đan xen; đòi hỏi trong quá trình đổi mới Đảng ta phải vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền CNXH; nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thử thách để xây dựng Tổ quốc ta ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn./.

 

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét