Đối với Việt Nam,
quan điểm về lợi ích quốc gia - dân tộc có sự kế thừa từ truyền thống lịch sử
của ông cha ta cũng như tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về “đặt lợi ích quốc
gia - dân tộc lên trên hết, trước hết” trong quan hệ đối ngoại mà Việt Nam tiến
hành từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới đến nay. Quan điểm đó được Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định cũng như thể hiện ở mục tiêu xuyên suốt, đó là “độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Theo thời gian, cùng với sự phát triển của
đất nước và biến động của tình hình thế giới, quan điểm về lợi ích quốc gia -
dân tộc liên tục được bổ sung và hoàn chỉnh qua các kỳ Đại hội của Đảng. Trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, lợi ích quốc
gia - dân tộc được coi trọng trong từng chủ trương, chính sách phát triển đất
nước và hoạt động đối ngoại. Đại hội XI của Đảng (năm 2011) lần đầu tiên nêu
lên mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc”. Kế thừa, phát triển quan
điểm đối ngoại trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Nghị quyết Đại hội XII của Đảng
(năm 2016) đã chỉ rõ mục tiêu hoạt động đối ngoại của nước ta phải nhằm “bảo
đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản
của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”. Qua đó, Đảng ta khẳng định:
1- Lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc là thống nhất; 2- Lợi ích quốc gia - dân
tộc của Việt Nam là những lợi ích chính đáng, không phải là những lợi ích vị
kỷ; 3- Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam được xác định trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình
đẳng, hợp tác, cùng có lợi, cùng phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội trên thế giới; 4- Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc
nghĩa là đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trước hết và trên hết, luôn nỗ lực
đạt được lợi ích quốc gia - dân tộc tới mức cao nhất có thể, lợi ích quốc gia -
dân tộc là tiêu chí hàng đầu đánh giá hiệu quả của mọi hoạt động đối ngoại. Đại
hội XIII (tháng 1-2021) của Đảng xác định rõ: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc
gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và
luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”.
Trong giai đoạn
hiện nay, có thể thấy, lợi ích quốc gia - dân tộc cao nhất của Việt Nam là bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ gắn liền với
bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo hộ lợi ích
chính đáng và hợp pháp của công dân cũng như doanh nghiệp Việt Nam trong nước
và ở nước ngoài; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo
vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa dân tộc. Bối cảnh
mới của quốc gia - dân tộc hiện đại còn mở rộng thêm các lợi ích quốc gia - dân
tộc, như: hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển, tự do lưu thông hàng hóa, tự
do hàng hải, tự do hàng không, tự do khai thác tài nguyên phù hợp với luật pháp
quốc tế. Cũng như các quốc gia - dân tộc khác, Việt Nam còn chủ động và tích
cực tham gia giải quyết những vấn đề chung của nhân loại, như chống chiến
tranh, ứng phó với biến đổi khí hậu, dịch bệnh; các thách thức an ninh phi
truyền thống (an ninh biển, an ninh mạng, an ninh năng lượng, an ninh lương
thực, an ninh tiền tệ, tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố...) mà không một quốc
gia nào tự mình đủ sức gánh vác.
Tuy nhiên, trong
điều kiện không gian sinh tồn ngày càng bị thu hẹp, việc mở rộng lợi ích quốc
gia - dân tộc của nước này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích quốc gia - dân
tộc của nước khác. Để giảm thiểu các mâu thuẫn, xung đột, lợi ích quốc gia -
dân tộc phải phù hợp với luật pháp quốc tế, không quốc gia nào tự đặt ra lợi
ích vượt ra ngoài quy định của luật pháp quốc tế mà đe dọa đến lợi ích của quốc
gia khác và ảnh hưởng đến lợi ích của toàn nhân loại. Thực tiễn cho thấy, trên
cơ sở nhất quán đường lối đối ngoại “độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp
tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại”; “chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng”, Việt Nam luôn nghiêm chỉnh tuân
thủ các cam kết quốc tế mà nước ta tham gia, tận dụng hiệu quả các quy tắc,
luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng, khu vực và quốc tế.
Đồng thời, chủ động tích cực đề xuất sáng kiến xây dựng, định hình các thể chế
đa phương trên nguyên tắc cùng có lợi, với phương châm chuyển mạnh từ “tham dự”
sang “chủ động tham gia”; “là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích
cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, nhất là trong quá trình xây dựng
và định hình các quy tắc, cơ chế hợp tác và những luật lệ mới, củng cố và nâng
cao vai trò trong cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Nhìn lại gần 40
năm thực hiện đường lối đổi mới, nhờ đi đúng xu thế của thời đại, tranh thủ tốt
các nguồn lực từ bên ngoài, công cuộc đổi mới của Việt Nam ngày càng đạt được
những thành tựu to lớn trong việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc để nâng
cao vị thế và thực lực của đất nước, góp phần gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc
gia phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
trong tình hình mới.
Tuy nhiên, để bảo
đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, Việt Nam đứng trước nhiều thuận lợi song cũng
đối mặt với không ít khó khăn, thách thức chung và riêng, bao gồm: việc chủ
động, tích cực hội nhập quốc tế và đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại đa phương
hóa, đa dạng hóa ở tầm khu vực và toàn cầu để thực hiện và bảo đảm lợi ích quốc
gia - dân tộc trong bối cảnh diễn ra những thay đổi khó đoán định của tình hình
quốc tế, khu vực; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, các trung tâm quyền
lực tiếp tục diễn ra gay gắt; ở khu vực, vấn đề Biển Đông ngày càng phức tạp,
do sự chồng xếp, đan xen của ba tầng quan hệ (tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và
lợi ích chiến lược biển, đảo giữa các nước láng giềng; cạnh tranh chiến lược
giữa Mỹ - Trung Quốc và can dự của các nước lớn khác; an toàn, tự do hàng hải
và hàng không trong khu vực); hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và
phát triển vẫn là xu thế lớn, song chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân
túy, chủ nghĩa bảo hộ có xu hướng gia tăng..., tác động không nhỏ đến vấn đề
bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc; cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát
triển mạnh mẽ chưa từng có, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cùng
với đó là vấn đề an ninh mạng.
Bối cảnh trên đặt
ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới, phức tạp hơn đối với việc bảo đảm lợi ích
quốc gia - dân tộc, đòi hỏi Việt Nam cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Một là, tiếp
tục triển khai có hiệu quả các chủ trương, quan điểm, đường lối, chính sách đối
ngoại của Đảng và Nhà nước, như: 1- Kiên trì thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có
trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; 2- Tranh thủ cơ hội, tiếp tục đưa các mối quan
hệ quốc tế đi vào chiều sâu, tạo sự đan xen lợi ích của các nước lớn ở Việt
Nam; nâng tầm đối ngoại đa phương, song phương; thực hiện có hiệu quả các hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới...
Hai là, luôn
theo dõi, bám sát diễn biến tình hình, vận dụng phương pháp khoa học để đánh
giá đúng tình hình thế giới, khu vực; nắm bắt, dự báo được các xu hướng trong
quan hệ quốc tế, cũng như mục tiêu chiến lược của các nước, nhất là các nước
lớn đối với khu vực nói chung và Việt Nam nói riêng, để kịp thời đề ra đường
lối, chính sách phù hợp, chính xác, trong đó phải luôn đặt lợi ích quốc gia -
dân tộc lên trước hết, trên hết; bất luận hoàn cảnh nào cũng tránh để rơi vào
thế kẹt giữa các bên, đúng như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bất kỳ hòa
bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn
bị trước”.
Ba là, phát
huy sức mạnh tổng hợp trên cơ sở kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại,
sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế để khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi
nguồn lực đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
bối cảnh mới. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc trong đường lối cách mạng của
Đảng ta, nhất là khi thế giới đang phải đối diện với những thách thức khó lường
và đại dịch COVID-19 đã làm cho những thách thức này càng trở nên phức tạp,
nghiêm trọng hơn.
Bốn là, giải
quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia - dân tộc với lợi ích chung của
cộng đồng quốc tế và lợi ích chính đáng của các quốc gia, dân tộc khác. Hiện
nay, tất cả các nước trên thế giới đều coi trọng, đề cao lợi ích quốc gia - dân
tộc khi thực thi chính sách đối ngoại. Nhưng do mục tiêu phát triển của mỗi
quốc gia, dân tộc khác nhau, nên lợi ích quốc gia - dân tộc của mỗi nước cũng
không hoàn toàn giống nhau, thậm chí đối nghịch nhau. Do vậy, để có môi trường
hòa bình, an ninh và ổn định phục vụ phát triển bền vững cho mỗi quốc gia, dân
tộc, vấn đề quan trọng đặt ra là cần tìm thấy “điểm tương đồng”. Ở đây, điểm
tương đồng chính là sự tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp
quốc và luật pháp quốc tế mà toàn thể nhân loại đã và đang nỗ lực gìn giữ nhằm
điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa quốc gia và các chủ thể trong mọi lĩnh
vực của đời sống quốc tế. Do vậy, kể từ khi ra đời năm 1945, Chính phủ Việt Nam
luôn tôn trọng và bảo vệ những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc
và luật pháp quốc tế, và điều này cũng chính là bảo đảm lợi ích quốc gia - dân
tộc của Việt Nam, đồng thời bảo đảm hài hòa với lợi ích của các đối tác, lợi
ích chung của cộng đồng khu vực và quốc tế.
Năm là, tiếp
tục tạo dựng và phát triển hình ảnh Việt Nam là một quốc gia “có trách nhiệm”,
“đối tác tin cậy”. Đây là mục tiêu vừa mang tính đối nội, vừa mang tính đối
ngoại. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, một quốc gia được cho là
phát triển và giàu mạnh luôn là quốc gia sở hữu những thương hiệu mạnh trên thị
trường quốc tế. Để hội nhập thành công cũng như tận dụng được các cơ hội mà hội
nhập quốc tế đem lại, nhất là khi tham gia các hiệp định thương mại tự do, Việt
Nam cần xây dựng một chiến lược phát triển các thương hiệu quốc gia mạnh nhằm
phát huy hiệu quả các nguồn lực và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh
tế, doanh nghiệp và hàng hóa - dịch vụ, từ đó nâng cao giá trị các thương hiệu
cũng như hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần tăng cường sức mạnh
tổng hợp quốc gia.
Sáu là, bảo
đảm an ninh và phát triển cho người dân trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Quốc
gia - dân tộc Việt Nam là một cộng đồng thống nhất, tạo nên sức mạnh tổng hợp
để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và phát triển kinh tế. Lợi ích
của cộng đồng dân tộc cũng bao hàm lợi ích của mỗi cá nhân con người, an ninh
quốc gia cũng không thể tách rời an ninh con người. Các hoạt động đối ngoại,
xét cho cùng, là nhằm mang lại quyền lợi cho người dân, tạo điều kiện cho người
dân có cơ hội phát triển toàn diện. Nhìn rộng ra trong khu vực, mục tiêu này
phù hợp với bối cảnh các nước ASEAN đang nỗ lực xây dựng một Cộng đồng ASEAN
hướng tới người dân và “lấy người dân làm trung tâm”.
Bảy là, nâng
cao hiệu quả công tác nghiên cứu, củng cố và phát triển lý luận, thông tin
tuyên truyền, nhất là thông tin đối ngoại trong tình hình mới đối với việc bảo
đảm lợi ích quốc gia - dân tộc; tận dụng hiệu quả sức mạnh của công nghệ thông
tin và truyền thông nhằm xúc tiến liên tục, bền bỉ các chương trình truyền
thông về văn hóa, đất nước, con người Việt Nam; về chủ quyền của Việt Nam trong
lịch sử và hiện tại..., giúp nâng cao hình ảnh và tranh thủ sự ủng hộ của các
nước, nhân dân trên thế giới đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền cũng như xây
dựng và phát triển đất nước Việt Nam.
Tóm lại, trong mọi
giai đoạn của cách mạng Việt Nam, lợi ích quốc gia - dân tộc vừa là mục tiêu,
vừa là phương châm và động lực phát triển. Những thành tựu của đất nước ngày
nay là minh chứng rõ nét cho thấy quan điểm đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên
trên hết, trước hết của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn, sáng suốt; là điều kiện
thuận lợi để Việt Nam tiếp tục phát huy vị thế, lựa chọn những kế sách phù hợp
trong bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc.
HAIVAN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét