Thứ Năm, 6 tháng 3, 2025

 Không thể phủ nhận bình đẳng giới ở Việt Nam

Trong những ngày qua, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung xuyên tạc cho rằng tỷ lệ nữ giới trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước vẫn còn rất ít, con đường dẫn tới quyền lực cho phụ nữ thường là đi qua Quốc hội, có những vị trí không mấy quan trọng trong chính trị Việt Nam; kích động, tuyên truyền với luận điệu: Đảng phải vượt lên lên tính hình thức về đại diện nữ ngay trong các cơ quan đưa ra quyết định cao nhất. Đây là âm mưu thủ đoạn hết sức thâm độc và nham hiểm của các thế lực thù địch nhằm chống phá chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
Thực tế chúng ta đều biết rõ rằng, Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ký kết tham gia Công ước của Liên Hợp quốc về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW) vào ngày 29/7/1980 và được phê chuẩn vào ngày 27/11/1981. Vì vậy, ở Việt Nam sẽ không có chuyện “quyền chính trị của phụ nữ tham gia chính trường có sự phân biệt”. Đồng thời, cho đến nay Việt Nam là một trong số các quốc gia có khung pháp lý và hệ thống chính sách khá toàn diện, đầy đủ để thúc đẩy bình đẳng giới. Ngay từ Hiến pháp năm 1946 đã nêu hai quyền cơ bản và khái quát của công dân Việt Nam là “tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa”; “tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật”. Trong Hiến pháp năm 2013 cũng nêu rõ, công dân nam nữ bình đẳng về mọi mặt; Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội. Bên cạnh đó, các quyền cơ bản của phụ nữ và vấn đề bình đẳng giới cũng được đề cập đến trong các văn bản luật như: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Hôn nhân và Gia đình, Pháp lệnh Dân số, Luật Phòng chống bạo lực gia đình, Luật Bình đẳng giới…
Mặt khác, chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 đã xác định mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, về cơ bản bảo đảm sự bình đẳng thực chất giữa nam và nữ trên mọi lĩnh vực với 7 mực tiêu cụ thể. Trong đó, mục tiêu 1 là tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo nhằm giảm khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị. Phấn đấu cán bộ phụ nữ tham gia cấp ủy Đảng các cấp đạt từ 25% trở lên; nữ đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp từ 35 - 40%. Các cơ quan, đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30% trở lên, nhất thiết có cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ. Cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng, Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ có tỷ lệ nữ phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới. Kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI (2002-2007), phụ nữ chiếm 27,31% trong tổng số đại biểu; khóa XII (2007-2011) tỷ lệ này là 25,76%; khóa XIII (2011-2016): 24.40%. Đặc biệt, trong nhiệm kỳ XIII, cán bộ nữ tham gia cấp ủy cả 3 cấp đều tăng về số lượng và chất lượng. Cụ thể, ở cấp cơ sở, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy đạt 21% (tăng 2%) so với nhiệm kỳ trước. Đối với cấp trên cơ sở đạt 17%, cũng tăng 2%. Đối với các Đảng bộ trực thuộc Trung ương, tỷ lệ nữ đạt 16% và tăng 3% so với nhiệm kỳ trước. Có hơn 4.200 cán bộ nữ được lựa chọn, giới thiệu và bầu giữ chức vụ cán bộ chủ chốt trong Đảng và chính quyền ở cả 3 cấp… Đây là tỷ lệ tương đối cao qua các kỳ bầu cử Quốc hội và đã đưa Việt Nam thuộc nhóm các nước có tỷ lệ nữ đại biểu trong cơ quan lập pháp cao nhất châu Á và cũng như trên thế giới (trên 25%). Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội nước ta cao hơn hẳn so với Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và nhiều nước trong khu vực. Theo Liên minh các nghị viện thế giới, Việt Nam đứng thứ 37 trong tổng số 188 nước trên thế giới về tỷ lệ phụ nữ trong cơ quan lập pháp. Số liệu của trang tin Nhóm Nữ nghị sỹ Việt Nam (thuộc Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội) cho thấy, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội ở nước ta liên tục tăng lên trong thời gian qua và duy trì ở mức cao. Từ năm 1999 đến nay, Việt Nam luôn có nữ Phó Chủ tịch nước. Tỷ lệ phụ nữ là bộ trưởng, thứ trưởng, vụ trưởng cũng tăng lên. Tại các cấp địa phương, tỷ lệ phụ nữ tham gia vào Hội đồng nhân dân, Uỷ ban Nhân dân cũng tăng lên và nhiều nơi có nữ chủ tịch. Chính phủ cũng có các cơ quan chuyên trách chăm lo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho phụ nữ như Vụ Bình đẳng giới (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), Vụ Gia đình (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), Vụ Sức khoẻ bà mẹ trẻ em (Bộ Y tế),... Đặc biệt là Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam được thành lập từ năm 1985 có cơ cấu tổ chức từ trung ương đến địa phương, có chức năng, nhiệm vụ giải quyết các vấn đề liên ngành liên quan đến sự tiến bộ của phụ nữ.
Như vậy, trên thực tiễn trên cho thấy, quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam được bảo đảm tốt, tỷ lệ nữ tham gia các cấp ủy, chính quyền không chỉ cao hơn các quốc gia trong khu vực châu Á, mà còn chiếm tỷ lệ cao so với tỷ lệ chung của toàn cầu. Việc các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc cho rằng Việt Nam vi phạm quyền chính trị của phụ nữ là thái độ thiếu khách quan nhằm mục đích chống phá, phủ nhận các thành quả mà Việt Nam đã đạt được trong quá trình thực hiện bình đẳng giới, trong đó có bình đẳng trên lĩnh vực chính trị. Tất nhiên, chúng ta cũng không tự mãn mà cần tiếp tục phấn đấu để sớm nâng cao hơn nữa tỷ lệ phụ nữ tham gia cấp ủy, chính quyền các cấp, nhằm rút ngắn hơn nữa khoảng cách và tiến tới nam nữ bình quyền trên mọi lĩnh vực.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét