Lợi ích quốc gia -
dân tộc là một phạm trù được đề cập rộng rãi trong quá trình hoạch định và
triển khai chính sách đối ngoại của các quốc gia trên thế giới. Các nhà nghiên
cứu quan hệ quốc tế đã đưa ra khá nhiều quan niệm khác nhau về lợi ích quốc
gia, lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia - dân tộc. Tuy nhiên, hầu như các nhà
nghiên cứu đều nhất trí cho rằng, lợi ích quốc gia - dân tộc là giá trị của một
chủ thể có trách nhiệm tự xác định lợi ích của quốc gia, dân tộc mình. Vì vậy,
có thể nói, đây là một khái niệm có tính khái quát hóa cao, bao gồm những nhu
cầu sống còn của quốc gia đó; đó là tự bảo vệ, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, an
ninh quân sự và thịnh vượng về kinh tế. Tháng 3-1848, Thủ tướng Anh Hen-ry
Pan-mơ-xtơn (Henry Palmerston) từng có một phát biểu kinh điển về lợi ích quốc
gia tại Hạ viện Anh: “Không có đồng minh vĩnh viễn, không có kẻ thù vĩnh viễn.
Chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh viễn và nhiệm vụ của chúng ta là theo đuổi
những lợi ích đó”.
Ở Việt Nam, một số
chuyên gia cho rằng, khái niệm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, lợi ích quốc
gia - dân tộc mặc dù có những điểm khác nhau, song được xem là có chung nội hàm
và có thể sử dụng thay thế lẫn nhau. Lợi ích quốc gia là lợi ích chung của cộng
đồng những người sống trên một đất nước, có chung nguồn gốc, lịch sử, phong
tục, tập quán và phần nhiều còn chung cả tiếng nói, chữ viết. Lợi ích quốc gia
thiên về đại diện của giai cấp cầm quyền. Trong khi đó, lợi ích dân tộc bao hàm
tất cả những gì tạo thành điều kiện cần thiết cho sự trường tồn của cộng đồng
với tư cách quốc gia - dân tộc có chủ quyền, thống nhất, độc lập, lãnh thổ toàn
vẹn; cho sự phát triển đi lên về mọi mặt của quốc gia - dân tộc theo hướng làm
cho đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng ngày càng phong phú, tốt đẹp
hơn; cho sự nâng cao không ngừng sức mạnh tổng hợp quốc gia, năng lực cạnh
tranh quốc gia trên trường quốc tế, vị trí, vai trò, uy tín quốc tế của quốc
gia dân tộc. Lợi ích dân tộc là lợi ích của tất cả mọi người dân của một nước.
Do những điều kiện đặc thù nên khái niệm lợi ích quốc gia - dân tộc ở Việt Nam
có hướng tổng hợp cả hai khái niệm trên. Vì vậy, có thể xem lợi ích quốc gia -
dân tộc là toàn bộ những nhu cầu sống còn, trường tồn và phát triển của một
quốc gia đã được nhận thức và biến thành mục tiêu của chính sách đối ngoại trong
quan hệ với thế giới còn lại ở mỗi thời kỳ lịch sử nhất định, là công cụ hết
sức quan trọng trong phân tích chính sách đối ngoại.
Việc xác định đúng
và phù hợp mức độ, thứ tự ưu tiên lợi ích quốc gia - dân tộc là vấn đề hết sức
quan trọng đối với mỗi quốc gia nói chung, Việt Nam nói riêng. Trên thế giới,
các nhà nghiên cứu thống nhất cho rằng, việc sắp xếp mức độ ưu tiên trong các
lợi ích quốc gia - dân tộc phụ thuộc rất lớn vào việc quyết định xem loại lợi
ích nào quan trọng hơn, có tác động mạnh mẽ hơn tới sự tồn vong và phát triển
của quốc gia đó. Một số quốc gia xác định lợi ích theo từng lĩnh vực (chính
trị, an ninh, kinh tế, văn hóa...), thời gian đạt được lợi ích (vĩnh cửu, biến
đổi); một số quốc gia khác xác định lợi ích theo tiêu chí tầm quan trọng (sống
còn, cốt lõi, quan trọng, thứ yếu) hay phạm vi lợi ích (chung, bộ phận, cá
nhân). Những nội hàm này cho phép các quốc gia có cơ sở để xác định những vấn
đề nào là ưu tiên, cốt lõi phải bảo vệ, vấn đề nào có thể thỏa hiệp. Việc sắp
xếp thứ tự ưu tiên giữa các lợi ích cũng góp phần phác họa bức tranh chung về
lợi ích quốc gia - dân tộc của các quốc gia để từ đó đưa ra những giải pháp,
cách thức chính xác nhằm nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia khi thực hiện một
chính sách hay một chiến lược nào đó trong một giai đoạn lịch sử nhất định, đặc
biệt cần có sự bảo vệ “quyết liệt” những lợi ích đó tại thời điểm được cho là
mang tính “sống còn”. Đơn cử như, Trung Quốc xác định lợi ích cốt lõi trong
Sách Trắng về “Phát triển hòa bình của Trung Quốc” (năm 2011), bao gồm chủ
quyền quốc gia, an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất quốc gia, chế
độ chính trị quốc gia mà Hiến pháp Trung Quốc xác lập và cục diện xã hội ổn
định, sự bảo đảm cơ bản của kinh tế - xã hội phát triển bền vững. Trong “Chiến
lược An ninh quốc gia” (năm 2017), Mỹ xác định “nước Mỹ trên hết” với “bốn lợi
ích quốc gia tối quan trọng”, đó là bảo vệ người dân Mỹ, nước Mỹ và lối sống
Mỹ; thúc đẩy sự thịnh vượng của nước Mỹ; bảo vệ hòa bình thông qua sức mạnh;
gia tăng ảnh hưởng của Mỹ. Trong tài liệu “Các nguyên tắc cơ bản về chính sách
Nhà nước Liên bang Nga đối với Bắc Cực đến năm 2035”, Nga đưa ra sáu lợi ích
quốc gia - dân tộc của Nga, trong đó nhấn mạnh “bảo đảm chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ” là mục tiêu cao nhất. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, để có thể tạo
không gian mở, linh hoạt trong quá trình hoạch định và triển khai chính sách
đối ngoại, không phải quốc gia nào cũng công khai các nội hàm lợi ích cụ thể.
Nhìn chung, lợi
ích quốc gia - dân tộc được xem là “hòn đá tảng” hay “kim chỉ nam” của chính
sách đối ngoại. Nội hàm của lợi ích quốc gia - dân tộc đôi khi cũng bao gồm cả
những công cụ được lựa chọn để thực hiện mục tiêu chiến lược và ngoại giao
chính là một trong những công cụ quan trọng giúp hiện thực hóa mục tiêu này. Để
có thể thoát khỏi những “cạm bẫy” trong quá trình xác định và tối ưu hóa lợi
ích quốc gia - dân tộc là vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia, bất
kể lớn hay nhỏ, khi thực tế đã và đang cho thấy, thành công rất nhiều nhưng
thất bại cũng không phải không có.
HAIVAN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét