Khái
niệm “quyền dân tộc tự quyết” và “quyền của người bản địa” tuy có quan hệ nhưng
rất khác nhau về nội hàm, đặc biệt là ý nghĩa chính trị. Trên bình diện quốc tế,
“quyền dân tộc tự quyết” là việc một quốc gia - dân tộc có quyền tự chủ đối với
vận mệnh của dân tộc mình, quyền quyết định về thể chế chính trị và con đường
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội...
Trong
khi đó, “quyền của người bản địa” là quyền của các dân tộc thiểu số (DTTS) hoặc
nhóm sắc tộc, chủ yếu là những quyền về văn hóa - xã hội của một bộ phận dân cư
trong lòng một quốc gia - dân tộc có chủ quyền. Khái niệm quyền của người DTTS
được chính thức ghi nhận tại Điều 27 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự
và chính trị (ICCPR 1966): “Ở những quốc gia tồn tại các nhóm thiểu số về sắc tộc,
tôn giáo hoặc ngôn ngữ, những người thuộc các nhóm thiểu số đó sẽ không bị từ
chối quyền, trong cộng đồng với các thành viên khác trong nhóm của họ, được hưởng
nền văn hóa của họ, tuyên xưng và thực hành tôn giáo của họ, hoặc sử dụng ngôn
ngữ riêng của họ”(2). Như vậy, khi nói đến “quyền của người bản địa”
thì chủ yếu là những quyền thuộc nhóm quyền kinh tế, văn hóa - xã hội.
Pháp
luật quốc tế không công nhận một DTTS ở một quốc gia được ly khai, thành lập một
quốc gia độc lập với quốc gia được quốc tế công nhận mà họ là công dân trong quốc
gia đó. Tuyên bố về trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa, được
thông qua theo Nghị quyết số 1514 (XV), ngày 1-4-1960, của Đại Hội đồng Liên hợp
quốc khẳng định: Bất kỳ cố gắng nào nhằm gây phá vỡ toàn bộ hay một phần sự thống
nhất quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của một đất nước là trái với các mục tiêu và
nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc. Tại Điều 46, Tuyên ngôn về quyền của
các dân tộc bản địa (năm 2007) cũng ghi rõ: Không một điểm nào trong Tuyên ngôn
này được giải thích để hàm ý cho bất kỳ nhà nước, dân tộc, nhóm người hay người
nào có quyền tham gia vào bất kỳ hoạt động nào hoặc thực hiện bất kỳ hành vi
nào trái với Hiến chương Liên hợp quốc hoặc được giải thích để ủy quyền hay
khuyến khích bất kỳ hành vi nào làm chia cắt hay suy yếu toàn bộ hay một phần sự
thống nhất về lãnh thổ hay đoàn kết về chính trị của các nhà nước độc lập và có
chủ quyền.
Như
vậy, “quyền tự quyết” của dân tộc, sắc tộc nào đó trong một quốc gia - dân tộc
có chủ quyền không được phép vượt ra ngoài khuôn khổ “quyền dân tộc tự quyết”,
không được xâm phạm quyền của cả quốc gia - dân tộc. Những đòi hỏi về “quyền tự
quyết” được cho là dựa trên Tuyên ngôn về quyền của các dân tộc bản địa là cách
hiểu sai lệch, trái với Hiến chương Liên hợp quốc và pháp luật quốc tế về quyền
con người.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “dân tộc bản địa” gắn liền với thời kỳ nước ta bị đô hộ, xâm lược. Thời kỳ Pháp thuộc, tên nước Việt Nam bị xóa trên bản đồ thế giới, bị chia cắt thành ba kỳ trong xứ Đông Dương thuộc Pháp; thuật ngữ “người bản xứ” (hoặc “người bản địa”) được dùng để chỉ tất cả các cộng đồng dân tộc Việt Nam. Khi ấy, tất cả người dân nước ta không phân biệt dân tộc, tôn giáo đều bị gọi tên An-nam-mít (Annammit). Như vậy là, khái niệm “người bản địa” chỉ mới xuất hiện ở Việt Nam từ khi nước ta trở thành thuộc địa của chủ nghĩa thực dân và nó chỉ tồn tại với chế độ đó(3). Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, người dân Việt Nam làm chủ đất nước của mình, không còn là “dân bản địa” hay “người bản xứ” nữa. “Ngày nay, khi đất nước độc lập, thống nhất, Nhà nước Việt Nam là của dân, do dân, vì dân với chính sách đại đoàn kết dân tộc, thì khái niệm “người bản địa” và “quyền của người bản địa” đã lùi về quá khứ. Thay vào đó là “quyền công dân” - quyền của tất cả mọi người Việt Nam”(4). Năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Điều 6) khẳng định: Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa. Đây là sự thật lịch sử không ai có thể bác bỏ!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét