Vấn đề Biển Đông luôn “nóng” không chỉ
riêng với các quốc gia có chủ quyền tại đây mà còn là sự kiện được cộng đồng quốc
tế quan tâm. Đồng thời, đây cũng chính là mảnh đất để các thế lực thù địch, bất
mãn, cơ hội chính trị lợi dụng để xuyên tạc, kích động chống phá Đảng, Nhà nước.
Gần
đây, trên mạng xã hội, các tổ chức khủng bố, phản động như “Việt Tân”, “Đảng
Dân chủ nhân dân”, “Đảng Vì dân”, “Chính phủ Quốc gia Việt Nam lâm thời” tăng
cường các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước ta.
Một số chiêu trò điển hình như: Lấy cớ việc
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ bác bỏ yêu sách chủ quyền trên Biển Đông để tán dương, ca
tụng và đòi thả tự do cho các đối tượng có hành vi chống Nhà nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam như Lê Đình Lượng, Nguyễn Năng Tĩnh, Nguyễn Văn Hóa, Trần Hoàng Phúc…
Khuếch trương “thành tích chống Cộng”, họ tự cho mình có vai trò trong việc hướng
lái nhân dân chống lại âm mưu và hành động của Trung Quốc tại Biển Đông, qua đó
xuyên tạc quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề Biển Đông, cổ súy cho
việc “bài Trung, thân Mỹ”.
Từ thực tiễn trên, chúng ta cần có cách
nhìn nhận đúng đắn vấn đề này.
Trước hết, mọi công dân đều bình đẳng trước
pháp luật, không phân biệt đối xử, mọi hành vi phạm tội đều phải bị xử lý theo
luật định, trong đó có hành vi chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Lợi dụng
cái gọi là “tự do ngôn luận”, các thế lực thù địch thường chụp mũ đối tượng phạm
tội xâm phạm an ninh quốc gia thành “tù nhân lương tâm”, từ đó kêu gọi, gây sức
ép đòi thả tự do.
Các đối tượng đăng tải, chia sẻ các bài viết,
video, hình ảnh có nội dung tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước, phỉ báng chính quyền nhân dân; xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ lãnh tụ,
chế độ XHCN, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân. Cho nên, các đối tượng phạm tội phải bị xử theo luật định, không thể
quy chụp thành “tù nhân lương tâm”, việc kêu gọi thả tự do cho các đối tượng
trên hoàn toàn vô lý, lố bịch.
Thứ hai, quan điểm của Việt Nam về giải
quyết vấn đề Biển Đông là rõ ràng, nhất quán. Nghị quyết Ðại hội XII của Ðảng
khẳng định: “...Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hoà
bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự,
an toàn xã hội.
Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối
ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc
tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên
trường quốc tế”.
Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về “dĩ bất
biến, ứng vạn biến”, trước những thách thức của thời cuộc, chúng ta luôn quán
triệt và vận dụng sáng tạo, phù hợp tư tưởng ấy của Bác; lấy việc giữ vững
nguyên tắc độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, bảo vệ, giữ vững chủ quyền quốc
gia, trong đó có chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông.
Thực tiễn đã chứng minh, trong bối cảnh
Trung Quốc thường xuyên có các hành động xâm phạm quyền, chủ quyền của Việt Nam
trên Biển Đông, Đảng, Nhà nước ta đã chủ trương giải quyết thông qua thương lượng
hoà bình trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với
luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước về Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc,
Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), nhằm tìm kiếm một giải
pháp cơ bản và lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của các bên, tiến tới xây dựng
Biển Đông thành vùng biển hòa bình, hợp tác và phát triển.
Thực tế cho thấy, bằng chủ trương giải quyết
các vấn đề liên quan chủ quyền ở Biển Ðông thông qua biện pháp hoà bình trên
tinh thần hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là
Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả
thoả thuận quan trọng với các nước trong khu vực và giữ vững chủ quyền biển, đảo
của Tổ quốc.
Thứ
ba, việc Bộ Ngoại giao Mỹ và một số nước khác lên tiếng công khai phản đối
Trung Quốc, ủng hộ Việt Nam về tình hình Biển Ðông. Đây là vấn đề Việt Nam và
các quốc gia có chủ quyền trên Biển Đông cũng như cộng đồng quốc tế hoan
nghênh. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động đã lợi dụng sự kiện trên để
kích động Việt Nam theo Mỹ, chống Trung Quốc.
Về
vấn đề này cần quán triệt sâu sắc quan điểm đối tác, đối tượng của Đảng, đó là:
“Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị,
hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào
có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta.
Mặt
khác, trong tình hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay, cần có cách
nhìn biện chứng: Trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác;
trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu
tranh”. Xác định đúng đối tượng, đối tác của Việt Nam là vấn đề hết sức quan trọng,
là cơ sở để đề ra đường lối đối nội, đối ngoại cùng với chiến lược xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng là một vấn đề khá “nhạy cảm” trong quan hệ quốc tế.
Nhưng
không phải vì thế mà chúng ta né tránh, để rồi rơi vào trạng thái mơ hồ, mất cảnh
giác, mất tính chiến đấu và khó có thể vạch ra chủ trương, chiến lược, sách lược
đúng đắn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đối với vấn đề tranh chấp trên Biển
Ðông hiện nay cũng vậy, chúng ta phải đặc biệt tỉnh táo trước chiêu bài của các
phần tử thù địch, phản động. Cảnh giác không thể trở thành con bài chính trị,
nhất là của các nước lớn, điều đó sẽ hết sức nguy hiểm cho lợi ích quốc gia,
dân tộc.
Thứ
tư, âm mưu và hành động độc chiếm Biển Ðông của Trung Quốc là hết sức rõ ràng,
đòi hỏi chúng ta phải luôn đấu tranh mạnh mẽ, bền bỉ, không khoan nhượng, sử dụng
biện pháp hòa bình, theo luật pháp quốc tế. Giữ vững môi trường hoà bình, ổn định
để phát triển đất nước, giữ vững mối đoàn kết, bang giao với tất cả các nước;
không để xảy ra xung đột, chiến tranh.
Việt
Nam không để lệ thuộc về kinh tế; không để bị cô lập, chi phối về chính trị;
không để bị lôi kéo đi theo nước này để chống lại nước khác; không để đối đầu về
quân sự, không tham gia liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống
nước kia, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt
Nam để chống lại nước khác, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực
trong quan hệ quốc tế.
Chúng
ta kiên quyết, kiên trì, khôn khéo, không khiêu khích, không mắc mưu khiêu
khích; kiềm chế, không để nước ngoài lấn chiếm và tránh không để xảy ra xung đột,
đụng độ. Vì vậy, quan điểm “bài Trung, thân Mỹ” hoàn toàn không có trong đường
lối đối ngoại hay trong quan điểm giải quyết vấn đề Biển Đông của Đảng, Nhà nước
ta.
Giá
trị của hòa bình được đổi bằng biết bao xương máu của các thế hệ ông cha. Do
đó, chúng ta phải biết trân trọng, nâng niu, giữ gìn. Dân tộc Việt Nam yêu chuộng
hòa bình, hơn lúc nào hết chúng ta thấu hiểu nỗi đau mà chiến tranh gây ra. Do
đó, chúng ta bằng mọi biện pháp duy trì hoà bình, ổn định để phát triển; trường
hợp chiến tranh là bất khả kháng để tự vệ nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Thực
tiễn cho thấy, mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch hòng gây mất ổn định,
mất đoàn kết trong nước và quốc tế, làm tổn hại lợi ích quốc gia, dân tộc. Do vậy,
mỗi người dân cần tỉnh táo, bình tĩnh, không để kẻ xấu lợi dụng lôi kéo, kích động;
cần thực hiện nghiêm đường lối, chủ trương, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà
nước về vấn đề Biển Đông, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc biển, đảo của Tổ
quốc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét