Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nhất là từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc, cùng với sự nổi lên của các vấn đề khu vực và toàn cầu mà không quốc gia nào có thể tự giải quyết, chủ nghĩa đa phương đã và đang trở thành yếu tố quan trọng trong quan hệ quốc tế đương đại, để xây dựng một thế giới hòa bình, ổn định và thịnh vượng. Đối với Việt Nam, ngoại giao đa phương được Đảng và Nhà nước nhận định là một bộ phận quan trọng của đối ngoại Việt Nam, góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển Tổ quốc.
Tổng quan về chủ nghĩa đa phương và ngoại giao đa phương
Tư tưởng về hợp tác đa phương, hiểu theo nghĩa các quốc gia cùng phối hợp về một vấn đề cụ thể, đã sớm xuất hiện từ thế kỷ XVII, gắn liền với sự hình thành của hệ thống quốc tế mà chủ thể là quốc gia - dân tộc (Hệ thống Westphalia)(1) nhằm điều hòa quan hệ, duy trì cân bằng quyền lực giữa các quốc gia và ngăn ngừa chiến tranh(2). Tuy nhiên, phải đến cuối thế kỷ XIX, các hình thái hợp tác đa phương giữa các quốc gia mới bắt đầu xuất hiện(3) và có sự phát triển mang tính bước ngoặt trong thế kỷ XX.
Sự ra đời của Hội Quốc Liên sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất thể hiện một bước tiến trong tư duy về hợp tác đa phương, ước vọng hướng tới xây dựng cộng đồng quốc gia dựa trên một nền hòa bình chung, có trật tự. Đến năm 1945, sau khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Liên hợp quốc ra đời, đánh dấu sự hình thành và phát triển của hệ thống đa phương quốc tế(4) và luật pháp quốc tế ngày nay. Sự chấm dứt của cuộc Chiến tranh lạnh đã kéo theo sự vận động của đời sống quốc tế dưới tác động của xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa, cũng như sự nổi lên của các vấn đề toàn cầu. Từ đó, chủ nghĩa đa phương ngày càng phát triển, trở thành một xu thế nổi bật, góp phần định hình quan hệ quốc tế đương đại.
Hiểu một cách khái quát, chủ nghĩa đa phương là hành động mang tính tập thể để giải quyết một vấn đề thuộc quan tâm chung và ngoại giao đa phương là phương thức triển khai hoạt động đó. Trải qua nhiều thập niên, ngoại giao đa phương có nội hàm ngày càng sâu rộng, đa ngành, đa lĩnh vực và trở thành là một bộ phận quan trọng trong đường lối đối ngoại của các quốc gia.
Thành tựu nổi bật nhất của nỗ lực ngoại giao đa phương đến nay là đã góp phần duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, ngăn ngừa cuộc chiến tranh hủy diệt nhân loại thông qua việc xây dựng, phát triển hệ thống luật pháp quốc tế và cơ chế quốc tế để giải quyết tranh chấp(5); việc xây dựng và triển khai khuôn khổ hợp tác về giải trừ quân bị, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn các loại vũ khí này(6), cũng như việc thúc đẩy biện pháp xây dựng lòng tin, trung gian hòa giải, gìn giữ hòa bình(7). Bên cạnh đó, ngoại giao đa phương còn ghi dấu ấn trong việc xây dựng và triển khai các chương trình nghị sự quốc tế nhằm giải quyết thách thức toàn cầu, đạt được nhiều kết quả quan trọng(8); thúc đẩy liên kết kinh tế và sự hình thành các khuôn khổ tự do hóa thương mại và đầu tư, như Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CTPPP)…, qua đó góp phần tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất lao động và gia tăng đan xen lợi ích nhiều mặt giữa các quốc gia.
Ngoại giao đa phương Việt Nam: hành trình cùng đất nước hội nhập toàn diện và sâu rộng
Cùng với việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngoại giao đa phương Việt Nam đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng, xác định là ưu tiên của nền ngoại giao mới. Trong thư gửi Tổng Thư ký Liên hợp quốc năm 1946, Người viết:“Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực; chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc”(9). Tư tưởng coi trọng hợp tác đa phương đã được Đảng ta kế thừa và phát triển thể hiện qua chủ trương, định hướng về đối ngoại đa phương trong mỗi giai đoạn phát triển của đất nước.
Đặc biệt, kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, ngoại giao đa phương đã trở thành một bộ phận quan trọng trong tư duy và thực tiễn triển khai đường lối đối ngoại “độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(10). Khái niệm “đa dạng hóa quan hệ” trên cơ sở “thêm bạn, bớt thù” lần đầu tiên được đề cập trong văn kiện của Đảng tại Nghị quyết số 13/NQ-TW, ngày 20-5-1988, của Bộ Chính trị, thể hiện bước chuyển mang tính bước ngoặt trong tư duy đối ngoại và đặt nền móng cho chủ trương “đa phương hóa, đa dạng hóa” của Đảng và Nhà nước Việt Nam sau này. Trên cơ sở đó, tư duy và nội hàm đối ngoại đa phương của Đảng ta đã được kế thừa, liên tục bổ sung, hoàn thiện để phù hợp với tình hình quốc tế và phục vụ tốt nhất yêu cầu đặt ra của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Tại Đại hội XII của Đảng (năm 2016) và Đại hội XIII của Đảng (năm 2021), đối ngoại đa phương của Việt Nam đã được xác định là một định hướng chiến lược của đất nước. Nội hàm đối ngoại đa phương đã được Đảng và Nhà nước bổ sung, nâng tầm, làm sâu sắc, thể hiện bước chuyển mạnh mẽ từ tư duy “tham gia” (Đại hội của Đảng X năm 2006, Đại hội XI của Đảng năm 2011) sang “chủ động, tích cực tham gia, phát huy vai trò, đóng góp xây dựng định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế” (Đại hội XII của Đảng năm 2016 và Đại hội XIII của Đảng năm 2021(11). Đồng thời, Chỉ thị số 25-CT/TW, ngày 8-8-2018, của Ban Bí thư, “Về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030” đã bổ sung định hướng “nỗ lực vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt hoặc hòa giải tại các diễn đàn, tổ chức đa phương có tầm quan trọng chiến lược”.
Gần 80 năm qua, sự trưởng thành của ngoại giao đa phương luôn gắn liền với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của đất nước. Trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước (1945 - 1975), ngoại giao đa phương đã mở ra mặt trận quan trọng, góp phần tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc. Thắng lợi mang ý nghĩa lịch sử của ngoại giao đa phương, với Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, Hiệp định Pa-ri năm 1973, đã góp phần khẳng định vị thế một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, với các quyền dân tộc cơ bản trên trường quốc tế.
Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội và đổi mới (năm 1975 đến nay), ngoại giao đa phương đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, góp phần quan trọng phá thế bao vây, cấm vận, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, duy trì môi trường hòa bình, ổn định, nâng cao vị thế đất nước, thu hút nguồn lực phục vụ phát triển. Mỗi dấu ấn của ngoại giao đa phương đều góp phần mở đường đưa đất nước từng bước hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng. Việc Việt Nam trở thành thành viên của Liên hợp quốc vào năm 1977 có ý nghĩa chính trị và pháp lý quan trọng, khẳng định vị trí đầy đủ của một nước Việt Nam độc lập, thống nhất trên trường quốc tế(12). Nỗ lực đa phương của Việt Nam trong thúc đẩy đối thoại với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN, từ năm 1985) và Hội nghị quốc tế Pa-ri (năm 1991) để giải quyết vấn đề Cam-pu-chia đã tạo đột phá, góp phần khai thông quan hệ của Việt Nam với các nước, nhất là các nước lớn, như Trung Quốc, Hoa Kỳ và các tổ chức quốc tế, khu vực. Nếu việc gia nhập ASEAN (năm 1995) đánh dấu tiến trình hội nhập khu vực của đất nước thì việc gia nhập WTO sau gần 12 năm đàm phán là dấu mốc của nền kinh tế Việt Nam chính thức hội nhập toàn diện vào nền kinh tế thế giới ở quy mô toàn cầu. Đến nay, từ một quốc gia bị bao vây, cô lập, Việt Nam đã là thành viên của hầu hết cơ chế hợp tác, liên kết đa phương từ cấp độ toàn cầu (Liên hợp quốc, WTO, Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế), liên khu vực (Diễn đàn Hợp tác Á - Âu, Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương…) đến khu vực (ASEAN, Ngân hàng Phát triển châu Á…), sở hữu một mạng lưới hiệp định thương mại tự do (FTA) với hầu hết trung tâm kinh tế - thương mại hàng đầu thế giới. Cùng với quá trình đó, từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, chỉ sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, Việt Nam đã trở thành một “đầu tàu” tăng trưởng của khu vực châu Á, quốc gia đang phát triển năng động, đứng thứ 35 trong số các nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Phát huy thành tựu trong hội nhập kinh tế quốc tế, ngoại giao đa phương đã đồng hành cùng đất nước trong nỗ lực mở rộng hợp tác quốc tế toàn diện trên mọi lĩnh vực. Việt Nam tích cực tham gia nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế, nhất là Liên hợp quốc, trong giải quyết vấn đề hòa bình, an ninh khu vực và quốc tế, thúc đẩy quyền con người, thể hiện năng lực trên nhiều trọng trách quốc tế, nổi bật là đóng góp tích cực của Việt Nam khi đảm nhiệm các cương vị và nghĩa vụ quốc tế, như Chủ tịch ASEAN (năm 1998, 2010, 2020), Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008 - 2009, nhiệm kỳ 2020 - 2021), thành viên Hội đồng Thống đốc Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA, nhiệm kỳ 1991 - 1993, 1997 - 1999, 2003 - 2005, 2021 - 2023), Chủ nhà APEC (năm 2006, 2017), thành viên Hội đồng Nhân quyền (nhiệm kỳ 2014 - 2016, 2023 - 2025)(13)… Việt Nam cũng bước đầu tham gia hình thành các cơ chế hợp tác, xây dựng luật lệ, chuẩn mực chung, nhất là việc thúc đẩy triển khai Tuyên bố về ứng xử các bên ở Biển Đông (DOC), xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
Đóng góp của cán bộ, chiến sĩ Việt Nam cũng như hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng Việt Nam tung bay tại ngày càng nhiều Phái bộ gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, đánh dấu bước tiến quan trọng trong tiến trình hội nhập quốc tế về quốc phòng - an ninh, hiện thực hóa cam kết với vai trò là thành viên tích cực và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế trong duy trì môi trường hòa bình, ổn định và phát triển chung của nhân loại(14).
Bên cạnh đó, ngoại giao đa phương cũng đồng hành cùng quá trình hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực khác, như văn hóa, an sinh xã hội, lao động, thông tin - truyền thông, môi trường, du lịch..., qua đó góp phần hình thành bản sắc văn hóa Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế, đồng thời thúc đẩy tiến bộ xã hội, phát triển thị trường lao động, hệ thống an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo và thực hiện các Mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc; gìn giữ và quảng bá hiệu quả giá trị văn hóa, lịch sử, truyền tải thông điệp về một đất nước Việt Nam văn hiến, yêu chuộng hòa bình,… Trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế, việc tham gia các cơ chế hợp tác đa phương khu vực và quốc tế đã góp phần phát triển nền khoa học, giáo dục tiên tiến, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, y tế, đáp ứng nhu cầu của người dân, đặc biệt giúp huy động sự hỗ trợ thiết thực, hiệu quả của các thể chế đa phương trong phòng, chống dịch bệnh, trong đó có việc viện trợ hơn 70 triệu liều vắc-xin ngừa dịch bệnh COVID 19(15).
Thành tựu đạt được đã góp phần quan trọng, khẳng định vai trò của đối ngoại đa phương và mối quan hệ biện chứng gắn kết giữa đối ngoại đa phương và hội nhập quốc tế trong trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
Ngoại giao đa phương Việt Nam: hướng tới kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đang vững bước tiến vào kỷ nguyên mới của dân tộc, kỷ nguyên vươn mình và hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện hơn. Nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đất nước trong giai đoạn tới, ngoại giao đa phương cần nỗ lực góp sức tranh thủ tối đa điều kiện, nguồn lực và cơ hội mới từ cục diện quốc tế và chủ nghĩa đa phương cho công cuộc xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.
Cơ hội và thách thức đối với chủ nghĩa đa phương và ngoại giao đa phương trong thời đại mới
Trong thời gian tới, cục diện thế giới và khu vực được dự báo tiếp tục có diễn biến phức tạp, khó lường, tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế, chủ nghĩa đa phương, cũng như vai trò và hoạt động các thể chế đa phương khu vực và quốc tế với một số đặc điểm nổi bật.
Thứ nhất, hòa bình, hợp tác và phát triển là nguyện vọng chung của các dân tộc trên thế giới, nhưng tiếp tục đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, đặc biệt là dưới tác động của chiến tranh, xung đột, tranh chấp biên giới lãnh thổ, tài nguyên thiên nhiên và vấn đề an ninh phi truyền thống, như dịch bệnh, biến đổi khí hậu, thách thức về an ninh năng lượng, lương thực, nguồn nước, an ninh mạng, khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia... Đồng thời, xu hướng hành xử đơn phương, chính trị cường quyền, chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa dân tộc vị kỷ tiếp tục là thách thức đối với chủ nghĩa đa phương. Nhưng về tổng thể, đa số các nước vẫn coi trọng việc tham gia các thiết chế hợp tác đa phương khu vực và quốc tế do nhu cầu bức thiết xử lý vấn đề toàn cầu vượt ngoài khả năng của một quốc gia đơn lẻ(16).
Thứ hai, cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt, lan rộng, thể chế hóa; tuy nhiên, dù cạnh tranh quyết liệt, các nước lớn vẫn tìm cách tránh làm đổ vỡ quan hệ và tê liệt hợp tác đa phương(17). Bên cạnh đó, tập hợp lực lượng tại các diễn đàn đa phương ngày càng đa dạng về hình thức, quy mô, tính chất; ngày càng có nhiều sáng kiến, đề xuất, tập hợp mới, nhất là liên kết tiểu đa phương, có thể ít gắn hơn với các thể chế hợp tác đa phương khu vực và quốc tế truyền thống. Trong bối cảnh đó, các nước vừa và nhỏ đứng trước sức ép “chọn bên” lớn hơn, nhưng cũng có thêm cơ hội phát huy vai trò do các nước lớn cần tranh thủ bạn bè, đối tác và cân nhắc tham gia các tập hợp lực lượng mới một cách linh hoạt, phù hợp.
Thứ ba, xuất hiện và hình thành xu thế và tiến trình mới, như xu thế chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là trí tuệ nhân tạo (AI), đã và đang mở ra nhiều cơ hội phát triển, song cũng tiềm ẩn mặt trái, yếu tố phức tạp và đặt ra nhu cầu tăng cường quản trị toàn cầu trong các lĩnh vực này. Sự xuất hiện của các vấn đề mới thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế kéo theo việc chương trình nghị sự đa phương ngày càng được mở rộng, đa dạng, đi sâu vào nội dung chuyên ngành và mang tính liên thông.
Định hướng triển khai ngoại giao đa phương Việt Nam trong thời gian tới
Trong cục diện quốc tế như vậy, ngoại giao đa phương cần phối hợp chặt chẽ với các “binh chủng” đối ngoại của đất nước, tiếp tục đẩy mạnh và nâng tầm sự tham gia, đóng góp của Việt Nam trên các diễn đàn đa phương khu vực và quốc tế, tương xứng với tầm vóc, vị thế của đất nước.
Về tư duy, tiếp tục quán triệt triển khai hiệu quả Nghị quyết Đại hội Đảng XIII của Đảng, các văn bản chỉ đạo mang tính định hướng của Đảng và Nhà nước về đối ngoại, hội nhập quốc tế; thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa trên cơ sở bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Cùng với đó, cần có sự chuyển biến tư duy mạnh mẽ hơn nữa từ “tham dự” sang “chủ động tham gia” trong triển khai công tác đối ngoại đa phương, vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt trong xây dựng, định hình thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế; tăng cường đổi mới sáng tạo trong cách thức triển khai và biện pháp đối ngoại đa phương theo hướng thực chất, hiệu quả.
Về biện pháp, xác định rõ trọng tâm, trọng điểm, song song với bảo đảm tính liên thông, đồng bộ trong tham gia diễn đàn đa phương khu vực và quốc tế khác nhau có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bên cạnh việc “nuôi dưỡng” nội dung, sáng kiến mà Việt Nam đã ưu tiên, thúc đẩy một cách xuyên suốt, Việt Nam cần chủ động nắm bắt cơ hội, sẵn sàng tham gia cũng như đề xuất sáng kiến mới phù hợp với nhu cầu và tình hình hiện tại trong các lĩnh vực, như chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, khoa học - công nghệ, AI, chuyển đổi năng lượng, ứng phó biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng, an ninh lương thực và thách thức an ninh phi truyền thống khác. Để thực hiện được điều này, cần chú trọng đẩy mạnh, đào sâu nghiên cứu lĩnh vực chuyên ngành tại cơ chế hợp tác đa phương khu vực và quốc tế, nhất là trong vấn đề an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, tác động trực tiếp tới an ninh và phát triển của Việt Nam.
Về tổ chức thực hiện, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa bên trong và bên ngoài, phối hợp liên ngành, nhất là thông qua cơ chế phối hợp, trao đổi thường xuyên giữa các ban, bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp để bảo đảm sự thống nhất về tư duy và đồng lòng trong hành động. Đây là đòi hỏi tất yếu khi Việt Nam tham gia diễn đàn đa phương khu vực và quốc tế ngày càng mang tính liên thông và chuyên ngành. Đồng thời, nâng cao chất lượng, tính chủ động, sáng tạo trong công tác nghiên cứu về đa phương, từ đó tham mưu, đề xuất và triển khai hình thức, biện pháp và cách làm mới, sáng kiến đa phương mới.
Ở trong nước, triển khai hiệu quả điều ước, thỏa thuận, cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia, thúc đẩy; xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, cơ chế triển khai phù hợp để đáp ứng việc thực hiện cam kết và nghĩa vụ quốc tế. Bên cạnh đó, đẩy mạnh đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy triển khai công tác đối ngoại đa phương tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và tăng cường đầu tư nguồn lực tài chính và con người cho công tác đối ngoại đa phương tương xứng với tiềm lực và vị thế của Việt Nam; trong đó, có tăng cường xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, chuyên gia làm công tác đối ngoại đa phương vững mạnh, chuyên nghiệp, chuyên sâu, giàu bản lĩnh chính trị, đủ trình độ, năng lực, kỹ năng và có tính kế thừa.
Đặc biệt, năm 2025 là năm quan trọng, có nhiều dấu mốc lớn trong đối ngoại đa phương, như 30 năm Việt Nam gia nhập ASEAN, 80 năm thành lập Liên hợp quốc. Tiếp đà đóng góp của Việt Nam cho các vấn đề chung của thế giới, công tác đối ngoại đa phương sẽ tập trung vào việc chuẩn bị, tổ chức tốt các sự kiện Việt Nam đăng cai, như Diễn đàn Tương lai ASEAN, Hội nghị thượng đỉnh Diễn đàn Đối tác vì tăng trưởng xanh và mục tiêu toàn cầu lần thứ 4 (P4G), Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD); tiếp tục đảm nhận thành công trọng trách, nhiệm vụ trong các tổ chức, diễn đàn hợp tác đa phương khu vực và quốc tế, như ASEAN, Tiểu vùng sông Mê Công, Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), các cơ chế hợp tác của Liên hợp quốc, trong đó có cơ chế của UNESCO và Hội đồng Chấp hành Cơ quan Liên hợp quốc về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ nhiệm kỳ 2025 - 2027.
Đồng thời, Việt Nam tiếp tục đảm nhiệm vai trò thành viên tích cực và có trách nhiệm tại tổ chức, cơ quan, diễn đàn đa phương và tiếp tục ứng cử vào vị trí phù hợp với ưu tiên, lợi ích của Việt Nam, như ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2026 - 2028, lần đầu tiên có ứng cử viên cho vị trí Thẩm phán Tòa án quốc tế về luật biển (ITLOS) nhiệm kỳ 2026 - 2035… Việt Nam cũng sẽ đóng góp tích cực, trách nhiệm hơn vào các vấn đề chung, nhất là ứng phó với các thách thức toàn cầu, như biến đổi khí hậu, giảm phát thải ròng, thúc đẩy các Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs); tham gia sâu hơn vào hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, cứu hộ, cứu nạn, viện trợ nhân đạo...
Với phương hướng đề ra, ngoại giao đa phương sẽ tiếp tục đồng hành, góp phần tạo đà thuận lợi đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam ./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét