Thứ Ba, 11 tháng 3, 2025

Sự phát triển quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ an ninh quốc gia và việc vận dụng trong tình hình mới

 

Để tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp mọi mặt trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng ta không ngừng bổ sung, phát triển, hoàn thiện quan điểm về bảo vệ an ninh quốc gia (ANQG), tạo sự thống nhất từ nhận thức đến hành động trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cùng chung sức, đồng lòng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Bảo vệ an ninh quốc gia là vấn đề đặc biệt hệ trọng

“ANQG là vấn đề hệ trọng, là giá trị cao nhất, quyết định vận mệnh quốc gia, dân tộc”(1); “bảo vệ ANQG là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại hoạt động xâm phạm ANQG và loại trừ nguy cơ đe dọa ANQG”(2). Vì vậy, với mọi quốc gia trên thế giới, ANQG và bảo vệ ANQG luôn là vấn đề đặc biệt hệ trọng, không thể tách rời nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ đất nước. Bởi vì, trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động phức tạp, khó lường, quốc gia nào có môi trường chính trị ổn định, ANQG luôn bảo đảm sẽ là một trong những điều kiện thuận lợi tạo lập vị thế, uy tín trên trường quốc tế, trở thành nguồn lực quan trọng để quốc gia đó phát triển ngay cả khi bối cảnh thế giới không biến động phức tạp thì ANQG và bảo vệ ANQG vẫn luôn là vấn đề đầu tiên mang tính sống còn.

Đối với Việt Nam, “bảo vệ ANQG ở Việt Nam được hiểu là Đảng, Nhà nước bằng mọi biện pháp, huy động mọi nguồn lực loại trừ các yếu tố đe dọa đến lợi ích quốc gia dân tộc kể cả từ bên trong và bên ngoài, giữ vững và phát triển bền vững quốc gia”(3). Nhận thức rõ những vấn đề trên, trong mọi giai đoạn lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và xem bảo vệ ANQG là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng Công an nhân dân Việt Nam và Quân đội nhân dân Việt Nam làm nòng cốt. Luật An ninh quốc gia năm 2004 chỉ rõ: “An ninh quốc gia là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc” (khoản 1, Điều 3) và “Bảo vệ an ninh quốc gia là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia” (khoản 2, Điều 3). Như vậy, bảo vệ ANQG là vấn đề đặc biệt hệ trọng, sống còn của đất nước.

Sau gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong mọi tình huống, sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống chính trị được huy động, nhất là các lực lượng nòng cốt luôn nêu cao quyết tâm bảo vệ một cách tốt nhất Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ tuyệt đối an toàn các mục tiêu, công trình trọng điểm về ANQG, các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước và quốc tế; công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí có bước chuyển biến tích cực; các vấn đề an ninh xã hội, an ninh dân tộc, tôn giáo, an ninh tư tưởng - văn hóa, an ninh mạng được quan tâm giải quyết thỏa đáng…, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân với Ðảng và Nhà nước. Bằng đường lối đối ngoại linh hoạt, mềm dẻo, Đảng tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, từng bước làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng trong tình hình mới… Chính vì thế, ANQG luôn được giữ vững, tạo thế chủ động chiến lược từ sớm, từ xa, từ cơ sở; vị thế, uy tín quốc tế của đất nước ta không ngừng được nâng cao. Đất nước ta đạt được “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới... Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(4).

Quá trình phát triển quan điểm về bảo vệ an ninh quốc gia của Đảng từ thời kỳ đổi mới đất nước đến nay

Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ ANQG là tất yếu, phù hợp với quy luật khách quan, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi. Đại hội VI (năm 1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam mở ra tiến trình đổi mới đất nước, tại Đại hội này, Đảng ta đã nhận thức “đổi mới tư duy trong mọi lĩnh vực hoạt động của Đảng và Nhà nước là việc cấp bách, đồng thời là việc thường xuyên, lâu dài”(5), “muốn đổi mới tư duy, Đảng phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh..., tiếp thu những thành tựu lý luận, những kiến thức khoa học của thời đại”(6). Qua đó, một mặt, Đảng vận dụng đúng đắn, sáng tạo những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin để xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam một cách tuyệt đối, trực tiếp; mặt khác, để phát huy vai trò lãnh đạo trong sự nghiệp bảo vệ ANQG, Đảng luôn coi trọng công tác tổng kết, phân tích thực tiễn, đổi mới tư duy lý luận để phát triển, bổ sung, hoàn thiện quan điểm về bảo vệ ANQG phù hợp với bối cảnh tình hình của thế giới, khu vực và trong nước.

Một là, Đảng chủ động đổi mới nhận thức để xác định rõ đối tượng, đối tác và mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ ANQG. Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước được thống nhất và tiến hành công cuộc tái thiết, hàn gắn vết thương chiến tranh. Đây là giai đoạn có sự đối đầu giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản nên cụm từ “phe chủ nghĩa xã hội”, “phe đế quốc” thường được sử dụng. Đến Đại hội VI của Đảng, tư duy về đối tượng, đối tác được định hình rõ nét hơn, nhất là khi Nghị quyết số 13/NQ-TW, ngày 20-5-1988, của Bộ Chính trị, “Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới” ra đời đánh dấu bước chuyển biến tư duy chiến lược, tạo tiền đề để Đại hội VII của Đảng chính thức thực hiện phương châm “đa phương hóa, da dạng hóa” trong quan hệ đối ngoại. Theo đó, giai đoạn này, Đảng ta lần đầu tiên đưa ra quan điểm về “lợi ích quốc gia - dân tộc”(7) và xác định mục tiêu, nhiệm vụ là bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ ANQG nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế - xã hội phát triển.

Những năm gần đây, tình hình thế giới, khu vực diễn biến hết sức phức tạp, khó lường; các thế lực thù địch đẩy mạnh các hoạt động chống phá cách mạng nước ta bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”; tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, biên giới, biển, đảo diễn ra gay gắt... Để nhận diện rõ đối tượng, đối tác, Nghị quyết số 51-NQ/TW, ngày 5-9-2019, của Bộ Chính trị, “Về chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia” xác định Đảng chủ trương tiếp tục phát huy mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra giai đoạn trước; đồng thời, phát triển, bổ sung mục tiêu, nhiệm vụ mới phù hợp tình hình của đất nước, khu vực và thế giới, đó là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân, hướng đến “bảo vệ con người, an ninh con người” bằng các biện pháp mới và mạnh hơn là phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại.

Hai là, Đảng không ngừng quan tâm, chú trọng xây dựng tiềm lực ANQG. Tiềm lực ANQG được hiểu là tổng thể nhân lực, vật lực, tài chính trong và ngoài nước có thể huy động, sử dụng để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Sau khi đất nước được thống nhất, tư duy của Đảng về xây dựng tiềm lực ANQG theo hướng toàn dân, toàn diện, hiện đại, hướng đến nền quốc phòng vững mạnh, đập tan mọi âm mưu chiến tranh xâm lược từ bên ngoài để thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đến “Đại hội lần thứ VI của Đảng đánh dấu bước chuyển quan trọng trong quá trình kế thừa và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức”(8), nên quan điểm xây dựng tiềm lực bảo vệ ANQG có sự phát triển mới “kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, đẩy mạnh công cuộc xây dựng quốc phòng toàn dân”(9). Lúc này, Đảng xem phát triển khoa học - công nghệ và kỹ thuật là một trong những điều kiện quan trọng phục vụ quá trình đổi mới, do đó “xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang được trang bị kỹ thuật từng bước hiện đại”(10) và “phải làm cho khoa học, kỹ thuật thật sự trở thành một động lực to lớn đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”(11).

Kế thừa truyền thống quý báu của lịch sử dựng nước và giữ nước, Đại hội XI của Đảng đã phát huy sức mạnh “lòng dân”, “dựa vào dân”, “lấy dân làm gốc”, “đoàn kết toàn dân tộc” để bảo vệ Tổ quốc trên cơ sở “xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân làm nòng cốt”(12). Đến Đại hội XIII, Đảng đề ra chủ trương “xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại... Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”(13). Cần nhấn mạnh rằng, sau thuật ngữ “thế trận lòng dân”, ở các đại hội tiếp theo, Đảng đưa thêm các thuật ngữ “thế trận an ninh nhân dân”, “nền an ninh nhân dân”, thể hiện sự phát triển tư duy, tầm nhìn chiến lược mới của Đảng về tiềm lực, sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Ba là, mỗi giai đoạn lãnh đạo cách mạng, trên cơ sở phân tích, dự báo tình hình thế giới, khu vực và trong nước, Đảng đã xây dựng tầm nhìn chiến lược, xác định rõ phạm vi bảo vệ ANQG phù hợp. Đất nước ta tiến hành thực hiện đường lối đổi mới, nhưng “bọn đế quốc câu kết với các thế lực phản động quốc tế khác một mặt đe dọa quân sự từ bên ngoài, kết hợp với bao vây phá hoại về kinh tế, chính trị, thực hiện diễn biến hòa bình và lật đổ từ bên trong”(14), nên Đảng nêu cao quyết tâm “bảo vệ chủ quyền và giữ vững các tuyến biên giới, vùng trời, vùng biển và hải đảo”(15). Sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng, thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh được củng cố. Trong giai đoạn 1996 - 2000, tình hình thế giới diễn biến rất phức tạp, do đó, Đảng ta chủ động sẵn sàng ứng phó với mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu; tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) xác định tầm nhìn “đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(16). Đại hội XIII của Đảng tiếp tục phân tích cục diện chính trị, an ninh thế giới và khu vực, dự báo các tình huống có thế xảy ra làm phương hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc và đề ra quan điểm: “Ứng phó kịp thời, hiệu quả với các đe dọa an ninh phi truyền thống... Có kế sách ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa”(17); chủ động hợp tác, đối ngoại quốc phòng, an ninh để bảo vệ ANQG không chỉ trên bộ, trên biển, trên không, trên vũ trụ, mà còn cả trên không gian mạng.

Bốn là, Đảng không ngừng đổi mới tư duy lý luận về phương châm chỉ đạo bảo vệ ANQG phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Đặc biệt, khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, Đảng ta thực hiện phương châm “thêm bạn, bớt thù”, “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”, “tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, lệ thuộc”; đồng thời, vận dụng đúng đắn phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến” để thực hiện chủ trương mở cửa, hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện, thực hiện “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại…, là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(18). Hiện nay, để thực hiện chủ trương tránh xung đột lợi ích chiến lược của các nước lớn, không bị nước ngoài lôi kéo, lợi dụng, tạo nên sự đối đầu không đáng có với nước khác, Đảng công khai, minh bạch chính sách quốc phòng với nội dung cốt lõi “không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”(19). Như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kế thừa, vận dụng nghệ thuật truyền thống “giữ nước từ khi nước chưa nguy”, “lấy phòng ngừa là chính” để bảo vệ ANQG; luôn giữ vững thế chủ động chiến lược trong mọi tình huống, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

Phát huy sức mạnh tổng hợp để bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới

Trong thời gian tới, “dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, xuất hiện các yếu tố thuận lợi mới đan xen các thách thức khó lường đối với an ninh, lợi ích quốc gia của Việt Nam trên cả hai hướng bên trong và bên ngoài”(20). Ở trong nước, “các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, quân đội bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội,... với những âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc, khó nhận diện”(21). Đáng chú ý, “trong bối cảnh “đa khủng hoảng” trên phạm vi toàn cầu, một số tình huống đang nổi lên trở thành những thách thức mới đối với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh: 1- Diễn biến hòa bình, bạo loạn chính trị “cách mạng màu” phát triển thành bạo loạn vũ trang, can thiệp lật đổ; 2- Xâm phạm chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc, xâm chiếm biển, đảo, biên giới bằng các biện pháp phi vũ trang hoặc vũ trang với các mức độ khác nhau; 3- Chiến tranh biên giới; 4- Chiến tranh trên vùng trời; 5- Chiến tranh thông tin, chiến tranh trên không gian mạng; 6- Chiến tranh công nghệ cao; 7- Chiến tranh xâm lược quy mô lớn; 8- Các tình huống an ninh phi truyền thống; 9- Chiến tranh kinh tế với nhiều dạng thức”(22). Để tiếp tục bảo vệ vững chắc ANQG đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, cả hệ thống chính trị, nhất là lực lượng nòng cốt triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: Một là, quán triệt sâu sắc, toàn diện quan điểm của Đảng về bảo vệ ANQG, nhất là Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16-3-2022, của Bộ Chính trị khóa XIII, “Về đẩy mạnh xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới” và Nghị quyết số 44-NQ/TW, ngày 24-11-2023, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, “về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Khẳng định quan điểm nhất quán, xuyên suốt công tác bảo vệ ANQG phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước; là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị; an ninh quốc gia được giữ vững là sự trường tồn của Đảng để lãnh đạo đất nước phát triển, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong bối cảnh mới.

Hai là, các lực lượng nòng cốt tiếp tục đổi mới tư duy, theo dõi diễn biến, đánh giá đúng, trúng sự tác động của tình hình chính trị, kinh tế thế giới, khu vực, nhất là các quốc gia liên quan đến an ninh, lợi ích quốc gia - dân tộc để nhận diện thuận lợi, thách thức. Qua đó, tham mưu cho Đảng, Nhà nước kịp thời đề ra chủ trương, giải pháp chiến lược nhằm bảo đảm ANQG từ sớm, từ xa; tham mưu hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật bảo vệ ANQG theo quan điểm “an ninh toàn diện”, “an ninh chủ động”, lấy “chủ động phòng ngừa là chính”, “phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố, nguy cơ gây đột biến”.

Ba là, các lực lượng nòng cốt đổi mới biện pháp, đối sách nghiệp vụ theo hướng lấy “yên dân” làm nền tảng, củng cố, hoàn thiện nền an ninh nhân dân, nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, thế trận quốc phòng toàn dân. Ưu tiên các biện pháp bảo vệ ANQG phi vũ trang, kết hợp chặt chẽ quốc phòng - an ninh và đối ngoại theo quan điểm của Đảng; lấy an ninh con người, xây dựng xã hội an ninh, an toàn là nhiệm vụ trung tâm; mở rộng phạm vi bảo vệ ANQG trên tất cả lĩnh vực, trong mọi chiều kích không gian.

Bốn là, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng “thế trận lòng dân” một cách vững chắc; xây dựng lực lượng nòng cốt, chuyên trách bảo vệ ANQG trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân, có bản lĩnh chính trị vững vàng; đoàn kết, thống nhất; kỷ luật nghiêm minh; mưu trí sáng tạo; khôn khéo, dũng cảm trong đấu tranh với kẻ địch và tội phạm. Chú trọng “xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng hải quân, phòng không - không quân, tác chiến điện tử, trinh sát kỹ thuật, cảnh sát biển, tình báo, cơ yếu, an ninh, cảnh sát cơ động, kỹ thuật nghiệp vụ, an ninh mạng và đấu tranh phòng, chống tội phạm công nghệ cao”(23) đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ ANQG trong mọi tình huống.

Năm là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền bằng nhiều hình thức, phương pháp để nhân dân trong nước, đồng bào ta ở nước ngoài, bạn bè quốc tế hiểu đúng, hiểu rõ quan điểm, đường lối, chính sách bảo vệ ANQG của Việt Nam. Qua đó, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, góp phần phát huy cao nhất và hiệu quả sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới./.

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét