Thứ Bảy, 8 tháng 3, 2025

Chọn mục tiêu đúng là một trong những yếu tố quyết định thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên

Do những điều kiện cụ thể của chiến trường nên vấn đề chọn mục tiêu tiến công Buôn Ma Thuột hay Kon Tum được nhiều cán bộ tác chiến, chỉ huy các cấp trong hội nghị quân chính (từ ngày 17 đến 19-2-1975) cân nhắc rất kỹ.

Một số ý kiến cho rằng nên chọn Kon Tum, vì trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, trên hướng Tây Nguyên, ta đã đánh thị xã Kon Tum, tuy chưa thành công nhưng đã hiểu địch, cơ bản nắm được địa bàn, có ít nhiều kinh nghiệm, lực lượng ta đã vào áp sát mục tiêu, đường cơ động đã chuẩn bị... và nhất là yếu tố bí mật được giữ vững; trong khi đó, Buôn Ma Thuột nằm sâu trong vùng địch kiểm soát, việc nắm tình hình địch và địa bàn hạn chế, đường cơ động xa, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật khó khăn, yếu tố giữ bí mật không cao.

Ngược lại, một số ý kiến lại cho rằng: Buôn Ma Thuột nằm sâu trong vùng kiểm soát của địch, với khoảng 120.000 dân, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của Tây Nguyên; là hang ổ đầu sỏ, ác ôn phản động của vùng này. Riêng về quân sự, thị xã Buôn Ma Thuột “đứng” ở ngã ba đường chiến lược 21 nối với Nha Trang và Đường số 14, phía Bắc đi Cheo Reo, Pleiku, phía Nam đi Gia Nghĩa, Đông Nam Bộ.

Tuy có hậu cứ Sư đoàn 23 ngụy nhưng về quân số ít hơn, thế bố phòng cũng không chặt chẽ so với Kon Tum. Đánh Buôn Ma Thuột, tuy công tác trinh sát, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, cơ động và triển khai lực lượng khó khăn, công tác bảo đảm bí mật và nghi binh đặt ra với yêu cầu cao... song ta vẫn có đủ khả năng khắc phục, bởi điều kiện khắc phục hoàn toàn do nỗ lực chủ quan của ta quyết định.

Với lực lượng được cài trong thế trận đánh chia cắt, khi ta tiến công Buôn Ma Thuột, địch khó có thể cơ động đến phản kích bằng đường bộ, mà chỉ là đường không, nhưng không thể đưa lực lượng lớn đến trong thời gian ngắn nên phản kích không thể thành công. Còn khi ta đã làm chủ Buôn Ma Thuột, bằng đường không, địch có đưa được lực lượng phản kích dù ở cỡ nào và có thể gây cho ta những khó khăn, tổn thất nhất định, song chúng cũng không thể ngăn cản nổi đà phát triển của ta ra các hướng. Đó là chưa kể, nếu dự kiến kế hoạch chu đáo, phát hiện kịp thời, chính xác mọi động thái của địch, nắm chắc lực lượng dự bị và sẵn sàng cơ động, ta đủ khả năng tiêu diệt nhanh gọn lực lượng phản kích của chúng...

Với những ý kiến phân tích khách quan, khoa học, Hội nghị quân chính mở rộng của Mặt trận Tây Nguyên hoàn toàn nhất trí với quyết định của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh, chọn thị xã Buôn Ma Thuột là mục tiêu tiến công chủ yếu trong Chiến dịch Tây Nguyên. Đặc biệt, sau khi có quyết định lịch sử trên, quân ta đã tiến hành xây dựng quyết tâm và tưởng định kế hoạch tác chiến Chiến dịch tiến công Tây Nguyên; tổ chức tập bài, thảo luận các phương án tác chiến hết sức cụ thể, tỉ mỉ, nghiêm túc. Đây thực sự là một đóng góp rất quan trọng vào cuộc đấu trí sinh tử quyết định giữa ta và địch trong Chiến dịch Tây Nguyên.

Hiện thực hóa kế hoạch Chiến dịch Tây Nguyên-“sản phẩm của cuộc đấu trí” đầy mưu lược, sáng tạo và quyết đoán của những bộ óc mẫn tiệp và dạn dày kinh nghiệm trận mạc cả ở nơi chiến trường máu lửa và tại các cơ quan chiến lược ở hậu phương miền Bắc, sau thời gian khẩn trương làm công tác chuẩn bị mọi mặt, Chiến dịch tiến công giải phóng Tây Nguyên chính thức mở màn.

Để tạo điều kiện đánh trận then chốt quyết định tại Buôn Ma Thuột, ngày 4-3, ta đánh cắt các trục lộ 19 và 21, tạo thế cô lập Tây Nguyên với địa bàn đồng bằng Khu 5; tổ chức nghi binh lừa địch ở Pleiku, Kon Tum. Sau khi đánh chiếm Thuần Mẫn (ngày 8-3), cắt Đường 14 chiếm Đức Lập, núi Nưa (ngày 9-3), ta tập trung lực lượng ưu thế tiến công thị xã Buôn Ma Thuột (ngày 10-3).

Địch hoàn toàn bị bất ngờ cả về chiến dịch cũng như chiến lược. Từ Sài Gòn, Tổng thống ngụy Nguyễn Văn Thiệu ban hành quân lệnh “tử thủ Tây Nguyên bằng mọi giá”. Theo đó, Bộ tư lệnh Quân khu 2-Quân đoàn 2 địch vội điều 2 trung đoàn còn lại của Sư đoàn 23 và Tiểu đoàn 21 biệt động quân ra phản kích, quyết chiếm lại những mục tiêu đã mất, nhưng không thành công. Địch ở Buôn Ma Thuột bị thất thủ (ngày 11-3), Pleiku và Kon Tum rơi vào tình thế bị cô lập hoàn toàn.

Sau khi Chiến dịch Tây Nguyên mở màn, trên các hướng chiến trường phối hợp, ta đẩy mạnh tiến công uy hiếp địch ở đồng bằng Trị-Thiên, vùng giáp ranh Quảng Nam, Quảng Ngãi (giải phóng các huyện Tiên Phước, Phước Lâm, Sơn Hà, Trà Bồng, Bình Sơn, Sơn Tịnh...). Nhiều địa bàn chiến lược xung quanh Sài Gòn như Dầu Tiếng, suối Ông Hùng, Cầu Khởi ở phía Tây Bắc, Định Quán, Võ Đắc ở phía Đông Bắc, Xuân Lộc... bị ta uy hiếp mạnh. Địch cũng dồn lực lượng quy mô cấp sư đoàn tổ chức phản kích trên các trọng điểm chiến lược như Tiên Phước (Khu 5), Dầu Tiếng (Đông Nam Bộ)... nhưng đều bị thất bại.

Ngay khi hoàn thành trận then chốt Buôn Ma Thuột, ngày 11-3, Bộ Chính trị nhận định: Thắng lợi ở Buôn Ma Thuột, Đường 19 và các hướng khác chứng tỏ ta có khả năng giành thắng lợi to lớn với nhịp độ nhanh hơn dự kiến. Không thể cứu vãn được Tây Nguyên, ngày 14-3-1975, Nguyễn Văn Thiệu bay ra Cam Ranh, triệu tập gấp Bộ chỉ huy Quân khu 2-Quân đoàn 2 để bàn bạc, rồi xuống lệnh: Rút khỏi Pleiku, Kon Tum theo Đường số 7, giữ đồng bằng Khu 5.

Đây cũng là ý kiến chỉ đạo của Martin-Đại sứ Mỹ ở Nam Việt Nam, rằng: Rút quân khỏi Pleiku, Kon Tum nhằm bảo toàn lực lượng còn lại, sau đó tập trung lực lượng diệt một bộ phận chủ lực ta rồi sẽ lấy lại vùng đã mất. Thực hiện ý đồ đó, chúng toan tính phải nhanh chóng mở ngay ít nhất một cuộc hành quân trên hướng Quân khu 3 (ở địa bàn Tây Ninh), quyết giành thắng lợi chính trị để tranh thủ dư luận và "thuyết phục" chính quyền Tổng thống Gerald Ford viện trợ.

Tuy phát hiện mưu đồ rút quân khỏi Pleiku, Kon Tum của địch hơi muộn, song ngày 16-3-1975, quân ta đã chạy đua với thời gian, cắt rừng, băng suối khẩn trương truy kích quân địch trên Đường số 7 và lập thế chốt chặn ở Củng Sơn. Ngày 24-3-1975, cuộc truy kích hoàn thành thắng lợi; hầu như toàn bộ quân địch rút chạy bị tiêu diệt, bị bắt, chỉ một bộ phận chạy thoát. Tây Nguyên được giải phóng, đồng bằng Khu 5 trực tiếp bị uy hiếp mạnh, thế bị chia cắt chiến lược đối với địch đã quá rõ ràng. “Sự kiện Tây Nguyên” đã tạo nên chấn động sâu sắc đến cục diện chung trên toàn chiến trường, đặt ngụy quyền, ngụy quân Sài Gòn đến trước bờ vực tan rã.

Trước tình cảnh “sống còn chỉ trong gang tấc”, địch một lần nữa điều chỉnh thế trận chiến lược bằng cách: Rút quân ở Quảng Trị đưa về giữ tuyến phòng thủ Mỹ Chánh; đưa sư đoàn thủy quân lục chiến từ Sài Gòn ra tăng cường cho Đà Nẵng thay cho sư đoàn dù từ Đà Nẵng về Sài Gòn để sẵn sàng cơ động hòng đối phó với những tình huống nguy cấp đã cận kề. Tình trạng rối loạn như một “hội chứng truyền nhiễm” lây lan phi mã trong nội bộ ngụy quân và ngụy quyền Sài Gòn vào thời điểm này.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét