Những thành tựu phát triển của Việt Nam
trong quá trình đổi mới đã chứng minh giá trị bất hủ của chủ nghĩa Mác - Lênin,
trong đó có giá trị về công bằng xã hội. Điểm nổi bật trong sự sáng tạo lý luận
về công bằng xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam là luôn quan tâm đến người dân,
không để ai bị bỏ lại phía sau, trên cơ sở bình đẳng, công bằng về cơ hội phát
triển. Chính thành tựu lý luận và thực tiễn này đã phản bác lại các quan điểm
sai trái, thù địch phủ nhận những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.
Để chỉ ra bản chất của cái gọi là “công
bằng” trong CNTB, các nhà kinh điển mácxít đã sớm chỉ ra, trong nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa, nguyên tắc trao đổi ngang giá đã bị đồng nhất với cái
gọi là sự công bằng. Trong nền kinh tế thị trường tư bản, quan hệ trao đổi
ngang giá được thực hiện đối với mọi hàng hóa nói chung, trong đó có hàng hóa
sức lao động. Về mặt danh nghĩa, hàng hóa sức lao động trong CNTB đã thuộc sở
hữu của chính người lao động, nên tưởng chừng người lao động đã được tự do định
đoạt đối với lao động của chính mình. Nghĩa là người lao động đã thực sự được
giải phóng khỏi sự lệ thuộc vào ruộng đất của chủ đất, khỏi lao động cống nạp
như thời kỳ phong kiến; và nhờ đó người công nhân trong CNTB được tham gia một
cách tự do, bình đẳng vào quan hệ mua bán sức lao động với nhà tư bản, được
toàn quyền quyết định bán hay không bán sức lao động của mình cho nhà tư bản
trên cơ sở “thuận mua, vừa bán” theo đúng quy luật của thị trường.
Phải chăng sau nhiều sự điều chỉnh, đến
nay CNTB đã hoàn toàn khắc phục được sự bất công xã hội để đi đến một xã hội
vượt xa trước đây. Về điều này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đặt câu hỏi:
“Thực tế có phải hiện nay chủ nghĩa tư bản, kể cả những nước tư bản chủ nghĩa
già đời vẫn đang phát triển tốt đẹp không? Có phải Việt Nam chúng ta đã chọn
con đường đi sai không?”
Sự biến đổi trong thế giới ngày nay càng
cho thấy bản chất của CNTB, mặc dù luôn mệnh danh cho một xã hội của sự tiến bộ
và công bằng, song về bản chất vẫn không hề thay đổi. Bản chất đó của CNTB đã
luôn đẩy con người đến sự tha hóa, bất công, bất bình đẳng và phản tiến bộ. Sâu
sắc hơn nữa, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng còn vạch rõ: “Những tình huống “phát
triển xấu”, những nghịch lý “phản phát triển”, từ địa hạt kinh tế - tài chính
đã tràn sang lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội và ở không ít nơi
từ tình huống kinh tế đã trở thành tình huống chính trị với các làn sóng biểu
tình, bãi công, làm rung chuyển cả thể chế”(
Để thực hiện mục tiêu công bằng xã hội
thực sự ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn căn cứ vào cơ sở lý luận của
chủ nghĩa Mác và vận dụng vào thực tiễn của đất nước. Trên cơ sở tổng kết quá
trình phát triển đất nước trong những năm qua, đồng thời xuất phát từ việc thực
hiện kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, phát huy nhân
tố con người, lấy nhân dân làm trung tâm, phát huy vai trò của văn hóa - nền tảng
tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực nội sinh của sự phát triển, Đại hội
XIII của Đảng xác định thực hiện công bằng xã hội là cơ sở bảo đảm cho mục tiêu
kép, cả về hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.
Khẳng định vai trò của phát triển kinh
tế trong việc thực hiện mục tiêu công bằng xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh
tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh
tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh
lành mạnh… Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển;
thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế,
đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua
hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng
pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để
định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”
Như vậy, thực hiện công bằng xã hội và
tiến bộ xã hội là cốt lõi trong mục tiêu tổng thể của sự nghiệp xây dựng CNXH ở
Việt Nam. Hơn nữa, để xây dựng thành công CNXH, trong đó nhấn mạnh đến gắn công
bằng xã hội với phát triển văn hóa. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa
dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và
phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước,
tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã
hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình
độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn thực hiện
công bằng xã hội, Đại hội XIII nhấn mạnh phải nhận thức đầy đủ và bảo đảm định
hướng XHCN trong các chính sách xã hội, trên cơ sở gắn chính sách phát triển
kinh tế với chính sách xã hội, quan tâm lĩnh vực công tác xã hội, nâng cao chất
lượng cuộc sống của nhân dân. Đây là quan điểm đúng đắn của Đảng trong nhận
thức và trong thực tiễn thực hiện công bằng xã hội, nhằm không ngừng nâng cao
chất lượng cuộc sống nhân dân, cũng như tăng cường tiềm lực của đất nước. Theo
đó, cần tăng cường quản lý xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính
bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội,
an ninh con người. Triển khai đồng bộ, toàn diện các mục tiêu kinh tế, tiến bộ,
công bằng xã hội và môi trường, phân bổ nguồn lực hợp lý để nâng cao hiệu quả
phát triển xã hội. Xây dựng và thực hiện đồng bộ thể chế, chính sách phát triển
xã hội bền vững, hài hòa, từ thực hiện công bằng về cơ hội phát triển; đồng
thời, kiểm soát được sự phân tầng xã hội và xử lý kịp thời, hiệu quả các rủi
ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.
Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về CNXH với mục tiêu thực hiện công bằng xã hội ngay từ cơ
hội phát triển đã khơi dậy và phát huy tiềm năng phát triển con người Việt Nam
trong công cuộc đổi mới. Đây cũng chính là động lực để nước ta phát triển
nhanh, bền vững và hướng tới thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét