Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc đã để lại nhiều
di sản quý trong lĩnh vực văn hóa chính trị, đặc biệt là tư tưởng về văn hóa
trong Đảng.
Ngay từ thời mới lập quốc, dẫu
phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, đói nghèo bủa vây, thù trong giặc ngoài
nhưng Người vẫn khẳng định vai trò tiên phong của văn hóa.
Đảng ta là đảng cầm quyền, không có cách nào khác là
phải thấm đẫm và thực hành nhuần nhuyễn văn hóa của dân tộc và mở lòng để tiếp
nhận những tinh hoa của văn hóa thế giới.
“Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”
Phát biểu tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất
(ngày 24-11-1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Văn hóa phải soi đường cho quốc
dân đi”. Gần 80 năm qua, câu nói này đã trở thành tư tưởng chỉ đạo cho toàn
Đảng, toàn dân trong công cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây
dựng nước Việt Nam giàu mạnh, sánh vai các cường quốc năm châu.
Nói về Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng ta
là đạo đức, là văn minh. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của Tổ
quốc và nhân dân”. Người cho rằng, Đảng phải luôn là tấm gương về đạo đức cách
mạng, trong sạch và không ngừng học tập để nâng cao trình độ lãnh đạo. Bác nhấn
mạnh vai trò quan trọng của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước. Và Người khẳng định, văn hóa không chỉ là một lĩnh vực riêng biệt mà còn
phải gắn bó mật thiết với chính trị, kinh tế và xã hội, đóng vai trò định hướng
và dẫn dắt dân tộc trong mọi lĩnh vực.
Câu “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” của Người đã
thể hiện vai trò quan trọng của văn hóa trong sự phát triển xã hội và con
người. Văn hóa không chỉ là giá trị tinh thần, mà còn là nền tảng định hướng
cho mọi hoạt động của một dân tộc. Vậy tại sao văn hóa được xem là “ngọn đuốc
soi đường” cho quốc dân?
Văn hóa định hướng giá trị và đạo đức xã hội, văn hóa
là nơi lưu giữ các giá trị truyền thống, đạo đức và lối sống của một dân tộc.
Nó giúp định hình tư duy, hành vi và thái độ sống của con người. Một nền văn
hóa giàu đẹp, lành mạnh sẽ khuyến khích con người sống có lý tưởng, có trách
nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội. Tính cộng đồng là một trong những đặc
trưng quan trọng của văn hóa Việt Nam. Theo đó, người Việt đề cao tinh thần
đoàn kết, sống gắn bó trong gia đình, dòng họ và làng xã. Cùng với đó là truyền
thống “tôn sư trọng đạo”, “lá lành đùm lá rách” thể hiện tính nhân văn sâu sắc.
Đơn cử như năm 2024 vừa qua, siêu bão Yagi đã gây nhiều thiệt hại về người và
tài sản tại một số địa phương. Sau thiên tai, rất nhiều tổ chức, cá nhân hảo
tâm đã đứng ra quyên góp tiền, thực phẩm, nước uống, thuốc men, và hỗ trợ tái
thiết nhà cửa cho các nạn nhân. Tổng số tiền ủng hộ cho các nạn nhân của siêu
bão Yagi lên tới hơn 2.000 tỷ đồng. Điều này đã thể hiện rất rõ tinh thần đoàn
kết, tương thân tương ái trong văn hóa của người Việt.
Văn hóa không chỉ gắn bó với đời sống tinh thần mà còn
liên quan chặt chẽ đến kinh tế, chính trị và xã hội. Một quốc gia có nền văn
hóa tiên tiến, giàu bản sắc sẽ tạo động lực để phát triển bền vững, bởi văn hóa
thúc đẩy sự sáng tạo, đoàn kết và ý chí vươn lên của người dân.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, văn hóa giúp duy trì và
phát huy bản sắc dân tộc, tránh sự hòa tan hay đánh mất giá trị cốt lõi của dân
tộc. Đây là yếu tố quan trọng để một quốc gia khẳng định vị thế và bản lĩnh
trên trường quốc tế. Ngoại giao cây tre là đặc trưng riêng, thể hiện phong cách
ngoại giao của Việt Nam, dựa trên hình ảnh cây tre, một biểu tượng quen thuộc
của dân tộc. Cây tre mềm dẻo nhưng kiên cường, linh hoạt nhưng vững chắc, tượng
trưng cho tinh thần ngoại giao của Việt Nam trong bối cảnh quốc tế đầy biến
động.
Văn hóa bao gồm cả tri thức, giáo dục và khoa học. Khi
văn hóa được phát triển, nó giúp người dân hiểu biết hơn về thế giới, từ đó có
những hành động phù hợp để xây dựng một xã hội tiến bộ, văn minh. Là quốc gia
chịu ảnh hưởng của Nho giáo, người Việt rất coi trọng đạo làm người với năm
chữ: “Nhân”, “Nghĩa”, “Lễ”, “Trí”, “Tín”. Cùng với đó, nền giáo dục khoa cử
thời phong kiến kéo dài hơn ngàn năm từng đào tạo ra những bậc hiền tài như
Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn, Nguyễn Bỉnh Khiêm... Đó là những tấm gương về sự học
vẫn tỏa sáng trong nền kinh tế tri thức hôm nay.
Văn hóa lưu giữ những bài học từ lịch sử, truyền lại
kinh nghiệm và giá trị cho các thế hệ sau. Nhờ đó, một dân tộc không chỉ học
hỏi từ quá khứ mà còn biết cách sáng tạo, đổi mới để xây dựng tương lai tốt đẹp
hơn. Vậy nên văn hóa được ví như “ngọn đuốc” soi sáng, dẫn dắt và thúc đẩy sự
phát triển của một dân tộc. Đảng ta chính là linh hồn cho ngọn đuốc ấy để chỉ
đạo việc xây dựng và bảo vệ nền văn hóa trường tồn với sự phát triển của dân
tộc, đồng hành với tiến bộ của nhân loại.
Văn hóa là nền tảng tinh thần trong Đảng
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng văn hóa không chỉ
là lĩnh vực tinh thần mà còn là sức mạnh thúc đẩy sự phát triển của Đảng và xã
hội. Trong Đảng, văn hóa được xem như nền tảng để xây dựng tinh thần đoàn kết,
ý chí chiến đấu và khả năng lãnh đạo của cán bộ, đảng viên.
Người khẳng định “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”
và điều này áp dụng cả trong công tác xây dựng Đảng. Đảng cần có những giá trị
văn hóa vững chắc để lãnh đạo nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng đến đạo đức
cách mạng, coi đó là nền tảng để xây dựng văn hóa trong Đảng. Người luôn nhắc
nhở các đảng viên về việc rèn luyện đạo đức, “cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư”. Người nhấn mạnh: “Đảng viên phải vừa hồng vừa chuyên, tức là có đạo đức
và trình độ chuyên môn. Phải thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
để làm gương cho nhân dân noi theo”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi phê bình và tự phê bình là
một nét văn hóa đặc sắc, giúp Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Người nhấn
mạnh: Phê bình phải mang tính xây dựng, không công kích cá nhân. Tự phê bình là
cách mỗi đảng viên kiểm điểm bản thân, từ đó khắc phục sai sót và phát triển.
Người khẳng định: “Một đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một đảng hỏng.
Một đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó vì đâu mà
có, xét rõ hoàn cảnh đã sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa
khuyết điểm đó, đảng ấy là một đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.
Người nhấn mạnh rằng đảng viên phải không ngừng học
tập để nâng cao trình độ chính trị, lý luận và chuyên môn, phù hợp với yêu cầu
của thời đại. Việc học tập không chỉ nhằm hoàn thiện bản thân mà còn để phục vụ
tốt hơn cho sự nghiệp cách mạng. Người nói: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục
suốt đời. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới
tiến bộ không ngừng, ai không học là lùi”. Cùng với đó, việc học phải đi đôi
với hành: “Học để hành, học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì vô ích,
hành mà không học thì hành không trôi chảy”.
Đảng ta là đảng cầm quyền, đặc biệt là trong giai đoạn
đầu giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Bác Hồ luôn đề cao phong cách làm
việc dân chủ, khoa học và gần gũi nhân dân. Người cho rằng lãnh đạo không chỉ
là chỉ đạo mà còn phải thấu hiểu, tôn trọng ý kiến của quần chúng, từ đó đề ra
các quyết sách phù hợp. Người khẳng định: “Đảng không phải là tổ chức để làm
quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc
giàu mạnh, đồng bào sung sướng”, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là
dân, vì dân là chủ”.
Giữ gìn văn hóa trong Đảng
Người coi chủ nghĩa cá nhân là nguồn gốc của tham ô,
lãng phí, quan liêu, bè phái, vô kỷ luật và nhiều thói hư tật xấu khác. Người
nhấn mạnh rằng nếu để chủ nghĩa cá nhân phát triển, nó sẽ làm suy yếu Đảng và
cách mạng. Trong "Di chúc" Người để lại có đoạn: “Một dân tộc, một
đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất
định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi nếu lòng dạ
không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng chủ nghĩa cá nhân đặt
lợi ích cá nhân lên trên lợi ích tập thể, đối lập với đạo đức cách mạng: “Chủ
nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất
nguy hiểm như quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí”.
Người đề cao việc rèn luyện đạo đức cách mạng, trong
đó mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng tu dưỡng, đấu tranh chống lại chủ
nghĩa cá nhân: “Muốn chống chủ nghĩa cá nhân, phải thực hành chủ nghĩa tập thể.
Mỗi người phải đặt lợi ích chung của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước
hết”. Người kêu gọi mọi người phải rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hành cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư để đấu tranh chống lại nó. Đây cũng là đặc
trưng quan trọng của văn hóa Đảng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa trong Đảng là sự kết
hợp giữa các giá trị đạo đức, trí tuệ và tinh thần cách mạng. Những tư tưởng
này không chỉ đóng vai trò định hướng trong việc xây dựng Đảng mà còn có giá
trị lâu dài đối với sự phát triển của đất nước. Việc thực hiện tốt những nguyên
tắc văn hóa trong Đảng sẽ giúp Đảng luôn vững mạnh và giữ vững vai trò lãnh
đạo./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét