Khi đặt bút viết những dòng này, tôi đã khóc. Tôi khóc không phải vì yếu đuối mà khóc vì nhớ lại những ngày gian nan và anh dũng ở nơi đầu nguồn sông núi của Tổ quốc. Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc tháng 2 năm 1979 cho đến hôm nay đã trôi qua đúng 40 năm.
Đó là quãng thời gian
đủ dài để nhiều chuyện có thể qua đi nhưng không thể quên cuộc chiến đấu đã trở
thành một phần của lịch sử chống ngoại xâm, bảo vệ biên cương Tổ quốc.
Một ngày đầu hè năm
1976, năm hòa bình thứ hai, vậy mà chúng tôi được lệnh chuyển quân lên biên
giới phía Bắc. “Sao lại là lên biên giới?”. Câu hỏi xoáy vào tâm trí chàng lính
binh nhất măng tơ mà trong lòng vẫn còn nhiều thắc mắc không kịp vào Nam chiến
đấu.
Từ căn cứ Đồi Ngô
thuộc huyện Lục Nam (Hà Bắc bấy giờ), Sư đoàn 325B của chúng tôi sau khi bàn
giao các trung đoàn của mình cho các địa phương như Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn và
Hà Bắc thì được lệnh khẩn trương di chuyển sang hướng biên giới Quảng Ninh. Một
cuộc chuyển hướng rất khác lạ giữa thời bình đủ khiến cánh lính trẻ đang mong
trở lại học đường thoáng chút băn khoăn. Chặng đường chuyển quân được
thiết lập nhanh chóng với đủ mọi phương tiện như đường bộ, đường thủy.
Tôi nhớ ngày đó nhạc
sĩ Lưu Ba, một người trai Hà Nội thứ thiệt, đã viết ca khúc “Về với Quảng Ninh”
với những ca từ như “Vượt mấy trùng dương lướt sóng Hạ Long/ Đây con tàu đưa
ta tới miền Đông Tổ quốc đến với vùng đất mỏ Quảng Ninh...”. Bài hát mau
chóng trở thành ca khúc chính thức của Sư đoàn, được cán bộ chiến sĩ say sưa
hát. Sự say sưa mang vẻ lãng mạn và nhiều háo hức đó còn theo mãi tới tận hôm
nay.
Bộ phận tuyên truyền
chúng tôi hành quân lên biên giới Đông Bắc bằng đường bộ với nhiệm vụ vừa hành
quân vừa kết hợp tuyên truyền và phục vụ bộ đội cùng bà con dân tộc các huyện
miền Đông Quảng Ninh. Tôi vừa đi vừa thắc mắc bởi vì sao cả một sư đoàn chủ lực
lúc đó chỉ còn bộ khung lại được đưa lên bố trí tại đây?
Câu hỏi ấy nhanh chóng
có lời giải đáp cho dù còn rất lờ mờ. Ấy là khi chúng tôi lên tới huyện biên
giới Đình Lập, ngày đó còn thuộc tỉnh Quảng Ninh. Quốc lộ 31 êm êm chạy tuốt
lên cửa khẩu Bản Chắt chợt có gì đó rất ngờ ngợ khi chúng tôi được phổ biến là
cảnh giác và tránh bị kích động. Sao lại phải cảnh giác và tránh bị kích động?
Câu hỏi này đã nhanh
chóng được lý giải khi chúng tôi hành quân tới huyện Bình Liêu. Đây là một
huyện nghèo khó vào loại nhất nước lúc bấy giờ chứ đừng nói chỉ riêng tỉnh
Quảng Ninh khi đó.
Sau khi ổn định tại
nơi đóng quân mới, Sư đoàn 325B nhanh chóng tiếp nhận Trung đoàn 43 khi đó đang
đắp đê biển ở huyện Hải Ninh (thành phố Móng Cái hiện nay) cùng với việc tiến
hành thành lập Trung đoàn 41 đóng quân ở huyện Bình Liêu và các tiểu đoàn trực
thuộc. Còn nhớ, vào trước thời điểm đó, cả 6 huyện Đông Bắc hay chính xác là
toàn tuyến biên giới giáp với Trung Quốc của tỉnh Quảng Ninh chỉ có bộ đội cấp
huyện, mấy đồn công an vũ trang cửa khẩu với quân số rất ít và dăm ba tiểu đoàn
bộ đội làm kinh tế chứ chưa hề có một đơn vị chủ lực nào.
Việc Sư đoàn 325B triển
khai các đơn vị chủ lực ra sát đường biên đã he hé cho thấy chúng ta đã nhận ra
âm mưu của đối phương và đã hình thành những vị trí phòng thủ nhằm bảo vệ từng
tấc đất của Tổ quốc.
Tôi nhớ lần đầu tiên
đi trên con đường đất đỏ do bộ đội Tiểu đoàn 6 mới phát tuyến dẫn từ cửa khẩu
Hoành Mô tới bản Phạt Chỉ xã Đồng Văn gập ghềnh đất đá. Dịp đó nước suối Đồng
Văn (một chi lưu hợp nên sông Tiên Yên) lô xô những tảng đá mồ côi to như những
chiếc cối giã gạo ở dưới xuôi vậy.
Đưa tay chỉ sang một
gò đất cao nổi bật giữa những vạt ruộng lúa bậc thang xanh rì, anh Nguyễn Văn
Đua, chính trị viên Đại đội 5, nói bằng thứ giọng hơi lạc đi “Các cậu có nhìn
thấy cái cột đá cao cao đứng giữa ruộng lúa kia không?”.
Chúng tôi cùng ngoái
cổ nhìn sang trái và đều nhận thấy giữa ruộng lúa một cột đá cao chừng 2 mét
rất uy nghi. Anh Đua cho hay đó là cột mốc biên giới bằng đá do chính quyền
Pháp và nhà Thanh dựng lên.
Thì ra từ rất lâu họ
đã ngấm ngầm điều chỉnh đường biên giới giữa nước ta với họ bằng những thủ đoạn
khá tinh vi. Họ dùng dân địa phương vượt qua đường biên giới Pháp - Thanh để
vào đất ta canh tác. Nhiều thửa ruộng vốn của bà con chúng ta bị người phía bên
kia biên giới “chiếm hữu” một cách có tính toán. Nhiều vạt đồi, cánh rừng bị
người dân bên kia biên giới lấn chiếm.
Họ còn cho dân tiến
hành đắp bờ, khơi lạch để chờ mùa mưa tới là nước lũ ồ ạt đổ nắn những dòng
chảy để nước chảy mạnh sẽ ăn vào đất ta và bồi đất về bên họ. Thâm hiểm hơn là
họ còn lợi dụng đêm tối hoặc những vị trí xa dân ta để di chuyển hay đào nhổ
cột mốc Pháp - Thanh nhằm xóa nhòa ranh giới lịch sử.
Rồi những ngày của năm
1978 vô cùng căng thẳng. Cuộc đấu tranh giữ từng khe núi, giữ từng lạch suối
dồn thành cao điểm. Tôi nhớ đó là những ngày người lính làm công tác chính trị,
công tác tuyên truyền như chúng tôi phải căng ra, phải gồng mình lên. Bên kia
biên giới, những chiếc loa phóng thanh công suất lớn ra rả những lời bịa đặt
khiến bà con người Việt gốc Hoa nao núng.
Chúng tôi tỏa nhau đi
từng thôn bản để vận động, để nói một câu rằng “Bà con chớ có nghe những lời
kích động bởi bà con đã và đang là người dân tộc Hoa của Việt Nam” nhưng đâu có
thấu. Dọc đường số 4, đoạn từ thị trấn Tiên Yên dẫn lên thị trấn Móng Cái dày
đặc những đoàn gia đình người Hoa kéo nhau đi. Họ đi mà không biết đi đâu và về
đâu.
Sự căng thẳng trên
tuyến biên giới mỗi ngày mỗi tăng cường độ. Tôi, từ một anh lính chiếu bóng
chợt trở thành một học viên trung đội trưởng. Nhu cầu cán bộ cho công việc
chuẩn bị sẵn sàng giáng trả âm mưu xâm lược những ngày đó đã biến nhiều anh lính
trẻ thành những cán bộ trẻ.
Tôi nhớ đêm 16-2-1979,
đó là một đêm Thứ bảy sau tết với dư âm bánh chưng còn ngọt sâu trong họng. Đêm
đó tôi nhận gác ca từ 23 giờ đến 0 giờ. Một ca gác nặng nề như linh cảm. Tôi
ngồi trong hố gác mà mắt díp lại vì buồn ngủ. Cơn buồn ngủ kéo đến khiến tôi
ngồi thụp xuống và dựa đầu vào vách hố gác tranh thủ chợp mắt.
Giữa cơn thiu thiu ấy,
tôi nghe vọng vào tai mình những âm thanh rất nặng và rất đục. Âm thanh tuy xa
xa nhưng đều đều và mỗi lúc mỗi tăng khiến tôi nhanh chóng tỉnh ngủ. Tôi rướn
người lên để ngóng tai căng mắt nhưng vô vọng bởi những âm thanh đó rất mơ hồ
nên lại ngồi thụp xuống và áp tai vào vách hố gác. Âm thanh trầm nặng vọng về
đầy nghi vấn.
Rồi tôi bị dựng lên
bởi những tiếng kẻng báo động khua dồn dập cùng những hồi còi vô cùng thúc
giục. Tôi choàng dậy nhưng cũng kịp liếc mắt nhìn vào mặt chiếc đồng hồ dạ
quang đeo trên cổ tay. 6 giờ kém 5 phút. Rất khó chịu vì đấy là sáng Chủ nhật,
mà những buổi sáng Chủ nhật cánh lính chúng tôi thường được ngủ đến 6 giờ 30
phút. Sao báo động hành quân bất ngờ vậỵ?
Tôi nói với những
người nằm bên cạnh như vậy nhưng cũng vội vã chồm dậy chạy tuốt ra sân để tập
hợp. Dưới bóng tối nhập nhòa của lớp sương mù dày đặc, chúng tôi chỉ nghe thấy
tiếng thở gấp gáp của đồng đội. Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn huấn luyện nói như
gào lên bằng thứ giọng xúc động “Bộ Tư lệnh Sư đoàn vừa điện khẩn: Quân bành
trướng Trung Quốc đã bắn pháo mãnh liệt vào các vị trí tiền tiêu. Hiện chúng
đang tiến công toàn tuyến biên giới của Tổ quốc. Bộ Tư lệnh yêu cầu tiểu đoàn
sẵn sàng chờ lệnh”.
Buổi sáng đầu tiên của
cuộc chiến đấu chống quân xâm lược trên tuyến biên giới phía Bắc của Tổ quốc
diễn ra như thế. Lớp học viên chúng tôi được lệnh cấm trại và chờ đợi. Lòng căm
thù cứ dâng uất nghẹn khi hằng ngày chúng tôi được nghe bản tin chiến sự. Và
rồi đúng một tuần sau, chúng tôi lên điểm tựa.
Cuộc hành quân đáng
nhớ nhất trong đời khi chúng tôi vừa ngồi trên xe vừa cất vang tiếng hát “Đoàn
vệ quốc quân một lần ra đi...”. Tiếng hát trầm vang át cả tiếng gió vuốt qua
thành xe. Xe đi vùn vụt cùng tiếng hát bay cao.
Nhiệm vụ của cánh lính
học viên khi tới điểm tựa rất đơn giản: Một là làm quen với không khí chiến
trận và hai là tiếp đạn cho các chốt. Điểm cao Cao Ba Lanh sừng sững uy nghi
với độ cao trên một ngàn mét những ngày tháng đó được coi là mồ chôn nhiều tên
xâm lược, giờ là chứng tích lịch sử một thời, thể hiện tinh thần chiến đấu hào
hùng của những người lính Việt Nam năm xưa. 40 năm đã trôi qua nhưng những gì
mà tôi đã nghe, đã thấy còn nguyên trong ký ức.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét