Kêu gọi Việt Nam thay đổi thể chế chính trị hiện nay là một thủ đoạn rất thâm độc của các thế lực thù địch, nhằm kích động tư tưởng đòi thiết lập chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, hướng lái đất nước đi theo thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Đó là những lời kêu gọi rất nguy hiểm, cần cảnh giác và kiên quyết đấu tranh, bác bỏ.
Thủ đoạn này không mới, nhưng lại được các thế lực thù địch “hâm nóng” khi Nhà nước ta có những thay đổi nhân sự lãnh đạo ở cấp cao nhất và Đảng ta đang bước vào thời gian tiến hành đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV, đất nước chuẩn bị bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Để thực hiện thủ đoạn này, các thế lực thù địch thường tung ra rất nhiều luận điệu xuyên tạc về thể chế chính trị ở nước ta gắn với sự độc tôn lãnh đạo xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đơn cử, họ cho rằng: “Thể chế chính trị với một đảng (Đảng Cộng sản Việt Nam) lãnh đạo thì không có dân chủ, cản trở sự phát triển của đất nước và là nguyên nhân của tham nhũng”, hay “một đảng cầm quyền thì không thể có dân chủ, chỉ dẫn đến độc tài, độc trị” (!). Từ đó, họ kêu gọi: “Cần loại bỏ sự toàn trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng” (!). Gần đây, lợi dụng phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XV, ngày 21/10/2024: “Trong ba điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là thể chế, hạ tầng và nhân lực thì thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn”, các thế lực thù địch xuyên tạc và kêu gọi “đã đến lúc phải xóa bỏ điểm nghẽn của điểm nghẽn đó” (!). Trắng trợn hơn, ngày 25/10/2024, tổ chức khủng bố Việt Tân đăng trên trang facebook của mình rằng: “Điểm nghẽn sự phát triển của Việt Nam là Điều 4 Hiến pháp (Hiến pháp 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam)”, do vậy “Chỉ cần quất một phát cho Điều 4 Hiến pháp đi chỗ khác chơi là giải quyết được mọi vấn đề của đất nước” (!), v.v. Mục tiêu của tất cả những luận điệu xuyên tạc, sai trái nói trên đều hướng tới cổ vũ cho lời kêu gọi chuyển đổi thể chế chính trị hiện hành sang thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Những luận điệu đó thật thâm độc, hoàn toàn sai trái, cần kiên quyết đấu tranh, bác bỏ.
Trước hết, quan điểm “một đảng cầm quyền chỉ dẫn đến độc tài, mất dân chủ, cản trở sự phát triển”, còn “đa đảng đồng nghĩa với dân chủ, phát triển” là hoàn toàn không có cơ sở khoa học. Trên phương diện lý luận, dân chủ và phát triển không phụ thuộc vào thể chế chính trị đa nguyên, đa đảng, hay do một đảng cầm quyền - lãnh đạo xã hội. Nói cách khác, một quốc gia thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng không hẳn là có dân chủ, không dẫn tới độc tài; ngược lại, một nước chỉ duy nhất có một đảng lãnh đạo - cầm quyền, cũng không có nghĩa rằng đó là chế độ độc tài, mất dân chủ. Do vậy, không phải cứ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập thì mới có dân chủ và không có đa nguyên, đa đảng thì không có dân chủ. Bởi, bản chất của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Theo đó, một đất nước có thể chế dù là nhất nguyên hay đa nguyên, một đảng hay nhiều đảng, nhưng nếu chính đảng cầm quyền và nhà nước bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân thì xã hội đó có dân chủ thực sự. Mặt khác, ở các nước theo thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa, về hình thức là dựa trên chế độ đa đảng, nhưng về bản chất vẫn dựa trên sự nhất nguyên chính trị; nghĩa là vẫn dựa trên chế độ một đảng - đảng tư sản. Đảng tư sản nào cầm quyền cũng là kết quả sự phân chia quyền lực giữa các phe phái của giai cấp tư sản, đại diện và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản là chủ yếu.
Trên phương diện thực tiễn, có thể thấy ở nhiều quốc gia trên thế giới theo chế độ đa đảng nhưng vẫn mất dân chủ, chính trị không ổn định, vẫn là những nước nghèo, kém phát triển, điển hình như nhiều nước ở châu Phi. Trong khi đó, nhiều quốc gia chỉ có một đảng lãnh đạo nhưng chính trị ổn định, dân chủ được phát huy, kinh tế - xã hội vẫn phát triển, đời sống nhân dân được đảm bảo và ngày càng cải thiện, như ở Trung Quốc và Việt Nam hiện nay. Lịch sử thế giới trong thế kỷ XX cũng cho thấy, trong những giai đoạn lịch sử nhất định, chính thể chế chính trị đa nguyên, đa đảng lại gắn liền với các chế độ độc tài, hạn chế dân chủ như chế độ độc tài của Hitle ở nước Đức quốc xã, Mussolini ở nước Ý phát xít, Park Chung-hee ở Hàn Quốc, Pinochet ở Chile, Suharto ở Indonesia, v.v. Mặt khác, lịch sử cũng ghi nhận thời kỳ Tổng thống Park Chung-hee cầm quyền (1961 - 1979), duy trì chế độ độc tài, nhưng kinh tế Hàn Quốc vẫn có sự phát triển thần kỳ; từ một quốc gia đói nghèo với thu nhập bình quân đầu người năm 1961 chỉ 94 USD/năm đã tăng lên đến 1.784 USD/năm vào năm 1979, trở thành “con Rồng châu Á”. Điều đó cho thấy luận điểm “chế độ đa đảng thì có dân chủ và phát triển, còn một đảng thì mất dân chủ và cản trở sự phát triển” không thể đứng vững. Việc duy trì chế độ một đảng lãnh đạo - cầm quyền, hay đa đảng phụ thuộc vào những điều kiện chính trị, lịch sử, xã hội, văn hóa, tôn giáo,… cụ thể của mỗi dân tộc; và mỗi quốc gia, dân tộc lựa chọn thể chế chính trị nào, đa đảng hay một đảng là quyền tự quyết của quốc gia, dân tộc đó. Điều này hoàn toàn phù hợp với Điều 1 của cả Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị cũng như Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa mà Liên hợp quốc đã thông qua.
Thứ hai, coi tham nhũng là “căn bệnh kinh niên” của chế độ một đảng cầm quyền cũng là luận điểm hoàn toàn sai trái. Bởi lẽ, về mặt lý luận, tệ nạn tham nhũng là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực; ở đâu có quyền lực, ở đó có nguy cơ xảy ra tham nhũng, một khi quyền lực bị lạm dụng. Tham nhũng là “căn bệnh” của nhà nước, do quyền lực nhà nước bị thao túng, tha hóa gây ra; có nhà nước là có tham nhũng, không phân biệt nhà nước đó tổ chức theo thể chế chính trị đa đảng hay một đảng. Mặt khác, nếu quyền lực được kiểm soát chặt chẽ với cơ chế quản lý, phòng ngừa đồng bộ, ngày càng hoàn thiện, thì tình trạng tham nhũng sẽ được kiểm soát và hạn chế tối đa. Do đó, chế độ một đảng lãnh đạo - cầm quyền không phải là nguyên nhân sinh ra tham nhũng và cũng không phải là không thể chống được tham nhũng. Về mặt thực tiễn, ở các nước theo chế độ tư bản chủ nghĩa, duy trì chế độ đa đảng, tham nhũng vẫn tồn tại; thậm chí một số nguyên thủ quốc gia (như ở: Tunisia, Hàn Quốc, Malaysia, Philippin, Indonesia, Pakixtan, Brazil,…) cũng dính vào tội tham nhũng. Chẳng thế mà hằng năm, Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI) đều công bố chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) trong khu vực công, để cung cấp cái nhìn tổng quát về mức độ tham nhũng tương đối của 180 quốc gia và vùng lãnh thổ, chủ yếu là các quốc gia đi theo thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa, thực hiện chế độ đa đảng. Nhìn vào bảng xếp hạng CPI năm 2023 (công bố ngày 30/01/2024) có thể thấy rất rõ quốc gia nào cũng có tham nhũng, chỉ khác nhau ở mức độ nghiêm trọng, bởi không có quốc gia nào đạt được điểm 100 (tức là không có tham nhũng). Những nước đứng đầu bảng xếp hạng CPI là Đan Mạch, Phần Lan và New Zealand, cũng chỉ đạt lần lượt là 90, 87, 85 điểm, nghĩa là vẫn có tham nhũng. Còn những nước đứng cuối bảng là: Somalia, Syria và Nam Sudan chỉ đạt từ 11 đến 13 điểm, đều là các nước theo thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Bảng xếp hạng còn cho biết trong giai đoạn 2012 - 2023, có 34 quốc gia đã giảm đáng kể về chỉ số CPI, nghĩa là tham nhũng ở những nước này có xu hướng gia tăng, trong đó có Thụy Điển, Vương quốc Anh - những nước theo chế độ đa đảng. Điều đó chứng tỏ luận điểm “chế độ một đảng là nguyên nhân tham nhũng” chỉ là sự xuyên tạc, bịa đặt, không có cơ sở khoa học và thực tiễn vững chắc.
Ở nước ta, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đến nay, sự lãnh đạo độc tôn của Đảng luôn là nhân tố đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đó là sự lựa chọn khách quan, khắt khe của lịch sử trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc và xây dựng đất nước trong hòa bình. Do vậy, nói “Chế độ độc đảng là nguyên nhân tham nhũng, cản trở dân chủ và phát triển” là sự xuyên tạc, bịa đặt, coi thường tính khách quan của lịch sử. Trên thực tế, Đảng Cộng sản Việt Nam là người đại diện chân chính duy nhất cho lợi ích và nguyện vọng của nhân dân lao động, của cả dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống, quyền tự do, dân chủ và quyền mưu cầu hạnh phúc. Ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, không một lực lượng chính trị nào ở Việt Nam có thể đưa ra cương lĩnh, đường lối đúng đắn để tập hợp được mọi tầng lớp nhân dân trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Lịch sử đã ghi nhận rằng, trong mấy chục năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nhân dân ta đã liên tục vùng lên dưới ngọn cờ lãnh đạo của các giai cấp: phong kiến, tiểu tư sản và tư sản dân tộc để đấu tranh chống thực dân Pháp, nhằm giành lại độc lập cho dân tộc, nhưng không có lấy một thành công. Bởi, các ngọn cờ đó không phù hợp với xu thế của thời đại, không đưa ra được đường lối đúng đắn cho phép giải quyết các mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam, không thỏa mãn được lợi ích và nguyện vọng chính đáng của cả dân tộc, nên không tập hợp được sức mạnh của cả dân tộc. Chính sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, với vai trò kiệt xuất của lãnh tụ Hồ Chí Minh, đã tạo ra bước ngoặt căn bản trong phong trào yêu nước của dân tộc ta lúc đó; đánh dấu sự kết thúc thời kỳ khủng hoảng đường lối cứu nước của dân tộc, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945; tiếp đó là giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cũng chính Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục độc tôn lãnh đạo nhân dân cả nước đánh bại mọi chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất nước nhà, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp đó, trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cũng chính Đảng Cộng sản Việt Nam là người khởi xướng và lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới nhằm mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới gần 40 năm qua đã giành được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; lợi ích quốc gia, dân tộc được bảo đảm. Nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 trong 200 quốc gia trên toàn thế giới; xây dựng được các mối quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với tất cả các cường quốc trên thế giới và khu vực. Hai lần được bầu làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008 - 2009 và 2020 - 2021); hai lần đảm trách nhiệm vụ thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 - 2016 và 2023 - 2025); từ năm 2014, bắt đầu tham gia vào sứ mệnh gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc là minh chứng vững chắc khẳng định vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam trên trường quốc tế. Trên lĩnh vực kinh tế, nước ta đã là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới từ năm 2007; đến nay đã có quan hệ thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việc thực hiện đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đem lại những thành tựu to lớn. Từ chỗ phải nhập khẩu lương thực, nay chúng ta đã đứng vào nhóm nước hàng đầu thế giới về xuất khẩu lương thực và nhiều mặt hàng khác. Nước ta đã ra khỏi tình trạng kinh tế kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình. Quy mô và tiềm lực kinh tế của đất nước không ngừng tăng lên, từ chỗ chỉ đạt 6,3 tỉ USD vào năm 1989, thì đến năm 2024 đạt 476,3 tỉ USD, đứng thứ 32 nền kinh tế lớn nhất thế giới, trong nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài. Nhờ đó, đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người trong những năm đầu đổi mới chỉ khoảng 250 USD/năm, thì đến năm 2024 đạt 4.700 USD, đứng thứ năm trong ASEAN. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh từ 58% năm 1993 xuống còn 1,93% năm 2024 theo chuẩn nghèo đa chiều, được Liên hợp quốc xếp là một trong những nước đứng đầu trong thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ. Văn hóa - xã hội có bước phát triển tích cực; dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng mở rộng; quyền làm chủ của người dân ngày càng được phát huy. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” được thực hiện ngày càng hiệu quả. Quy chế Dân chủ cơ sở được tổ chức thực hiện rộng rãi, ngày càng chặt chẽ theo đúng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” đã góp phần nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, tăng cường sự đoàn kết dân tộc, giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội, tạo nền tảng để phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế.
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử nói trên luôn gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, là minh chứng sinh động bác bỏ sự xuyên tạc về thể chế chính trị của Việt Nam hiện nay. Xin nhấn mạnh rằng, trong cam kết của tất cả các nước khi đặt quan hệ, hoặc nâng cấp quan hệ ngoại giao với Việt Nam, kể cả Hoa Kỳ gần đây, đều khẳng định sự “tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thể chế chính trị của Việt Nam”. Vì vậy, kêu gọi Việt Nam thay đổi thể chế chính trị của các thế lực thù địch chỉ là tiếng nói lạc lõng, nhưng cần cảnh giác./.
Khuyết danh ST.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét