Trong bản Di chúc thiêng
liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng, mà đặc biệt là
tự phê bình và phê bình, được Người đề cập và xác định là việc làm trước tiên
sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giành thắng lợi. Những di huấn quan
trọng này của Người vẫn vẹn nguyên giá trị, tiếp tục soi sáng công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.
Theo
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê
bình là tất yếu khách quan, quy luật tồn tại và phát triển của Đảng; là việc
tuyệt đối cần thiết cho tất thảy mọi chính đảng sống và đầy sức sống; là vũ khí
sắc bén nhất giúp cho Đảng ta mạnh và ngày càng thêm mạnh; là thang thuốc hay
nhất “trị bệnh cứu người”. Nếu sợ tự phê bình, che giấu sai lầm, khuyết điểm
thì không phải là người cách mạng, không phải là đảng chân chính cách mạng.
V.I.Lênin chỉ rõ: “kiêu ngạo cộng sản” là một căn bệnh nguy hiểm, nguy cơ trực
tiếp đe dọa sự tồn vong của đảng và chế độ. Vấn đề có tính quy luật là tất cả
các đảng cách mạng, cán bộ, đảng viên tự cao tự đại, không biết cách nhìn rõ
cái gì tạo nên sức mạnh của mình, sợ sệt không dám công khai thừa nhận sai lầm,
vạch rõ nguyên nhân sai lầm và phân tích hoàn cảnh sai lầm để sửa chữa, thì
đảng đó sớm hay muộn sẽ hỏng. Tự phê bình và phê bình là nguyên lý căn bản giúp
đảng cầm quyền tự hoàn thiện mình, trở thành một đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc
chắn, chân chính.
Tự
phê bình và phê bình được Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn đến và gương mẫu thực hiện
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Người chỉ rõ: khi Đảng ta trở thành
đảng cầm quyền thì tự phê bình và phê bình trong Đảng là điểm mấu chốt vì:
“Đảng ta không phải trên trời sa xuống, mà từ trong xã hội sinh ra”; đảng viên
và cán bộ cũng là người, ai cũng có tính tốt và tính xấu. Thói xấu cũng như
chứng bệnh. Phê bình cũng như uống thuốc. Có bệnh mà giấu, không dám uống
thuốc, thì bệnh ngày càng nặng. Với tinh thần đó, trong Di chúc, Người viết:
“Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự
phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn
kết và thống nhất của Đảng”.
Thực
hiện Di chúc của Bác, trong 55 năm qua, có không ít tập thể, cá nhân làm tốt tự
phê bình và phê bình, trở thành điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, được xã hội ghi nhận, tôn vinh.
Song, bên cạnh đó, việc tự phê bình và phê bình trong Đảng vẫn còn hạn
chế, “Tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn còn tình
trạng nể nang né tránh, ngại va chạm; một số cán bộ, đảng viên thiếu tự giác
nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao”.
Để
tạo bước chuyển mới, tích cực hơn nữa trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
chúng ta cần hiểu thấu và làm đúng tự phê bình và phê bình trong Đảng theo Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh; trong đó, tập trung vào những nội dung chủ yếu
sau.
Một
là, nhận
thức đúng mối quan hệ giữa tự phê bình và phê bình. Trong thực hiện hai nội
dung này, có ý kiến cho rằng, Bác luôn đặt tự phê bình trước phê bình để nhấn
mạnh tự phê bình quan trọng hơn phê bình. Nhận thức như vậy không đúng. Bởi,
trong nhiều trường hợp Bác đặt phê bình trước tự phê bình, như: Bài nói tại Hội
nghị Trung ương chuẩn bị cho Đại hội lần thứ II của Đảng (ngày 10/5/1950) có
mục “phê bình và tự phê bình”; hay bài viết “phê bình và tự phê bình” của Bác,
năm 1957, v.v. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Bác viết: “phê bình mình
cũng như phê bình người” tức là phê bình bao hàm cả tự phê bình và phê bình.
Như vậy, tự phê bình và phê bình cần được hiểu là hai mặt của một vấn đề, như
“hai cánh của một con chim”. Theo Bác, nói tự phê bình trước vì chúng ta phải
“tiên trách kỷ, hậu trách nhân”; đồng thời, yêu cầu mọi người phải thẳng thắn
phê bình: “Tự phê bình rồi lại phải phê bình người khác nữa”.
Những
luận giải của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy tự phê bình và phê bình đều quan
trọng và cần thiết như nhau. Hiện nay, trong sinh hoạt, các cấp ủy, tổ chức
đảng phải chú trọng, quan tâm đúng mức cả hai mặt này như lời căn dặn: “... các
cán bộ, các đảng viên, mỗi người mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm
và kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự
sửa chữa, và giúp đồng chí mình sửa chữa. Phải như thế, Đảng mới chóng phát
triển, công việc mới chóng thành công”.
Hai
là, tự
phê bình và phê bình phải bảo đảm tính dân chủ rộng rãi. Hồ Chí Minh chỉ
rõ: “Phê bình là quyền lợi và nhiệm vụ của
mọi người, là thực hành dân chủ. Cấp dưới có quyền phê bình
cấp trên. Nhân dân có quyền phê bình cán bộ, phê bình chính quyền, Đảng và các
đoàn thể”. Dân chủ rộng rãi trong thảo luận và phê bình tức là phải đường
hoàng, chính đáng: “mọi người được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng
hoặc không đúng cũng vậy. Song không được nói gàn, nói vòng quanh”. Ngược lại,
nếu không dân chủ thì: “... các đảng viên và các cán bộ dù có ý kiến cũng không
dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ, không dám phê bình. Thành
thử cấp trên với cấp dưới cách biệt nhau. Quần chúng với Đảng rời xa nhau”. Rõ
ràng, không dân chủ trong phê bình là hết sức nguy hại.
Để
thực hành dân chủ được rộng rãi thì vai trò của cấp ủy, người đứng đầu rất quan
trọng. Theo Bác, người lãnh đạo muốn biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của mình,
muốn biết công tác của mình tốt hay xấu, không gì bằng khuyên cán bộ mình mạnh
bạo đề ra ý kiến và phê bình. Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta nhấn mạnh: “Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy đảng, cán bộ chủ
chốt, nhất là cấp Trung ương, người đứng đầu làm trước và phải thật sự gương
mẫu”; “nghiêm túc tự kiểm điểm, tự phê bình, nêu gương bằng hành động thực tế”.
Là người luôn tâm huyết, tận trung với Đảng, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
từng đúc rút: “Kinh nghiệm cho thấy muốn tự phê bình và phê bình có kết quả
tốt, điều quan trọng là phải thật sự phát huy dân chủ trong Đảng, người đứng
đầu phải gương mẫu và phải có các hình thức dân chủ để quần chúng đóng góp phê
bình cán bộ, đảng viên và phải nghiêm túc tiếp thu những ý kiến phê bình đúng
đắn”.
Ba
là, cách
thức tự phê bình và phê bình phải thường xuyên, nghiêm chỉnh dựa trên tình đồng
chí, thương yêu lẫn nhau. Đây là sự đúc kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
suốt mấy chục năm rèn luyện Đảng ta. Tự phê bình và phê bình phải thường xuyên,
như mỗi ngày phải rửa mặt, để trong Đảng không có bệnh và Đảng mạnh khỏe. Người
căn dặn: “Người cách mạng và đoàn thể cách mạng cần phê bình và tự phê bình
thiết tha như người ta cần không khí. Cách mạng sở dĩ phát triển mãi, tiến bộ
mãi, càng gặp nhiều gian khổ càng mạnh mẽ thêm, là nhờ có phê bình và tự phê
bình”. Phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh là phải hết sức đúng đắn và chặt
chẽ. Phê bình nghiêm chỉnh là phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nói bóng
bẩy, không nể nang, không thêm bớt; phải vạch rõ cả ưu và khuyết điểm với thái
độ đúng mực. Chính sự nghiêm chỉnh là biểu hiện rõ nét nhất của tình đồng chí
thương yêu lẫn nhau, vì chỉ có lòng thân ái, lòng thành thật thì mới ráo riết
phê bình đồng chí mình một cách nghiêm chỉnh. Nghiêm chỉnh không có nghĩa là
cứng nhắc, mà là phải: “... biết cách phê bình sáng suốt, khôn
khéo, như chiếu tấm gương cho mọi người soi thấu những khuyết điểm của mình để
tự mình sửa chữa”. Chúng ta phải: “Luôn luôn dùng và khéo dùng cách
phê bình và tự phê bình, thì khuyết điểm nhất định sẽ hết dần, ưu điểm nhất
định thêm lên và Đảng ta nhất định thắng lợi”.
Quan
điểm của Bác về phê bình và tự phê bình được Đảng ta quán triệt sâu sắc trong
các nghị quyết chuyên đề về xây dựng Đảng; trong đó, nhấn mạnh đổi mới nội
dung, hình thức để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Đảng ta chỉ rõ: “Xây
dựng quy định tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh,
ngại va chạm và bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu tranh; cấp trên gợi ý kiểm
điểm và trực tiếp dự, chỉ đạo ở những nơi có vấn đề phức tạp, nơi có biểu hiện
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”. Rút kinh nghiệm của những nơi làm qua loa, đại khái, Đảng ta yêu cầu cần
thực hiện nghiêm chỉnh việc tự phê bình và phê bình, đó là: “Hết sức tránh làm
lướt, làm qua loa, hình thức, chiếu lệ. Khắc phục tình trạng xuê xoa, nể nang,
thậm chí biến cuộc họp phê bình và tự phê bình thành nơi vuốt ve, ca tụng lẫn
nhau; cũng như tình trạng lợi dụng dịp này để “đấu đá”, “hạ bệ” nhau với những
động cơ không trong sáng. Nghiêm khắc xử lý những trường hợp trù dập phê bình
và vu cáo người khác”. Điều này, đang được cấp ủy, tổ chức đảng các cấp quán
triệt, triển khai thực hiện để nâng cao chất lượng sinh hoạt tự phê bình và phê
bình.
Bốn
là, mục
đích của tự phê bình và phê bình là để đoàn kết và đi tới thắng
lợi của cách mạng. Phê bình để giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, để tiến bộ,
để đoàn kết và thống nhất nội bộ. Phê bình và tự phê bình là một khâu trong
công tác chỉnh đốn Đảng, mà mục đích chỉnh đốn Đảng theo Hồ Chí Minh là nhằm:
“... làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm
vụ đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy,
thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”.
Trong Di chúc của mình, Người cũng đã chỉ rõ, tự phê bình và phê bình là cách
tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Chính nhờ
sự đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân
dân, phục vụ Tổ quốc nên Đảng ta mới tập hợp, đoàn kết và lãnh đạo nhân dân
giành được thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đúc kết một cách ngắn gọn, thì mục
đích gần của phê bình là tạo sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; mục đích xa là
vì sự thắng lợi của cách mạng. Đại đoàn kết sẽ dẫn tới đại thành công. Đó là
vấn đề mà trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, Đảng ta và cố Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn nhấn mạnh, đề cao tự phê bình và phê bình, nêu cao
tính tiền phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ
trì các cấp. Bởi vì, chỉ có thực hiện tốt tự phê bình và phê bình thì Đảng ta
mới không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu, thực sự
có sức mạnh, bản lĩnh, trí tuệ - nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét