Thứ Sáu, 7 tháng 3, 2025

Nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo là nội dung quan trọng mang giá trị di sản tinh thần to lớn nằm trong hệ thống lý luận của Người về con đường cách mạng Việt Nam. Di sản tinh thần ấy được phản ánh trong các bài viết, những lời di huấn, những cử chỉ, hành động và cách thức ứng xử của Người đối với các chức sắc, đồng bào tôn giáo. Cùng với sự phát triển của tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo ngày càng được bổ sung, hoàn thiện, vừa thể hiện tính nhất quán, lâu dài nhưng đồng thời cũng cho thấy tính linh hoạt, mềm dẻo và được vận dụng trở thành phương châm, nguyên tắc căn bản, quan điểm định hướng trong chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay.

Trong bối cảnh thời đại ngày nay, dân tộc, tôn giáo vẫn luôn là vấn đề nhạy cảm, phức tạp ở Việt Nam bởi nó liên quan đến tính liên tộc người và liên vùng xét ở bình diện trong nước cũng như tính liên biên giới và xuyên quốc gia xét ở bình diện quốc tế. Do những yếu tố lịch sử, Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo với 54 dân tộc anh em sinh sống xen kẽ trên nhiều địa bàn trong cả nước và 16 tôn giáo, 41 tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân, số lượng tín đồ khoảng hơn 26,5 triệu (chiếm khoảng 27% dân số). Các dân tộc, tôn giáo ở Việt Nam luôn kề vai sát cánh, đoàn kết, hỗ trợ nhau cùng phát triển, đóng góp vai trò quan trọng trong tiến trình lịch sử cách mạng. Tuy nhiên, xuất phát từ mối quan hệ gắn kết dân tộc - tôn giáo ở Việt Nam và những tác động sâu sắc của mối quan hệ này đến vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh của các tộc người cũng như của quốc gia - dân tộc, những thập niên gần đây, các thế lực thù địch thường xuyên lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để kích động chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam, nhằm “chuyển hóa nội bộ”, gây mất ổn định an ninh - chính trị, phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Thắm tình quân dân _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Trong khi đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, tôn giáo là bộ phận quan trọng cấu thành nên tư tưởng cách mạng và giải phóng dân tộc của Người. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo là cơ sở lý luận và phương pháp luận để Đảng và Nhà nước Việt Nam vận dụng giải quyết tốt vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính vì thế, việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo nhằm định hướng nhận thức và ứng xử là yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với các cấp ủy, chính quyền, cơ quan quản lý nhà nước về dân tộc, tôn giáo, cán bộ, đảng viên và mọi người dân.

Để tiếp tục nghiên cứu, vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giải quyết vấn đề dân tộc hiện nay và thời gian tới, cần lưu ý một số vấn đề: 

Một là, nghiên cứu, vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo phải bảo đảm thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc, quyền bình đẳng giữa các tôn giáo, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, đồng thời kiên quyết đấu tranh với âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước ta.

Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc cùng chung sống trên mảnh đất Việt Nam là tư tưởng lớn về quan hệ dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định, nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. “Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt”. Người tuyên bố, “đồng bào các dân tộc đều là người chủ nước nhà”, nên “phải khắc phục những tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, tự ti dân tộc”, đồng thời yêu cầu, “Tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta”. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đặc biệt nhấn mạnh việc ứng xử bình đẳng với các tôn giáo. Mọi người Việt Nam đều có quyền tự do lựa chọn theo một tôn giáo hoặc không theo tôn giáo nào; các nhà tu hành được tự do giảng đạo tại các cơ quan tôn giáo (nhà thờ, chùa, tịnh thất, trường giáo lý…); các tôn giáo không phân biệt lớn nhỏ đều có quyền bình đẳng như nhau, quyền ấy cần được tôn trọng với thái độ đúng mực, thật thà, không thiên kiến, không vì đề cao niềm tin tôn giáo của mình mà phủ nhận, bài xích hay xem thường, nhạo báng tôn giáo của người khác.

Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thể hiện cam kết chính trị của mình trong quan niệm, tư tưởng, hành động thực tế và quan trọng hơn nữa là được thể chế hóa trong các văn bản pháp luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên soạn thảo và ban bố Sắc lệnh về tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân Việt Nam. Đặc biệt, dưới sự chỉ đạo của Người, Hiến pháp đầu tiên của nước ta năm 1946 đã khẳng định quyền tự do tín ngưỡng là quyền hiến định của mọi công dân Việt Nam. Tiếp theo, Sắc lệnh số 234/SL, do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 14-6-1955, “Sắc lệnh Số 223/SL ngày 14 tháng 6 năm 1955 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” cũng nhấn mạnh việc Chính phủ bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân. 

Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn lưu ý việc phân biệt nhu cầu tín ngưỡng chân chính của quần chúng với âm mưu lợi dụng tôn giáo, lợi dụng đức tin của các thế lực thù địch để phá hoại sự nghiệp cách mạng. Đối với những kẻ lợi dụng, giả danh tôn giáo, gây chia rẽ đoàn kết dân tộc, chống phá Đảng và Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương đấu tranh không khoan nhượng, trừng trị theo pháp luật. 

Những quan điểm trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh có giá trị to lớn, cần được Đảng và Nhà nước Việt Nam kế thừa và phát huy trong bối cảnh mới nhằm bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, xây dựng và hoàn thiện chính sách đối với đồng bào các dân tộc và đồng bào tôn giáo, nhận diện và đấu tranh có hiệu quả với các hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước. 

Hai là, nghiên cứu, vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo phải bảo đảm ổn định an ninh chính trị vùng dân tộc thiểu số, vùng đồng bào tôn giáo, bảo đảm quyền độc lập, tự chủ và an ninh quốc gia.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định, vùng dân tộc thiểu số và miền núi có vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh. Người từng khẳng định, “miền núi có một địa vị cực kỳ quan trọng về kinh tế, chính trị và quốc phòng của cả nước ta”.

Thực tế ở Việt Nam cho thấy, thời gian qua, tại các vùng dân tộc thiểu số, nhất là tại các địa bàn trọng yếu về vấn đề dân tộc, tôn giáo, các thế lực thù địch luôn gắn vấn đề tôn giáo với vấn đề tộc người, ra sức tuyên truyền chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, kích động mặc cảm, tự ti và thù hằn dân tộc để tập hợp, lôi kéo tín đồ tham gia vào các hoạt động ly khai, tự trị trong các cộng đồng tộc người - tôn giáo. Tại khu vực miền núi phía Bắc, các thế lực phản động nhằm vào vấn đề lịch sử, tâm lý của người Mông để truyền miệng, tung tin thất thiệt về "thời kỳ hoàng kim" của “vương quốc Mông”, kích động những phần tử bất mãn, quá khích đấu tranh đòi ly khai, thành lập cái gọi là “vương quốc riêng” của người Mông. Tại khu vực Tây Nguyên, các thế lực phản động Fulro nhận được sự hỗ trợ từ nước ngoài đã kích động đồng bào dân tộc thiểu số gây ra các vụ bạo loạn chính trị cùng nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến dân tộc, tôn giáo hòng lật đổ chính quyền, thành lập Nhà nước Đề ga tự trị. Tại khu vực miền Trung, các thế lực thù địch lợi dụng Hồi giáo và Bà la môn giáo trong cộng đồng người Chăm để kích động tư tưởng ly khai, khôi phục cái gọi là "Vương quốc Chămpa tự trị". Tại khu vực Tây Nam Bộ, vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ cùng với Phật giáo Nam Tông của người Khmer từ lâu đã trở thành trọng tâm chống phá của các thế lực cực đoan nhằm gây dựng cái gọi là "quốc gia Khmer Krom tự trị". 

Khi gắn kết vấn đề tôn giáo với vấn đề tộc người, các thế lực thù địch có thể dễ dàng hơn tập hợp được lực lượng đông đảo những người cùng tôn giáo trong nội bộ từng tộc người và giữa các tộc người để hình thành những cộng đồng liên kết theo tôn giáo nhằm tăng cường ý thức tôn giáo, tính ràng buộc của thần quyền, giáo lý và tính hiệu triệu của tôn giáo trong các hoạt động liên quan đến mục tiêu chính trị.

Đáng lưu ý, các thế lực phản động còn triệt để lợi dụng các phương tiện truyền thông và diễn đàn quốc tế để xuyên tạc, bịa đặt về quyền của các dân tộc thiểu số, về tự do tôn giáo ở Việt Nam thông qua các cách tiếp cận phiến diện, thiếu thiện chí, gây sức ép với Việt Nam trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền và tôn giáo.

Xuất phát từ tình hình thực tiễn đó, có thể thấy, tôn giáo và dân tộc luôn là hai vấn đề nhạy cảm, những vụ việc liên quan nếu không được giải quyết một cách thỏa đáng, cẩn trọng, phù hợp, kịp thời sẽ dẫn tới nguy cơ gây mất ổn định chính trị - xã hội, tạo cớ cho các thế lực chính trị bên ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của đất nước. Do đó, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo hiện nay cần phải bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, đặc biệt là ở các khu vực tập trung đông đồng bào dân tộc, đồng bào theo tôn giáo sinh sống như khu vực miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới, giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo phải gắn với việc bảo đảm an ninh biên giới, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.

Ba là, nghiên cứu, vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo phải bảo đảm đoàn kết đồng bào các dân tộc, đồng bào tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo, trong đó tồn tại đan xen các dân tộc, các loại hình tôn giáo nội sinh và tôn giáo ngoại nhập, do đó, thực hiện đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo theo tinh thần “đoàn kết lương giáo” nhằm thực hiện mục tiêu hòa hợp dân tộc được coi là chiến lược quan trọng trong tập hợp sức mạnh toàn dân tham gia vào tiến trình cách mạng. Giải quyết vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ, “Giang sơn và Chính phủ ta là giang sơn và Chính phủ của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta”; “Tất cả các dân tộc miền núi và miền xuôi phải đoàn kết như anh em, chị em trong một nhà”.

Về cơ sở để thực hiện đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh mục tiêu đánh đổ đế quốc, thực dân để giành độc lập dân tộc và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội - một chế độ xã hội công bằng, dân chủ, tốt đẹp cho mọi người. Vì thế, cần đoàn kết tất cả các lực lượng, đoàn kết mọi thành phần dân tộc, đoàn kết giữa đồng bào có đạo và đồng bào không có đạo, đoàn kết trong nội bộ các tôn giáo và đoàn kết giữa đồng bào có tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau trong cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất cho Tổ quốc và xây dựng nước nhà. Người nói, “Đồng bào ta không chia lương giáo, ai cũng tương ái, tương thân, đoàn kết chặt chẽ thành một khối”. 

Quan điểm của Hồ Chí Minh về đoàn kết đồng bào các dân tộc thiểu số trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, đoàn kết đồng bào tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc tạo cơ sở và phương hướng cho Đảng và Nhà nước Việt Nam tập hợp, phát huy sức mạnh tổng hợp của sự đoàn kết, khoan dung tôn giáo và đồng thuận xã hội. Trong thời gian tới, cần tiếp tục thực hiện tốt chính sách đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển, tạo nên nguồn lực cộng hưởng trong sức mạnh đại đoàn kết dân tộc; chống kỳ thị, phân biệt đối xử, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc, tôn giáo.

Bốn là, nghiên cứu, vận dụng, phát triển, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo phải bảo đảm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ, “miền núi có tài nguyên rất phong phú, có nhiều khả năng để mở mang nông nghiệp và công nghiệp”. Do đó, chúng ta cần làm cho miền núi trở thành nơi giàu có để nâng cao hơn nữa đời sống của nhân dân, để thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nước nhà. Người vui mừng, tự hào nói rằng: “Chính sách của Đảng ta là làm cho miền núi tiến kịp miền xuôi. Ngày nay chính sách đó đã bước đầu thực hiện”. Do những điều kiện đặc thù về địa lý tự nhiên, kinh tế, xã hội và lịch sử cụ thể của vùng dân tộc thiểu số, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh, phải ưu tiên, giúp đỡ đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế, văn hóa, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, tạo điều kiện thuận lợi để hỗ trợ các dân tộc thiểu số hòa nhập, cùng tiến bộ với đồng bào cả nước. 

Đối với đời sống của đồng bào tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự chăm lo sâu sắc đến cả “phần xác” và “phần hồn”. Theo Người, “phần xác no ấm” thì “phần hồn thong dong”. Do đó, Người thường nhắc lại câu thánh ca “Sáng danh Chúa trên các tầng trời, hòa bình cho mọi người dưới thế” để nhắc nhở mọi người luôn phải gắn đạo với đời, phải làm cho đồng bào ấm no, hạnh phúc thì mới hành đạo được. Người chỉ đạo Chính phủ cần tăng gia sản xuất, cải thiện đời sống của đồng bào để “phần đời” được no đủ, yên vui; đồng bào bên cạnh niềm tin tôn giáo còn có niềm tin bền chặt vào chính sách của Đảng và Chính phủ. 

Lịch sử ghi nhận công lao to lớn của đồng bào các dân tộc, đồng bào các tôn giáo đối với sự nghiệp cách mạng. Sau khi đất nước giành được độc lập, thống nhất, đồng bào các dân tộc, đồng bào các tôn giáo vẫn tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc, phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Tuy nhiên, do những điều kiện đặc thù về địa bàn cư trú, giao thông khó khăn lại sống phân tán, ít cơ hội tiếp xúc với các dịch vụ, phúc lợi xã hội và nền kinh tế thị trường cho nên đa phần đồng bào dân tộc, tôn giáo sinh sống trên địa bàn dân tộc thiểu số có đời sống kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp, mặc dù đã được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm xây dựng các chính sách hỗ trợ phát triển. 

Chính vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh hướng đến sự ổn định và phát triển bền vững của chế độ chính trị không thể nằm ngoài mục tiêu nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc, đồng bào các tôn giáo. Đảng và Nhà nước cần tiếp tục có sự quan tâm thích đáng, tạo điều kiện để đồng bào các dân tộc, tôn giáo xóa được đói, giảm được nghèo một cách bền vững, ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện sức khỏe thể chất, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Nhờ đó, “miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng cao tiến kịp vùng thấp, làm cho tất cả các dân tộc đều có cuộc sống ấm no, văn minh và hạnh phúc, đoàn kết giúp đỡ nhau tiến bộ, cùng làm chủ tập thể Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

Năm là, nghiên cứu, vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo phải chú trọng tính đặc thù của từng vùng, từng dân tộc, từng tôn giáo, bảo đảm phát huy nội lực của đồng bào dân tộc thiểu số, nội lực của đồng bào tôn giáo phục vụ cho sự phát triển đất nước.

Ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức được vị trí, vai trò, tiềm năng to lớn của đồng bào dân tộc thiểu số đối với sự nghiệp cách mạng. Người nhận định, “Đồng bào miền núi có truyền thống cần cù và dũng cảm. Trong thời kỳ cách mạng và kháng chiến, đồng bào miền núi đã có nhiều công trạng vẻ vang và oanh liệt. Ngày nay, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh để thực hiện hòa bình thống nhất Tổ quốc, đồng bào miền núi đang cố gắng góp phần xứng đáng của mình”. Người từng khẳng định, đồng bào dân tộc thiểu số là những con người “rất trung thành, chịu khó”, “rất thật thà và rất tốt”. Những đức tính nổi trội đó của đồng bào “nhập với thế hiểm trở của núi sông, trở thành sức mạnh vô địch”.

Phát huy giá trị, bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc, các tôn giáo trong sự nghiệp phát triển chung của đất nước (trong ảnh: Vòng xòe Tây Bắc)_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn nhắc nhở, “Phải đoàn kết các dân tộc, phải đoàn kết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt”, dân tộc nào đông hơn, nhiều người hơn, tiến bộ hơn thì phải giúp đỡ các dân tộc khác để đều tiến bộ như nhau.

Người đặc biệt quan tâm đến chính sách đối với miền núi, với đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Người căn dặn, đồng bào miền núi phải đoàn kết, giúp đỡ đồng bào miền xuôi; đồng bào miền xuôi cũng phải đoàn kết, giúp đỡ đồng bào miền núi để cùng nhau xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đối với cán bộ công tác tại vùng dân tộc thiểu số, Người chỉ dạy, “áp dụng chủ trương và chính sách phải thật sát với tình hình thực tế của mỗi nơi. Tuyệt đối chớ rập khuôn, chớ máy móc, chớ nóng vội”.

Mặt khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng căn dặn phải phát huy khả năng tự giải quyết, tự vươn lên của đồng bào thiểu số. Người nói, ở địa phương, việc gì khả năng điều kiện cho phép thì địa phương miền núi phải tự giải quyết, tự vươn lên, ví như các công trình thủy lợi nhỏ, các đường giao thông nhỏ. Trung ương có trách nhiệm xây dựng trang bị những công trình lớn.

Theo đó, vận dụng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, ngày nay, giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo tại các vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải chú trọng tính đặc thù của từng vùng, từng dân tộc, từng tôn giáo, dựa trên các tiêu chí phân chia vùng, miền (khu vực bước đầu phát triển, khu vực ổn định và khu vực khó khăn), mỗi nhóm dân tộc, mỗi nhóm tôn giáo thuộc các khu vực khác nhau sẽ được đầu tư phát triển một cách phù hợp, khu vực nào khó khăn sẽ được ưu đãi nhiều hơn để đuổi kịp trình độ phát triển chung của cả nước(22). Bên cạnh sự quan tâm hỗ trợ từ Trung ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước, cần phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường, khát vọng vươn lên, làm chủ cuộc sống của đồng bào các dân tộc, đồng bào các tôn giáo, hướng tới mục tiêu chung vì sự phồn vinh, thịnh vượng của đất nước.

Sáu là, nghiên cứu, vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo phải bảo đảm giữ gìn, phát huy giá trị, bản sắc văn hóa các dân tộc, phát huy giá trị văn hóa, đạo đức và nguồn lực tôn giáo.

Trong điều kiện một quốc gia đa dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao và trân trọng những nét độc đáo, đặc sắc riêng có, đặc trưng cho mỗi dân tộc, vùng miền. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Nước ta có nhiều dân tộc, đây là điểm tốt. Cần tôn trọng, giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp của văn hóa các dân tộc.

Trong điều kiện một quốc gia đa tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh - một vị lãnh tụ cộng sản theo quan điểm duy vật - đã không dùng nhãn quan đấu tranh ý thức hệ để đối lập vô thần với hữu thần, duy vật với duy tâm, tiến hành cuộc đấu tranh trực diện với giáo lý của tôn giáo mà chấp nhận, tôn trọng sự khác biệt, phát huy điểm tương đồng, ghi nhận và khích lệ những đóng góp của đồng bào tôn giáo. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tiếp cận vấn đề tôn giáo ở bình diện văn hóa, đạo đức, coi tôn giáo là một thành tố của văn hóa, do đó, Người nhấn mạnh tôn giáo mang những giá trị tốt đẹp, nhân văn, nhân ái, gắn với con người và vì con người. 

Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, trong quá trình sinh sống, lao động, sản xuất và giao lưu văn hóa giữa các dân tộc thiểu số, bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số được lưu truyền, nuôi dưỡng và phát huy, góp phần làm đậm nét và làm phong phú thêm nền văn hóa đặc sắc của Việt Nam. Tuy nhiên, cùng với sự thay đổi của xã hội hiện đại, những giá trị mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số đang đứng trước nhiều thách thức và có nguy cơ mai một, biến dạng. 

Riêng đối với vấn đề tôn giáo tại vùng dân tộc thiểu số và miền núi, trải qua quá trình phát triển, các tôn giáo đã phát huy truyền thống tương thân tương ái, hình thành nên nguồn lực vật chất và nguồn lực tinh thần phong phú, đóng góp cho quá trình phát triển tại địa bàn. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy, một số hiện tượng tôn giáo mới, tôn giáo nước ngoài du nhập vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số tiến hành truyền đạo trái phép, không tuân thủ quy định của pháp luật, trái với thuần phong mỹ tục và phong tục, tập quán truyền thống của dân tộc, tạo ra những mâu thuẫn, xung đột và đứt gãy về phương diện lịch sử, văn hóa. Một số hoạt động viện trợ về kinh tế và hoạt động từ thiện nhân đạo của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại vùng dân tộc thiểu số bị lợi dụng vào mục đích chính trị để tác động xấu đến nhận thức của tín đồ về một số chính sách kinh tế, xã hội khu vực miền núi, kích động tư tưởng mặc cảm, thù hằn dân tộc, gây chia rẽ; tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền.

Do đó, giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo tại các vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải bảo đảm giữ gìn, phát huy giá trị, bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, phong tục, tập quán truyền thống tốt đẹp của các dân tộc trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất; phát huy giá trị văn hóa, đạo đức và nguồn lực của tôn giáo trên mọi phương diện của đời sống xã hội, tạo điều kiện để đồng bào các tôn giáo phát huy năng lực, sở trường của mình cho sự phát triển của chính tôn giáo và phục vụ trực tiếp cho sự phát triển của địa phương; tạo niềm tin vững chắc của đồng bào các dân tộc, tôn giáo đối với Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị để tỉnh táo nhận diện và đấu tranh kịp thời với các hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo./.

ST.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét