Với bờ biển dài trên 3.260km và hơn 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ, trong đó có một số đảo lớn, đặc biệt có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường San án ngữ Biển Đông, biển, đảo Việt Nam có vị trí địa chính trị, kinh tế vô cùng quan trọng. Không những nằm án ngữ tuyến đường hàng hải và hàng không huyết mạch của thế giới và các nước trong khu vực, biển đảo Việt Nam còn có vị trí, vai trò trọng yếu về quốc phòng-an ninh, hình thành phên giậu, pháo đài, chiến lũy nhiều tầng, lớp, bố trí thành tuyến phòng thủ liên hoàn vững chắc bảo vệ Tổ quốc. Do đó, bảo vệ chủ quyền biển, đảo chính là góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, duy trì hòa bình, ổn định và phát triển bền vững.
Trên
tinh thần đó và trước yêu cầu của tình hình mới, Đảng ta thể hiện rõ quan điểm
phát huy sức mạnh tổng hợp bảo vệ biển, đảo của Tổ quốc; phát triển kinh tế-xã
hội gắn với tăng cường quốc phòng-an ninh, đối ngoại, bảo vệ chủ quyền biển, đảo
trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Điều này liên tục được khẳng định trong các
văn kiện Đại hội và các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, trong Chiến lược phát triển
bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, cũng như
trong các phát biểu của lãnh đạo cấp cao. Trong đó có: “Kiên quyết, kiên trì đấu
tranh bảo vệ chủ quyền và các lợi ích hợp pháp, chính đáng của quốc gia trên biển,
đồng thời chủ động, tích cực giải quyết, xử lý các tranh chấp, bất đồng trên Biển
Đông bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước
của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để
phát triển đất nước”; “Cần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển
đất nước, đồng thời kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không bao giờ nhân nhượng trước những vấn
đề thuộc về chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ”; “Chúng ta
không chọn bên mà chọn lẽ phải, xu hướng thời đại là hòa bình, hợp tác và phát
triển”; “Chúng ta chỉ sử dụng sức mạnh quốc phòng trong tình huống tự vệ khi đất
nước bị xâm hại, trước hết là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
lợi ích quốc gia-dân tộc, sự ổn định của chế độ”.
Riêng
với vấn đề Biển Đông, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng đã
nhiều lần khẳng định, Việt Nam có chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán
đối với các vùng biển ở Biển Đông được xác định theo đúng các quy định của Công
ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và các nước ở Biển Đông đều là
thành viên. Lập trường nhất quán, xuyên suốt của Việt Nam đó là giải quyết mâu
thuẫn thông qua thương lượng hòa bình trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp
quốc về Luật Biển 1982 và Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông. Theo đó,
mỗi khi chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông bị xâm phạm, Đảng,
Nhà nước, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng luôn thể hiện tinh thần đấu tranh kiên
quyết, kiên trì bằng các biện pháp hòa bình tại các diễn đàn đa phương và trong
tiếp xúc song phương với các nước trực tiếp có tranh chấp. Bằng chủ trương giải
quyết các vấn đề liên quan chủ quyền ở Biển Đông thông qua các biện pháp hòa
bình trên tinh thần hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau cũng như tuân thủ luật pháp
quốc tế, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả thỏa thuận quan trọng với các nước
trong khu vực để giữ vững chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Vì vậy, dù tình hình
trên biển có thời điểm diễn biến phức tạp và căng thẳng, nhưng Việt Nam vẫn đạt
được mục tiêu bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc; không để xảy ra xung đột, giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét