Trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết là vấn đề chiến lược, có ý nghĩa sống còn, quyết
định sự thành bại của cách mạng. Người chỉ rõ, đoàn kết trong Đảng, đoàn kết
dân tộc, kết hợp chặt chẽ với đoàn kết quốc tế, tạo nên sức mạnh to lớn, là
nguyên nhân hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Người xem
đoàn kết trong Đảng là tiền đề để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sự
đoàn kết trong Đảng càng được củng cố thì khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng
được tăng cường. Đảng đoàn kết, dân tộc đoàn kết sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp vượt qua mọi khó khăn, thách thức, đưa cách mạng
nước ta đi tới thắng lợi cuối cùng - “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành
công, thành công, đại thành công”.
Không
chỉ khẳng định sức mạnh của đoàn kết, Người còn nêu rõ đoàn kết là yêu cầu, là
đòi hỏi của Đảng cầm quyền: Muốn lãnh đạo cách mạng, Đảng phải thực sự đoàn
kết, thống nhất. Người luôn luôn nhấn mạnh: “Là một Đảng lãnh đạo, Đảng ta cần
phải mạnh mẽ, trong sạch, kiểu mẫu. Toàn Đảng phải tư tưởng nhất trí, hành động
nhất trí, đoàn kết nhất trí mới làm tròn nhiệm vụ của Đảng”. Khi nước ta vừa
giành được độc lập, vận mệnh dân tộc đứng
trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Người đã chỉ rõ: “Dân tộc ta suy hay
thịnh, mất hay còn, chính ở trong lúc này. Không đoàn kết thì suy và mất. Có
đoàn kết thì thịnh và còn” . Trong bản Di chúc thiêng liêng, Người đã
dành những lời tâm huyết nhất để căn dặn Đảng ta: “Các đồng chí từ Trung ương
đến các chi bộ phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi
của mắt mình”. Theo Hồ Chí Minh, cơ sở để xây dựng khối đoàn kết thống nhất
trong Đảng chính là đường lối, quan điểm của Đảng và Điều lệ Đảng. Đây là cơ sở
tạo nên sự thống nhất về tư tưởng và tổ chức, từ đó thống nhất về hành động
nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng. Nếu xa rời
nguyên tắc này sẽ dẫn đến đoàn kết hình thức, giả hiệu. Đoàn kết mà không thống
nhất hoặc thống nhất mà không đoàn kết, sẽ dẫn đến những nguy cơ phá hoại đoàn
kết thống nhất từ trong nội bộ.
Để
thực hiện đoàn kết trong Đảng, điều đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải
thực hành dân chủ rộng rãi. Người thường nói: “Muốn thật sự đoàn kết thì phải
có dân chủ thật sự trong Đảng”. Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng ta phải thực
hành dân chủ rộng rãi, đó là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết
của Đảng. Trong Đảng có thực hành dân chủ rộng rãi mới đi đến đoàn kết thực sự;
có mở rộng dân chủ, cán bộ và đảng viên mới có thể tham gia bàn bạc đến nơi đến
chốn những vấn đề hệ trọng, từ đó đi đến thống nhất tư tưởng và hành động, đoàn
kết để lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của tổ chức đảng; có đề
cao tinh thần dân chủ trong sinh hoạt và các hoạt động của tổ chức đảng mới đi
đến đoàn kết thống nhất để làm việc hiệu quả; có dân chủ bàn bạc mới cùng thông
suốt, nhất trí, từ đó cùng quyết tâm thực hiện, tránh được tình trạng “trống
đánh xuôi, kèn thổi ngược” để đoàn kết nội bộ chặt chẽ và bền vững hơn. Hồ Chí
Minh cho rằng, muốn dân chủ, đoàn kết, cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy phải
thực sự cầu thị, biết lắng nghe, chắt lọc và kết luận vấn đề một cách khách
quan, khoa học, không để xảy ra tình trạng áp đặt ý kiến chủ quan của người chủ
trì, dẫn đến chất lượng nghị quyết không cao, chủ trương đưa ra không phù hợp
với thực tiễn. Người yêu cầu, cương vị lãnh đạo càng cao thì càng đòi hỏi phải
thực hiện mở rộng dân chủ và dân chủ thật sự chứ không phải hình thức. Nhiều
lần Người phê bình cách lãnh đạo không dân chủ, độc đoán, chuyên quyền của một
số cấp ủy, để tình trạng “các đảng viên và các cán bộ dù có ý kiến cũng không
dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ, không dám phê bình”. Cách lãnh đạo thiếu dân
chủ đó làm cho “cấp trên với cấp dưới cách biệt nhau”, từ đó sinh ra thói
“không nói trước mặt, chỉ nói sau lưng”, “trong Đảng im tiếng, ngoài Đảng nhiều
mồm”, “thậm thà thậm thụt” và những thói xấu khác. Người chỉ ra rằng, đó chính
là mầm mống của mất đoàn kết nội bộ.
Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, để thực hiện đoàn kết trong Đảng, ngoài yêu cầu phải thực
hành dân chủ rộng rãi còn phải thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê
bình. Người nói: “Đoàn kết của ta không phải là chín bỏ làm mười (đồng tương
tế) mà là phê bình. Phê bình để đoàn kết, để tiến bộ” . Người thường xuyên nhấn
mạnh, đoàn kết trong Đảng phải là đoàn kết thực sự, đoàn kết chặt chẽ. Đoàn kết
thực sự, nghĩa là “mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí”;
nghĩa là “vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học hỏi những cái tốt của nhau, phê bình
những cái sai của nhau”. Người cho rằng, muốn đoàn kết thực sự “thì phải phê
bình, tự phê bình tốt, nghĩa là xuất phát từ đoàn kết mà phê bình và tự phê
bình, phê bình và tự phê bình để đi đến đoàn kết hơn nữa”. Muốn đoàn kết chặt
chẽ, cán bộ, đảng viên cũng phải “thật thà phê bình, thành khẩn phê bình đồng
chí và những người xung quanh, phê bình, tự phê bình để cùng nhau tiến bộ, để
đi đến càng đoàn kết”.
Theo
Hồ Chí Minh, thực hiện tốt tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố
và tăng cường đoàn kết trong Đảng. Nhưng, “Phải biết cách phê bình sáng suốt,
khôn khéo, như chiếu tấm gương cho mọi người soi thấu những khuyết điểm của
mình, để tự sửa chữa”. Phê bình “sáng suốt, khôn khéo”, nghĩa là “Phải dùng
thái độ thân thiết, giúp họ tìm ra cái cớ vì sao mà sai lầm?”, chứ không phải
là phê bình theo kiểu “chụp mũ” hay “quy kết”...Sáng suốt, khôn khéo trong phê
bình còn là dùng cách giải thích, thuyết phục, cảm hóa, giáo dục để họ vươn lên
tự khẳng định mình, chứ không phải dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc”.
Phê bình thì phải “rõ ràng, thiết thực, ngay thẳng, thành thật”, chứ không phải
là nể nang và che giấu”, “trước mặt thì nể, kể lể sau lưng”. Mục đích phê bình
“là cốt sửa chữa, chứ không phải để công kích, cốt giúp nhau tiến bộ, chứ không
phải làm cho đồng chí khó chịu, nản lòng; “phê bình trên công tác cách mạng,
phê bình để tiến bộ, không phải để xoi mói”. Chỉ có thường xuyên tự phê bình và
phê bình “như mỗi ngày phải rửa mặt” trên tinh thần đoàn kết, thẳng thắn, chân
thành, thì “vũ khí thần diệu” ấy mới giúp các tổ chức đảng luôn luôn trong
sạch, vững mạnh.
Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, để đoàn kết thật sự, đoàn kết chặt chẽ không những đòi
hỏi phải thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng mà rất cần tình
thương yêu, sự đồng cảm và chia sẻ giữa cán bộ, đảng viên với nhau. Trong Di
chúc, phần nói về thực hành dân chủ, tự phê bình và phê bình trong Đảng, Người
căn dặn cán bộ, đảng viên: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Để có
“tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”, trong sinh hoạt và công tác, giữa cán bộ,
đảng viên cần có sự bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, mọi người phải đặt mục tiêu
vì công việc, nhiệm vụ chung, không vì mục đích cá nhân. Mỗi người đều phải nêu
cao tinh thần đoàn kết, thương yêu lẫn nhau, không cục bộ địa phương chủ nghĩa,
nhất là không được “kéo bè kéo cánh”. Theo Người, “kéo bè kéo cánh” là một bệnh
rất nguy hiểm, có thể dẫn đến chia rẽ nội bộ, làm hại đến sự thống nhất, gây ra
những mối nghi ngờ, làm mất sự thân ái, đoàn kết giữa đồng chí với nhau. Thương
yêu đồng chí là “phải luôn luôn chú ý đến công việc của họ, kiểm thảo họ, hễ
thấy khuyết điểm thì giúp cho họ sửa chữa”, chứ không phải là lúc họ có sai lầm
cũng cứ nể nang không thiết thực phê bình, thiết thực sửa đổi, sợ mất lòng.
Thương yêu đồng chí không phải là vỗ về, nuông chiều, thả mặc mà phải “giúp họ
học tập thêm, tiến bộ thêm”. Chỉ có xuất phát từ “tình đồng chí thương yêu lẫn
nhau”, cán bộ, đảng viên mới chung sức chung lòng xây dựng đoàn kết nội bộ chặt
chẽ, vững chắc.
Đoàn kết là vấn đề có tầm quan trọng
hàng đầu của công tác xây dựng Đảng, là đường lối chiến lược quyết định thành
công của cách mạng Việt Nam. Nhờ đoàn kết chặt chẽ, suốt chặng đường 90 năm xây
dựng và phát triển, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân vượt qua
bao khó khăn, thách thức, giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử. Trong bối cảnh Đại hội lần thứ XIII của Đảng đang đến gần, đất nước ta đang
chuyển mình mạnh mẽ để đón nhận những cơ hội cùng thách thức lớn của quá trình
hội nhập, đổi mới và phát triển, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết nói chung và
đoàn kết trong Đảng nói riêng ngày càng
trở nên sống động, mang tính thời sự sâu sắc và có ý nghĩa hết sức to lớn; là
nhân tố góp phần vào sự thành công của Đại hội Đảng và sự thắng lợi của sự
nghiệp cách mạng Việt Nam trong tình hình mới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét