Chủ Nhật, 10 tháng 5, 2020

Góc nhìn của các nhà dân chủ từ một vụ án

Sáng 06/05, Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao mở phiên giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải (ngụ huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An) bị kết án tử hình về tội Giết người và Cướp tài sản, liên quan đến vụ án 2 người chết vào tối 13/01/2008 tại Bưu điện Cầu Voi (ấp 5, xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An). Tuy nhiên, vụ án này kéo dài 12 năm nhưng đến nay chưa thi hành được do còn nhiều quan điểm khác nhau xung quanh bản án tử hình. Đến tháng 12/2019, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao ra quyết định kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án sơ thẩm và phúc thẩm; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao mở phiên giám đốc thẩm để xem xét lại vụ án này. Và như chúng ta đã biết TAND tối cao đã tuyên các bản án trước đây là đúng pháp luật, không có oan sai. Vụ án này chắc sẽ còn tốn nhiều giấy mực. Nhưng có một góc nhìn khác cần thấy rõ:
Trước hết, có lẽ nhiều người nhầm tưởng rằng, phiên giám đốc thẩm này diễn ra sẽ trả lời cho câu hỏi Hồ Duy Hải gây ra án mạng thảm khốc của 2 cô gái 12 năm trước hay là không. Nếu Hồ Duy Hải là hung thủ thật sự thì sẽ xử án nghiêm, còn nếu không phải là hung thủ sẽ được trả lại tự do để không gây oan sai cho người vô tội. Thế nhưng, phiên giám đốc thẩm này không phải là kết quả cuối cùng. Vì tính chất của phiên giám đốc theo như lời của Luật sư Nguyễn Minh Long, Giám đốc công ty Luật Dragon, Đoàn luật sư Hà Nội cho biết: “giám đốc thẩm là một thủ tục tiến hành việc nhìn nhận lại một bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án để xem xét, xác minh lại toàn bộ quá trình giải quyết, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những cá nhân, tổ chức, cơ quan có quyền và nghĩa vụ liên quan. Việc tiến hành xem xét lại này có thể vì những lí do trong toàn bộ quá trình xét xử, giải quyết vụ án mà có sự vi phạm pháp luật hoặc có căn cứ cho rằng kết luận thể hiện trong bản án, quyết định của Tòa án đã đưa ra không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án”.
Một số người nhìn vào hình ảnh người mẹ, người em của Hồ Duy Hải kêu oan ròng rã mười mấy năm trời để cho rằng anh vô tội. Thế nhưng, pháp luật không thể dựa theo cảm tính, sự cảm thương hay đây là vụ án được dư luận chú ý, gây áp lực để rồi tuyên Hải bị oan được. Đã ra pháp luật thì không nên để những tình tiết mang tính tình cảm chi phối sự nhận định. Điều quan trọng ở đây đó là công lý phải được thực thi, tìm ra hung thủ bởi nếu không, hương hồn của hai người phụ nữ, nạn nhân xấu số của vụ án sẽ không thể nào nhắm mắt được. Suy cho cùng thì nước mắt của bà mẹ mất con nào cũng đều đau xót như nhau cả.
Trang “Nhật ký yêu nước” lợi dụng vụ việc để bẻ lái qua công tác nhân sự, đấu đá nội bộ, thanh trừng phe phái. Vậy nên, mong rằng mọi người đừng thay thẩm phán vào cuộc “điều tra” hay “phán” về vụ việc này và cũng đừng cố tình phân tích, các tình tiết nữa. Bất cứ ai ngoài cuộc lớn tiếng kết tội hay đòi thả ngay lập tức Hồ Duy Hải cũng chỉ là làm theo cảm tính bởi các vị không có đầy đủ thông tin vụ án, kể cả các anh chị nhà báo khi thể hiện rằng mình có nguồn tin mật tuồn ra. Hãy để yên cho các cơ quan chức năng làm việc. Bởi việc mọi người đẩy vụ việc lên cao đang khiến cho một số đối tượng nhảy vào “thương vay khóc mướn”, chửi bới chính quyền. Nhìn hình ảnh “Trương Văn Dũng”, “Nguyễn Hữu Vinh”, “Thảo Teresa”… nhiệt tình, quan tâm, ngồi chầu chực hóng tin tại Tòa án cùng người thân của Hồ Duy Hải thì đã thấy vụ án hình sự này đang được các nhà dân chủ tìm cách chính trị hóa.
Minh chứng là mới đây thôi, trang “Nhật ký yêu nước” lợi dụng vụ việc để bẻ lái qua công tác nhân sự khi xuyên tạc rằng “Hồ Duy Hải mai này có vô tội thì cũng chẳng phải do công lý được thực thi ở Việt Nam, mà đó là sự đấu đá trong nội bộ của đảng để hạ bệ nhau, tạo thanh thế mà thôi”. Có thể thấy, các nhà dân chủ nào có thực tâm lo cho tính mạng của Hồ Duy Hải đâu. Suy cho cùng Hải cũng chỉ là “con dê tế thần”, để các đối tượng lợi dụng, móc nối hướng lái thành câu chuyện đấu đá nội bộ, thành trừng phe phái giành ghế trước Đại hội 13, khiến người dân mất niềm tin vào chính quyền mà thôi.
Theo LÍNH TRẺ MIỀN ĐÔNG

Sự chung tay, chung sức đồng lòng của toàn dân; sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị chống kẻ thù chung COVID 19
         
          Hiện nay, khi dịch bệnh đã lan ra toàn thế giới với 212 quốc gia, vùng lãnh thổ; tổng số bệnh nhân từ khi có dịch là 4.176.887 người, số người tử vong vì COVID-19 trên thế giới là 283.678 người, thì điều đáng mừng Việt Nam đang hạn chế mức thấp nhất ca nhiễm bệnh, dịch bệnh đang nằm trong sự kiểm soát rất có hiệu quả.
          Có được thắng lợi đó, cho thấy chúng ta tích cực, chủ động vào cuộc ngay từ đầu của cả hệ thống chính trị, sự chỉ đạo quyết liệt của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, với tinh thần tất cả cùng vào cuộc, “chống dịch như chống giặc”, có thể thấy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, từ Trung ương đến địa phương, phát huy sức mạnh cộng đồng là rất hiệu quả và rõ nét. Ngay từ những ngày đầu chống dịch, Nhà nước đã có các giải pháp đồng bộ, từ đóng cửa biên giới, cách ly các điểm du lịch, huy động sự vào cuộc đồng bộ của các cơ quan y tế chuyên môn, các cơ quan truyền thông và thậm chí là mỗi người dân. Nhiều y, bác sỹ nghỉ hưu, những thanh niên tình nguyện… cũng xung phong hưởng ứng tham gia dập dịch, các doanh nghiệp, người dân tích cực ủng hộ tiền, vật chất. Hình ảnh xúc động khi các cháu nhỏ tuổi viết thư ủng hộ tiền mừng tuổi, cụ già 101 tuổi mẹ liệt sỹ năm xưa mẹ đã tiễn con ra chiến trường nay mẹ dành số tiền tiết kiệm ủng hộ; ngay trong khu vực cách ly cũng tham gia ủng hộ tiền cho cuộc chiến. Nhiều văn nghệ sỹ cũng tham gia sáng tác thơ ca, những tác phẩm nghệ thuật, những bài hát giai điệu hào hùng nay động lòng người cổ vũ, động viên khích lệ, tinh thần cho cuộc chiến.
          Tóm lại thắng lợi bước đầu trong cuộc chiến đấu chống đại dịch của chúng ta đã thể hiện ý chí, sức mạnh của tinh thần đoàn kết, thống nhất về ý trí và hành động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đã chung tay, chung sức đồng lòng phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết của toàn dân tộc chống lại dịch bệnh COVID 19.
TBQL 17

Thứ Bảy, 9 tháng 5, 2020

HỌC BÁC TỪ NHỮNG ĐIỀU BÌNH DỊ

Sinh thời, Bác Hồ đã sống cả cuộc đời thanh bạch từ ăn, ở đến phương tiện sử dụng phục vụ công việc hàng ngày. Để tiết kiệm thời gian, Bác dạy: “Từ Chủ tịch Chính phủ cho đến người chạy giấy, người quét dọn trong một cơ quan nhỏ, đều là những người ăn lương của dân, làm việc cho dân... làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến trễ về sớm... Phải nhớ rằng: Dân đã lấy tiền mồ hôi nước mắt để trả lương cho ta trong những giờ đó. Ai lười biếng tức là lừa gạt dân”.

Nhà ở của Bác chỉ là một ngôi nhà sàn gỗ lợp ngói, trên gác có hai phòng, mỗi phòng hơn 10m², chỉ nhỏ gọn vậy thôi nhưng Bác vẫn đề nghị đồng chí Phạm Văn Đồng sử dụng một phòng để khỏi lãng phí. Bác luôn nghĩ đến người nghèo “lúc chúng ta nâng bát cơm ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi đề nghị với đồng bào cả nước và tôi xin thực hành trước, cứ 10 ngày nhịn ăn 1 bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa 1 bơ) để cứu dân nghèo”.

Bác Hồ thường nói rằng: “Người ta ai cũng muốn ăn ngon, mặc đẹp, nhưng phải đúng thời, đúng hoàn cảnh. Trong lúc nhân dân còn khó khăn, một người nào đó muốn sống hưởng ăn ngon, mặc đẹp thì không có đạo đức”.

Bác đến với các chiến sỹ trên mặt trận, cùng chiến sỹ hành quân; thăm chỗ ở, nhà bếp, nhà vệ sinh của các gia đình, tập thể; trực tiếp xuống ruộng làm việc, hướng dẫn bà con về sâu bệnh, về thủy lợi; đến thăm các cơ quan, nhà máy, xí nghiệp, trường học; viết thư thăm hỏi người già, trẻ em…

Bác luôn chủ động tiếp xúc, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, từ đó đi vào lòng dân bằng trái tim nhân hậu. Giản dị, thanh bạch là đức tính tự nhiên của Bác. Điều đó đã được thể hiện sinh động qua từng cử chỉ, lời nói và việc làm cụ thể của Người, có sức thuyết phục to lớn.

Chị Trần Thị Thu Hà, giảng viên Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh bày tỏ:

“Tôi không phải là người theo chủ nghĩa thần tượng. Tôi cũng chưa bao giờ được gặp Bác. Khi tôi cất tiếng khóc chào đời, Người đã đi xa. Nhưng thông qua những trang sách, những thước phim, những câu chuyện về Người, càng ngày tôi càng khâm phục Bác.

Khi còn bé, trong tôi, Bác Hồ giống như một tiên ông vậy. Tôi ghen tỵ với những em bé được ngồi trong lòng Bác chờ đến lượt mình được phát kẹo và ao ước được đưa bàn tay non nớt vuốt chòm râu bạc phơ của Bác như một cô bé nào đó trong bộ phim tài liệu về Người.

Lớn lên, đọc các tác phẩm Người viết, suy ngẫm về những quyết sách và hành động của Người trên cương vị người chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam, tôi vẫn không quên những hình dung thơ ấu về vị tiên ông Hồ Chí Minh.

Đôi lúc, tôi tự hỏi, phải chăng Bác của chúng ta là một huyền thoại? Nhưng đã là huyền thoại thì phải ly kỳ và huyền bí chứ? Mà Bác thì vô cùng gần gũi, vô cùng giản dị và có phải vì thế mà hóa vô cùng lớn lao?”.

Chị tâm sự, mỗi lần nghĩ về câu nói, rằng “Chủ tịch nước mặc áo vá là hồng phúc của dân tộc”, cứ thấy cay cay nơi khóe mắt nhưng vẫn thật khó cầm lòng khi đi qua những nhãn hàng thời trang nổi tiếng… Những lần dự tiệc với tràn trề món ngon vật lạ, chạnh nghĩ về bữa cơm tương cà đơn sơ của Chủ tịch nước ngày nào, day dứt có, áy náy có…

“Nhưng tôi nghĩ rằng vì Bác không phải là một siêu nhân, nên chúng ta hãy học và làm theo Bác những điều bình dị nhất. Không học được tất cả, chúng ta hãy học từng ít một. Không học được ngay một lúc, hãy cứ học từ từ” – chị nêu quan điểm và viện dẫn, có bao nhiều điều cần học và có thể học từ Bác.

Bình dị - cốt cách và sự rèn luyện

Bình dị, liêm chính thể hiện ở phong cách, lối sống và ở hành động (lao động, học tập). Cả hai yếu tố này gắn bó mật thiết, bình dị ở lối sống thì hành động vì cộng đồng, vì xã hội cũng nhiệt huyết, sẵn lòng.

Gốc rễ của đạo đức, phong cách bình dị, liêm chính chính là tấm lòng vì nước vì dân, vì lợi ích quốc gia, tập thể của Bác. Trong đời sống, chỉ những ai có được đức tính đó, không mưu cầu, vụ lợi cá nhân mới có thể làm được, mới hành động một cách “tự nhiên hương” chứ không phải là sự khiên cưỡng, giả tạo. Bất cứ ai để chủ nghĩa cá nhân chi phối, để chủ nghĩa thực dụng lên ngôi, tất không thể làm được.

Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong Đảng vẫn còn một số cán bộ, đảng viên đạo đức, phẩm chất thấp kém. Những người này “mang nặng chủ nghĩa cá nhân, việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”. Chủ nghĩa cá nhân thực sự là kẻ địch nguy hiểm của đạo đức cách mạng, đồng thời cũng là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội.

Nếu không thể bình dị theo đúng cốt cách, bản chất thì người cán bộ, đảng viên phải biết tu dưỡng, luyện rèn đức tính, lối sống bình dị. Đây chính là ý thức, là sự học hỏi, noi theo để hoàn thiện mình hơn, khắc phục các yếu điểm.

Ngày nay, không ít cán bộ chưa làm to đã lộ tính hách dịch, xa dân, sống trong dinh thự xa hoa. Ngay cả con cán bộ cũng tự lúc nào sinh cái bệnh tinh tướng, muốn thể hiện mình “con nhà quan”, lối sống xa hoa, hưởng thụ sa đọa. Đọc lại những mẩu chuyện về phong cách, đạo đức, lối sống của Bác để ngẫm và hành động, thực thiết thân vô cùng.

KHN

CẢNH GIÁC KHÔNG BỊ KÍCH ĐỘNG TỪ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG

Thời gian gần đây, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng những sự kiện “nóng” xảy ra để quy chụp, xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, kích động tâm lý chống đối, kêu gọi quần chúng tụ tập đông người gây rối an ninh trật tự.
Một trong những sự kiện “nóng” được chúng “khuấy” lên trong thời gian qua là việc Trung Quốc đã ngang nhiên công bố cái gọi là “danh xưng tiêu chuẩn” của 25 đảo và rạn san hô cùng 55 thực thể ở Biển Đông và Trung Quốc đơn phương thành lập hai cơ quan hành chính nhằm kiểm soát phi pháp Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Mượn gió, bẻ măng, các thế lực thù địch, phản động tán phát nhiều tài liệu, gồm những bài viết, video clip, hình ảnh có nội dung xuyên tạc đường lối đối ngoại, chính sách “3 không” và khả năng chiến đấu của Quân đội, gây tâm lý bất an, hoài nghi và kích động sự chống phá của một bộ phận quần chúng do thiếu thông tin tình hình, do ngộ nhận. Vậy, bản chất của sự việc là gì, xin được trình bày trên một số điểm cơ bản như sau:
1. Chủ trương, đường lối, chính sách giải quyết bất đồng trên Biển Đông của Đảng, Nhà nước ta hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với xu thế của thời đại.
Trong xu thế hiện nay, thế giới là một mái nhà chung, các quốc gia đều có xu hướng vừa hợp tác, vừa đấu tranh, kể cả trong quan hệ song phương và đa phương; những điểm bất đồng giữa các quốc gia, dân tộc đều được giải quyết trên nền tảng hòa bình, đối thoại, cùng nhau tìm giải pháp chung và trên nền tảng nguyên tắc nhất định của luật pháp quốc tế.
Dĩ bất biến, ứng vạn biến, trong bối cảnh Trung Quốc vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, Đảng, Nhà nước ta luôn giữ được chủ trương: “Giải quyết mâu thuẫn thông qua thương lượng hoà bình trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước về Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), nhằm tìm kiếm một giải pháp cơ bản và lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của các bên, tiến tới xây dựng Biển Đông thành vùng biển hòa bình, hợp tác và phát triển”.
Đảm bảo sự linh hoạt, mềm dẻo và giữ vững nguyên tắc không thể bác bỏ – chủ quyền quốc gia.
Chúng ta kiên trì đấu tranh trên các mặt trận, mọi cấp độ, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các quốc gia trên thế giới, thẳng thắn đấu tranh kiên quyết, trao công hàm, tiếp xúc đại diện, lên tiếng phản đối Trung Quốc, yêu cầu tôn trọng chủ quyền biển, đảo của Việt Nam. Đồng thời, duy trì lực lượng chuyên trách, sử dụng biện pháp đấu tranh “hòa bình” không để xảy ra xung đột vũ trang. Bên cạnh đó, thường xuyên thông tin kịp thời tình hình diễn biến đến nhân dân, quản lý chặt chẽ tình hình an ninh trật tự và làm tốt công tác định hướng tư tưởng cho nhân dân.
Trước tình hình căng thẳng trên Biển Đông, nhờ đường lối đúng đắn, chúng ta vẫn bảo đảm và bảo vệ được lợi ích quốc gia dân tộc. Điều này cho thấy, chủ trương, đường lối, chính sách giải quyết bất đồng trên Biển Đông của Đảng, Nhà nước ta hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với xu thế của thời đại.
2. Chính sách “3 không” của Việt Nam vẫn hoàn toàn đúng đắn
Trước sự kiện vi phạm của Trung Quốc, các thế lực thù địch đã công kích, đòi Việt Nam phải thay đổi chính sách “3 không”, tiến đến hợp tác toàn diện, là đồng minh của Mỹ, Nhật Bản… để chống lại hành động xâm phạm chủ quyền từ phía Trung Quốc.
Thực tiễn cho thấy, mọi hành động của các quốc gia, xét đến cùng đều bắt nguồn từ lợi ích, lợi ích cao nhất, tối thượng nhất là lợi ích quốc gia, dân tộc.
Đặc biệt, với các quốc gia tư bản chủ nghĩa, nếu không có lợi ích, Việt Nam là đối tác toàn diện, là đồng minh của họ, đang bị các quốc gia khác đe dọa chủ quyền, họ cũng chẳng lên tiếng, huống hồ là giúp đỡ.
Lịch sử cho thấy, nhiều quốc gia đã bị các nước lớn “đi đêm” mặc cả với nhau trên lưng các quốc gia khác, sẵn sàng hy sinh quyền lợi của các nước nhằm bảo vệ lợi ích của quốc gia họ, trong đó có Việt Nam.
Do đó, với chính sách “3 không: không tham gia lực lượng, liên minh quân sự của bên này chống bên kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của Việt Nam để chống lại nước khác; không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, thể hiện quan điểm độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của Đảng, Nhà nước ta về quốc phòng nói chung, công tác đối ngoại quốc phòng nói riêng, mang bản chất chế độ XHCN mà Việt Nam đang xây dựng, hướng đến sự hòa bình, thịnh vượng cho đất nước, khu vực và thế giới.
Chính sách quốc phòng, quân sự, xây dựng quân đội, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân của Việt Nam chỉ nhằm mục đích duy nhất là để bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta không quên sự hợp tác, giúp đỡ chí nghĩa, chí tình của cộng đồng quốc tế đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; song từ xưa đến nay, cha ông ta luôn nhất quán tinh thần độc lập, tự chủ, lấy sức ta mà giải phóng cho ta, không dựa dẫm, ỷ lại, trông chờ duy nhất vào sự hỗ trợ từ bên ngoài để bị lệ thuộc, bị chi phối.
Đảng ta luôn nhất quán quan điểm biện chứng trong đối tượng và đối tác, có hợp tác và có đấu tranh; giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên.
Trong xu thế toàn cầu hóa, Việt Nam luôn chủ động hội nhập và phát triển; tiến hành hội nhập sâu rộng trên các lĩnh vực, như: hội nhập kinh tế quốc tế; hội nhập quốc tế về văn hóa – xã hội, môi trường và hội nhập quốc tế về chính trị, quốc phòng, an ninh.
Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng với hơn 80 nước, bao gồm tất cả các thành viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; đã ký 50 hiệp định, bản ghi nhớ hợp tác tương trợ tư pháp hình sự chống tội phạm, phòng, chống ma túy với các nước. Quan hệ quốc phòng – an ninh đa phương có bước phát triển về số lượng, chất lượng và hiệu quả…
Quá trình hội nhập đó, Việt Nam vẫn giữ được chủ trương, đường lối và bảo đảm thực hiện tốt chính sách “3 không”, giữ đúng định hướng. Đến nay, chính sách “3 không” vẫn hoàn toàn đúng đắn.
3. Quân đội nhân dân Việt Nam đấu tranh để bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc
Các thế lực thù địch rêu rao: “Khi đối đầu với Trung Quốc trên Biển Đông, tại các vùng tranh chấp, Quân đội Việt Nam không dám nổ súng, không dám đấu tranh, để mặc Trung Quốc muốn làm gì thì làm…”. Những luận điệu đó là hoàn toàn xuyên tạc, không đúng sự thật, cố tình kích động gây căng thẳng tình hình với mục đích đẩy chúng ta vào cuộc đối đầu quân sự có thể dẫn đến hậu quả khó lường.
Thực tiễn cho thấy, trong suốt thời gian Trung Quốc vi phạm chủ quyền của Việt Nam trên biển, một trong những lực lượng thuộc biên chế của Quân đội Việt Nam luôn luôn có mặt 24/24h, thực hiện các hoạt động đấu tranh nhằm giữ vững chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Trong mỗi tình huống, các phương án đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo luôn được lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam chuẩn bị, luyện tập nhuần nhuyễn và linh hoạt khi áp dụng vào thực tiễn đấu tranh, luôn giữ vững được định hướng, sự lãnh đạo của Đảng và tuân thủ nghiêm luật pháp quốc tế.
Bên cạnh lực lượng Cảnh sát biển, các thành phần khác của lực lượng vũ trang Việt Nam cùng lực lượng kiểm ngư luôn luôn sẵn sàng thực hiện phương án để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta luôn vì lợi ích quốc gia dân tộc, các chính sách, biện pháp giải quyết trong các tình huống tranh chấp trên Biển Đông của Đảng, Nhà nước ta thể hiện nhất quán nguyên tắc, mục tiêu đó. Chủ trương, đường lối đó cần được sự đánh giá, nhìn nhận khách quan từ mọi thành phần trong xã hội, nhất là thế hệ trẻ ngày nay.
Tinh thần dân tộc, lòng yêu nước luôn cháy bỏng trong mỗi con dân đất Việt, hãy hiện thực hóa tinh thần đó bằng việc làm cụ thể để đưa đất nước ta ngày càng phát triển, giàu mạnh, tăng cường mọi tiềm lực, sánh vai được với các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới đấu tranh, phản bác lại các quan điểm phiến diện, siêu hình, xuyên tạc tình hình Biển Đông của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước.
Mỗi người dân yêu nước cần tỉnh táo, bình tĩnh, kiên quyết, kiên trì, nhận thức rõ luận điệu xuyên tạc, kích động chống phá của các thế lực thù địch để có hành động đúng, góp phần bảo vệ Tổ quốc./.


Phương thức lãnh đạo của Đảng theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những yêu cầu đổi mới trong giai đoạn hiện nay

Trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng về phương thức lãnh đạo của đảng cầm quyền là nét độc đáo, sáng tạo của Người. Từ rất sớm, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” tháng 10-1947, Người không chỉ 13 lần đề cập đến thuật ngữ “cách lãnh đạo” và mà tập trung “bút lực” cho 1 mục riêng “V. CÁCH LÃNH ĐẠO” trong điều kiện Đảng ta là cầm quyền sau thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trong mục này của tác phẩm, Người đặt vấn đề và giải thích rất rõ ràng: “Lãnh đạo đúng nghĩa là thế nào? Cố nhiên, không phải cứ ngồi trong phòng giấy mà viết kế hoạch, ra mệnh lệnh. Lãnh đạo đúng nghĩa là: “1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng. Vì dân chúng chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta. 2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân chúng giúp sức thì không xong. 3. Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được” (1).
Theo Người, muốn lãnh đạo đúng nhất thiết không được mắc quan liêu, xa rời quần chúng; phải sâu sát với quần chúng, phải học hỏi quần chúng, dựa vào quần chúng để kiểm thảo các quyết sách lãnh đạo của mình đúng hay sai, hiệu quả hay không hiệu quả; bởi theo Người: “Chúng ta phải biết rằng: lực lượng của dân chúng nhiều vô cùng. Kinh nghiệm trong nước và các nước tỏ cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra” (2). Một trong những khâu quyết định để “lãnh đạo đúng nghĩa” theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải “khéo kiểm soát”, phải tăng cường kiểm tra: “Muốn biết các nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách, là khéo kiểm soát. Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi” (3).
Phương thức lãnh đạo phải như thế nào?
Về vấn đề này, Người chỉ ra hai cách cơ bản đó là: “Lãnh đạo thế nào? Bất kỳ công việc gì, cũng phải dùng hai cách lãnh đạo sau đây: Một là liên hợp chính sách chung với sự chỉ đạo riêng. Hai là liên hợp người lãnh đạo với quần chúng” (4). Tức là phải kết hợp chặt chẽ giữa chính sách chung với sự chỉ đạo riêng theo quan điểm của Người: “Bất kỳ việc gì, nếu không có chính sách chung, kêu gọi chung, không thể động viên khắp quần chúng. Song, nếu người lãnh đạo chỉ làm chung, làm khắp cả một lúc, mà không trực tiếp nhằm một nơi nào đó, thực hành cho kỳ được, rồi lấy kinh nghiệm nơi đó mà chỉ đạo những nơi khác, thì không thể biết chính sách của mình đúng hay sai. Cũng không thể làm cho nội dung của chính sách đó đầy đủ, thiết thực” (5). Phải liên hợp lãnh đạo với quần chúng, bởi theo Người: “Bất kỳ việc gì (thí dụ việc chỉnh đốn Đảng), người lãnh đạo phải có một số người hăng hái làm trung kiên cho sự lãnh đạo. Nhóm trung kiên này phải mật thiết liên hợp với quần chúng, công việc mới thành. Nếu chỉ có sự hăng hái của nhóm trung kiên, mà không liên hợp với sự hăng hái của quần chúng, nhóm trung kiên sẽ phải chạy suốt ngày mà không kết quả mấy. Nếu chỉ có sự hăng hái của quần chúng mà không có sự hăng hái của nhóm trung kiên để tổ chức và dìu dắt, thì sự hăng hái của quần chúng sẽ không bền và không thể tiến tới” (6).
Vận dụng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng ta qua các thời kỳ
Phương thức lãnh đạo của Đảng là các hình thức, phương pháp, cách thức, quy chế, quy trình, phong cách lãnh đạo, lề lối làm việc... mà Đảng sử dụng để tác động vào Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và nhân dân nhằm thực hiện thắng lợi Cương lĩnh chính trị, đường lối, các nghị quyết của Đảng. Còn đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới là toàn bộ hoạt động của Đảng và những tổ chức có liên quan nhằm thay đổi từng phần hoặc toàn bộ một điểm nào đó của phương thức lãnh đạo hiện có theo hướng tích cực, tiến bộ, bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng đem lại kết quả cao hơn, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng.
Luôn trung thành, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về cách lãnh đạo trong thời kỳ mới, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã chỉ ra những điểm chủ yếu của hoạt động lãnh đạo của Đảng: “Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của Đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị” (7). Đây là bước phát triển lớn, nhận thức ngày càng rõ hơn của Đảng về sự lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ đổi mới. Sự phát triển ấy, lại được Đảng bổ sung một điểm rất quan trọng thể hiện trong Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII): Đảng “lãnh đạo thông qua tổ chức đảng chứ không chỉ thông qua cá nhân đảng viên” (8).
Thực tiễn đổi mới luôn vận động, phát triển đòi hỏi sự phát triển không ngừng nhận thức của Đảng về phương thức lãnh đạo của Đảng. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011), Đảng đã làm sáng tỏ hơn, bổ sung nhiều nội dung mới và khái quát những nội hàm chủ yếu trong phương thức lãnh đạo của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của Đảng viên” (9). Nhất quán với tinh thần đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Nâng cao hiệu quả thực hiện và tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đặc biệt là với Nhà nước… Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo trong hệ thống tổ chức của Đảng; đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở, xây dựng phong cách làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, gần dân, trọng dân, vì dân, bám sát thực tiễn, nói đi đôi với làm” (10).
Những yêu cầu mới
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phương thức lãnh đạo của Đảng, nhất là trong điều kiện đảng cầm quyền là một việc làm hết sức quan trọng và cấp thiết. Trong thời điểm hiện nay lại càng quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết. Để thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng phải thấm nhuần và quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về phương thức lãnh đạo của đảng cầm quyền, nhằm xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh. Theo đó cần tiếp tục thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Thứ nhất, một mặt, tiếp tục khẳng định tính khoa học, cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện đảng cầm quyền. Mặt khác, phải quán triệt, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng này của Người vào điều kiện mới, nhất là trong điều kiện nước ta đang đẩy mạnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tích cực hội nhập quốc tế.
Thứ hai, tiếp tục thể chế hóa một số nội dung về chủ trương, đường lối của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước về vấn đề Đảng cầm quyền và lãnh đạo xã hội. Trước hết là thể chế hóa nội dung trong Điều 4 Hiến pháp năm 2013: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”; nghiên cứu, xây dựng luật về tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó quy định cụ thể về nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị nói chung và với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nói riêng.
Thứ ba, tiếp tục nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đảng lãnh đạo xã hội bằng đường lối, chính sách. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Sự đúng đắn về đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước là điều kiện tiên quyết để giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước gắn với tăng cường mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội, phát huy quyền làm chủ của cán bộ, đảng viên, nhân dân tham gia đóng góp xây dựng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Thứ tư, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng. Đồng thời, Đảng phải gắn bó máu thịt với Nhân dân, mọi đường lối, chính sách phải vì Nhân dân theo đúng chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Phải dùng cách "từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng"” (11).
Tóm lại, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là công việc hệ trọng, là nhiệm vụ tất yếu khách quan, đòi hỏi các cấp phải chủ động, tích cực, có quyết tâm chính trị cao; phải kiên trì vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về cách lãnh đạo; đồng thời, cần thận trọng, có bước đi vững chắc, vừa làm vừa tổng kết rút kinh nghiệm, bảo đảm thiết thực, hiệu quả, sát với đặc điểm, nhiệm vụ lãnh đạo của từng cấp, từng ngành và từng địa phương, từng cơ quan và đơn vị./.
HA
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (11) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 5, tr.325; tr.335; tr.327; tr.328; tr.328; tr.328; tr.331
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1991, tr.21
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1994, tr.63
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.88
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.214-216

ÂM MƯU CHÍNH TRỊ HÓA PHIÊN TÒA XÉT XỬ HỒ DUY HẢI


Lợi dụng sự phức tạp cũng như sự quan tâm của dư luận về vụ xét xử đối tượng Hồ Duy Hải, các tài khoản FB mang tên Thanh Hieu Bui, Phạm Minh Vũ và “Việt Tân” đã rêu rao những luận điệu “xét xử lại vụ án nhằm cản bước Trương Hòa Bình vào tứ trụ”, “là sự đấu đá trong nội bộ của đảng để hạ bệ nhau, tạo thanh thế trước Đại hội XIII”. Chưa kể các đối tượng còn vẽ ra bức tranh xét xử, thực thi công lý ở Việt Nam đầy màu u ám.

Thứ Sáu, 8 tháng 5, 2020

BÁC BỎ QUYẾT ĐỊNH ĐƠN PHƯƠNG CỦA TRUNG QUỐC!


Ngày 8/5/2020, trả lời câu hỏi của phóng viên về việc Trung Quốc ban hành thông báo cấm đánh bắt cá ở Biển Đông từ ngày 1/5-16/8/2020 và triển khai biện pháp thực thi thông báo này, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng nêu rõ:
Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa phù hợp luật pháp quốc tế.
Là quốc gia ven Biển Đông và thành viên Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, Việt Nam có chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán tại các vùng biển của mình được xác lập phù hợp Công ước đồng thời cũng được hưởng các quyền lợi hợp pháp khác trên biển theo quy định của Công ước.
Việt Nam bác bỏ quyết định đơn phương này của phía Trung Quốc. Trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay, Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc không làm phức tạp thêm tình hình Biển Đông./.
Tàu cá của ngư dân Lý Sơn (Quảng Ngãi) ra khơi hoạt động trên ngư trường quần đảo Hoàng Sa


Cuối tháng 10 năm 2019, cả nước Anh bàng hoàng và đau xót trước cái chết của 39 công dân Việt Nam khi xâm nhập vào nước họ trên một chiếc xe container đông lạnh. Cảnh sát đứng cúi đầu khi chiếc xe chở các thi thể đi qua. Thủ tướng Anh và người dân Anh đã dành cho họ những nghĩa cử cao đẹp - thắp nến và đặt hoa tưởng niệm. Tạo mọi điều kiện tốt nhất để thi hài họ được trở về Đất Mẹ Việt Nam.

Ngày 2/3/2020, trên một chuyến bay định mệnh từ nước Anh đáp xuống Nội Bài, qua kiểm tra dịch tễ đã cho thấy nhiều người Anh trên chuyến bay đó (VN0054) dương tính với dịch cúm Tàu. Họ được vào bệnh viện chữa trị miễn phí. Đặc biệt có hai cặp vợ chồng bệnh nhân số 26 và số 28. Hai người chồng bệnh rất nặng. Một người 69 tuổi với tiền sử xuất huyết não, liệt nửa người. Nhập viện phải thở máy 14 ngày. Bệnh nhân số 28 đã 74 tuổi, có bệnh nền phức tạp, ông hôn mê sâu, đặt nội khí quản. Dưới bàn tay tài ba của các Y Bác sỹ Việt Nam, họ đã hồi sinh. Trước giờ lên máy bay về nước đêm 13/4 (chuyến bay của Chính phủ Anh đón công dân của họ) Người vợ nghẹn ngào nói lời cảm ơn và hẹn sẽ trở lại Việt Nam.

Thầy giáo tiếng Anh ba tháng không việc làm, không lương, một thân một mình phải cầm giấy đứng xin tiền ăn. Mỗi tuần ông xin một lần, đủ 200 nghìn mua bánh mì và cá sống qua ngày là được. Chỉ mấy tiếng đồng hồ sau khi ảnh của ông lên sóng, ông đã nhận được số tiền hỗ trợ lên đến 48,3 triệu đồng cùng nhiều công việc để làm trong mùa dịch giã. Và ông viết : "Tôi choáng ngợp bởi lòng từ bi và sự hào phóng của người Việt. Tôi đã đủ thức ăn, tiền bạc xin quyên lại cho từ thiện ngay bây giờ". Và ông chỉ giữ lại 12 triệu để đóng tiền nhà 2 tháng còn thiếu, số tiền còn lại 36,3 triệu đồng ông đã gửi lại nhờ chuyển cho những người khó khăn hơn. Thật hào hiệp và ấm lòng! Nghĩa cử này khiến những người thích phán xét bình tâm hơn. Cảnh ngộ chỉ là nhất thời, đẳng cấp mới là mãi mãi.

Nhìn lại sự kiện chiếc container định mệnh ở nước Anh mấy tháng trước, nhìn về những người Anh trong câu chuyện hôm nay trên đất Việt. Thấy có cái gì đó nhân quả vô hình, gặp gỡ lại hữu hình để người Việt có cơ duyên được báo đền. Thật ấn tượng khi nhìn dòng chữ "TẤT CẢ CHO SỰ SỐNG HỒI SINH" nơi cánh cửa khu hồi sức tích cực BV Nhiệt đới Trung ương. Bỗng thấy thật trân trọng những giá trị dù nhỏ nhất của cuộc sống hôm nay. Yêu thương cũng nhiều hơn.

CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ


       Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954 được kênh truyền hình Pháp France 24 nhận định là “một đòn anh dũng” giáng vào chủ nghĩa thực dân kiểu cũ, là “một thời khắc quan trọng trong lịch sử” của Việt Nam và “một cột mốc trong lịch sử phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới”. Tờ The New York Times cho rằng, sự sụp đổ của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ “đặt dấu chấm hết cho sự ảnh hưởng quân sự của Pháp tại châu Á”; trong khi, theo CNN, việc Việt Minh đánh bại Pháp tại Điện Biên Phủ khiến cả xứ lục lăng bàng hoàng cũng như “chấm dứt sự đô hộ của Pháp ở Đông Dương”. Tờ Frontline của Ấn Độ nhận xét: Chiến thắng Điện Biên Phủ cho thấy “một nước châu Á nhỏ bé đã đánh bại một cường quốc thực dân châu Âu hùng mạnh” và là “động lực to lớn cho phong trào giải phóng dân tộc trên khắp thế giới”.

NHỚ NHÀ TRONG TÔI


Tôi không biết đã mấy mùa rơm rạ rồi tôi không còn lẽo đẽo theo gót mẹ để chia chút dãi dầu mưa nắng. Bao lâu rồi mẹ không có dịp để dạy con hiểu ý nghĩa của giọt mồ hôi rơi xuống. Cũng từng ấy thời gian, ngày hai buổi sáng, chiều tôi quanh quẩn bên công việc của mình. Rồi nhiều khi tự hỏi, thường thường người ta đi xa bao nhiêu lâu mới cảm thấy nhớ nhà?

NHÂN ĐẠO HÓA CON NGƯỜI TRONG VĂN CHƯƠNG


Văn học nghệ thuật chân chính luôn đặt việc nhân đạo hóa con người vào vị trí trung tâm. Là tiếng nói của tình cảm, văn chương lấy hình tượng đậm chất cảm xúc làm phương tiện để đánh thức và nhân lên cảm xúc nhân văn nên phải lấy con người làm gốc. Trước nay một tác phẩm giá trị luôn hướng con người đến cái cao cả, cái thiện, cái tốt, cái đẹp. Tình yêu con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu cũng là nguồn cảm hứng căn bản nhất thúc đẩy các nhà văn miêu tả, phản ánh, sáng tạo. Ngày nay thế giới coi sự biết lắng nghe nhau là một yếu tố của khoan dung hòa giải văn hóa. Đó cũng là một biểu hiện của tính người, là sự thể hiện cụ thể tinh thần dân chủ, bình đẳng giữa người với người. 

PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VĂN HÓA VIỆT NAM


Để phát triển ngành công nghiệp văn hóa (CNVH), điều kiện đầu tiên, mang ý nghĩa quyết định là khả năng đầu tư. Hiện nay, ở nước ta, mức chi cho hoạt động văn hóa chiếm khoảng 1,8% tổng chi ngân sách nhà nước hằng năm. Nhà nước hỗ trợ tài chính cho các hoạt động văn hóa, nghệ thuật bằng cách đầu tư từ nguồn ngân sách và xây dựng những thiết chế văn hóa gián tiếp hỗ trợ cho các hoạt động nghệ thuật thông qua chính sách về thuế. Theo đó, những tổ chức xã hội, nghề nghiệp hay những cá nhân đóng góp tài chính cho các hoạt động văn hóa đều được khấu trừ thuế, được hưởng miễn thuế tài sản và miễn thuế thu nhập khi đóng góp cho Nhà nước. Tuy nhiên, để ngành CNVH phát triển thì đầu tư xây dựng đội ngũ văn nghệ sĩ, kịch bản có chất lượng là cần thiết, nhưng cũng cần quan tâm đến việc tạo nên lực lượng công chúng có nhu cầu thưởng thức văn hóa, nghệ thuật đông đảo. Khi sức “cầu” tăng mạnh, tất yếu nguồn “cung” cũng tăng tương xứng. Một vài năm gần đây, các chính sách về phát triển văn hóa ở ta đã chú ý hơn tới việc đào tạo công chúng nghệ thuật. Tuy nhiên, thực tế hoạt động này còn thiếu tính bài bản và tương đối nhỏ lẻ. Vì thế, trong chiến lược phát triển CNVH rất cần xem trọng hơn hoạt động giáo dục-đào tạo nhằm tạo sự phát triển từ cả hai phía cung-cầu.

PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA VIỆT NAM


Năm 1943, từ khi cách mạng Việt Nam còn trong trứng nước, Đảng ta đã có Đề cương Văn hóa với những nguyên tắc có sức sống trường tồn. Đề cương Văn hóa năm 1943 lúc đó tập trung vào nhiệm vụ cách mạng trước mắt là đưa văn hóa Việt Nam ra khỏi ảnh hưởng nô dịch của văn hóa thực dân và phát xít, biến văn hóa Việt Nam từ chỗ bị động và tiêu cực trở thành một nhân tố tinh thần lớn mạnh trong sự nghiệp giải phóng đất nước. Đề cương đã gắn liền nhiệm vụ giải phóng kinh tế, chính trị cho xã hội với nhiệm vụ giải phóng cho con người.
Tháng 11-1946, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất được tổ chức ở Nhà hát Lớn Hà Nội, trong diễn văn khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu nhiệm vụ của văn hóa mới là phải lấy hạnh phúc của đồng bào, sự nghiệp đấu tranh của dân tộc làm nội dung phản ánh, đồng thời phải tiếp thu những kinh nghiệm của văn hóa xưa và nay để xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam với 3 tính chất: Dân tộc, khoa học, đại chúng. Người nêu rõ vị trí, ảnh hưởng của văn hóa, nghệ thuật trong việc giáo dục thế hệ trẻ, xây dựng con người Việt Nam yêu nước, độc lập, tự cường, tự chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra luận điểm “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Luận điểm này trở thành nguyên tắc chi phối, có ý nghĩa cơ bản, lâu dài, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt quá trình phát triển văn hóa Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ nhận thức sâu sắc về một trong những đặc điểm ưu việt của chủ nghĩa xã hội là tính nhân văn, trong sự nghiệp của mình, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh vấn đề xây dựng văn hóa, xây dựng con người. Và đó cũng là cơ sở lý luận-thực tiễn quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH).

Thứ Năm, 7 tháng 5, 2020


KIÊN QUYẾT CHỐNG LẠI CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH PHỦ NHẬN THÀNH QUẢ CHỐNG COVID-19 CỦA VIỆT NAM
Bắt đầu xuất hiện từ tháng 12/2019 tại Trung Quốc đến nay Dịch bệnh Covid-19 đã lan ra 214 quốc gia và vùng lãnh thổ, làm gần 4 triệu người nhiễm, với hơn gần 270 nghìn người tử vong, diễn biến hết sức phức tạp chưa có dấu hiệu dừng lại. Chuỗi cung ứng toàn cầu đứt gãy, đời sống người dân đảo lộn, thiệt hại kinh tế toàn cầu lên hàng nghìn tỉ đô la, hàng trăm triệu người bị mất việc làm, nhiều tập đoàn kinh tế lớn bên bờ vực phá sản, cũng rất lâu rồi thế giới mới lại phải rơi vào tình trạng bi kịch về sức khỏe con người như hiện nay
Đối với Việt Nam, ngay từ khi Trung Quốc phát hiện có ca nhiễm Đảng và nhà nước ta đã có những chủ trương, quyết sách phù hợp, đã dự kiến được nhiều tình huống với các kịch bản khác nhau về cách đối phó với dịch ngay sau khi có những ca nhiễm bệnh đầu tiên và đã có nhiều quyết sách đúng đắn, kịp thời, đầy tính nhân văn, lấy sức khỏe, tính mạng người dân đặt lên hàng đầu, chấp nhận tạm thời phát triển kinh tế chậm lại, không để ai bị bỏ lại phía sau, chống dịch như chống giặc, không thu phí khám chữa bệnh, không thu tiền ăn ở của người bị cách ly, đón nhận kiều bào và du học sinh từ các tâm dịch về nước...
Trong công cuộc chống đại dịch Covit-19, Đảng và chính phủ, các tầng lớp trong xã hội từ người đứng đầu chính phủ đến mỗi người dân, từ người già, đến người trẻ tất cả đều một lòng “chống dịch như chống giặc’’ với phương châm “Ngành y là chủ yếu, Quốc phòng góp sức thêm, Công an trực ngày đêm, Cả nước vào trận đánh, mặt trận không tiếng súng, nhưng không kém chiến trường, lấy đạo đức tình thương, lá lành đùm lá rách”. Với những biện pháp, chủ trương hết sức sáng tạo, năng động quyết liệt cùng với sự quyết tâm của toàn Đảng, sự đồng thuận của toàn dân. Đến nay, chúng ta đã kiểm soát được dịch, cuộc chiến chống giặc Covid-19 đã và đang có những kết quả thành công rất lớn, đến nay sau hơn 21 ngày chúng ta đã không có ca dịch Covid- 19 nào bị phát hiện và lây lan trong cộng đồng, mọi hoạt động trong xã hội trở lại hoạt động bình thường, trẻ em lại được đến trường, kinh tế phát triển trở lại.... Chính phủ đang tiến hành đón công dân Việt Nam ở các vùng dịch trên thế giới có nhu cầu về quê hương tránh dịch. Thành quả đó là sự chung sức của toàn dân, sự đóng góp, hy sinh rất lớn của nhiều lực lượng trong đó hình ảnh những người lính bộ đội cụ Hồ, những chiến sỹ áo trắng nêu gương ở tuyến đầu  chống giặc Covít-19. Thành quả đó được các nước, nhiều tổ chức khen ngợi như: WHO, Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Nhật Bản ...
Mặc dù thành công thắng lợi đã đến và được khẳng định nhưng các thế lực thù địch, phản động vẫn ngày đêm ráo riết chuẩn bị các mưu đồ để phủ nhận các thành quả của Việt Nam, kịch bản của chúng sẽ không có gì mới, lại cào bàn phím, lại lô loa, lảm nhảm hết ngày này qua tháng khác bằng các hành vi bỉ ổi, vô liêm sỉ, vu khống, bịa đặt như kiểu: Việt Nam ăn may, dấu bệnh, nền kinh tế đang sụp đổ, vi phạm nhân quyền, dân chủ trong chống dịch.
Thành quả đạt được của đất nước ta là đáng tự hào, trong đó có sự đóng góp của tất cả mọi người và chính chúng ta. Không thể để các thế lực thù địch, phản động phủ nhận.Vì vậy, mỗi người dân yêu nước hãy có thái độ, tình cảm, lý trí cần cảnh giác và lên án mạnh mẽ với các thế lực thù địch. Không phụ họa, cổ súy cho những hành động sai trái của các thế lực thù địch, hãy sống một cuộc sống lành mạnh, tuân thủ đúng theo pháp luật và tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, tin vào chế độ XHCN mà chúng ta đang đi.
TMT.08.5.20

CHIẾN THẮNG LỊCH SỬ ĐIỆN BIÊN PHỦ 66 NĂM NHÌN LẠI

Chiến dịch Điện Biên Phủ là một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam, kết thúc 9 năm kháng chiến trường kỳ, anh dũng của Nhân dân ta chống thực dân Pháp, trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng và sức mạnh Việt Nam.
Điện Biên Phủ là một thung lũng lòng chảo rộng lớn ở phía tây vùng rừng núi Tây Bắc, gần biên giới Lào - Việt. Đối với đế quốc Pháp Mỹ, Điện Biên Phủ là một địa bàn chiến lược hết sức quan trọng, là một vị trí chiến lược cơ động ở giữa miền Bắc Việt Nam, Thượng Lào và miền Tây Nam Trung Quốc, có thể trở thành một căn cứ lục quân và không quân rất lợi hại trong âm mưu xâm lược của chúng ở vùng Đông Nam châu Á. Thấy rõ vị trí quan trọng của Điện Biên Phủ, ngày 20/11/1953, thực dân Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ và xây dựng ở đây một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương.
Lực lượng của địch ở Điện Biên Phủ gồm 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội xe vận tải có khoảng 200 chiếc và phi đội không quân thường trực có 14 chiếc. Tổng số binh lực là 16.200 tên. Chúng bố trí thành tập đoàn cứ điểm gồm 40 cứ điểm, tổ chức thành 8 cụm, mỗi cụm cứ điểm là một hệ thống hoả lực nhiều tầng. Tám cụm cứ điểm họp thành ba phân khu, 80% lực lượng không quân ở Đông Dương và nhiều loại vũ khí hiện đại khác của Pháp và Mỹ đã được đưa vào tác chiến ở Điện Biên Phủ. Để tăng cường cho Điện Biên Phủ, thực dân Pháp đã tập trung hầu hết máy bay chiến đấu, máy bay vận tải ở Đông Dương cho mặt trận. Đế quốc Mỹ tăng viện gấp cho Pháp 100 máy bay oanh tạc chiến đấu, 50 máy bay vận tải và cho Pháp mượn 29 máy bay C119 có cả người lái; lập cầu hàng không chở dù từ Nhật và Mỹ sang mặt trận Điện Biên Phủ. Đế quốc Mỹ còn đưa 2 tàu sân bay vào Vịnh Bắc Bộ diễn tập "đổ bộ ào ạt vào Đông Dương".
Với số quân đông, hoả lực mạnh, công sự vững chắc, các tướng tá Pháp và Mỹ xác nhận đây là "một tập đoàn cứ điểm đáng sợ", "một pháo đài bất khả xâm phạm". Xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, thực dân Pháp và can thiệp Mỹ hòng thực hiện ý đồ thu hút chủ lực ta để tiêu diệt.
Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị Trung ương Đảng "tiêu diệt toàn bộ quân địch ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ", công việc chuẩn bị cho chiến dịch được ráo riết tiến hành từ cuối năm 1953.
Chủ tịch Hồ Chí Minh Chỉ thị: "Chiến dịch này là một chiến dịch quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được". Trung ương Đảng quyết định thành lập Đảng uỷ và Bộ chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ do đồng chí Võ Nguyên Giáp, Uỷ viên Bộ Chính trị, trực tiếp làm Bí thư Đảng uỷ và Chỉ huy trưởng mặt trận.
Với khẩu hiệu "Tất cả cho mặt trận, tất cả để chiến thắng”, Nhân dân ta đã dồn hết sức người, sức của cho chiến dịch.
Để bảo đảm chắc thắng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã có một quyết định mà ông cho rằng khó khăn nhất trong cuộc đời cầm quân của ông đó là chuyển từ phương châm  "Đánh nhanh, thắng nhanh" sang "Đánh chắc, tiến chắc".    Để thực hiện theo phương châm mới, Ông cho rút toàn bộ lực lượng đã triển khai về vị trí tập kết tiếp tục làm công tác chuẩn bị. Đầu tháng 3/1954, công tác chuẩn bị mọi mặt cho chiến dịch đã hoàn thành.
Ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng mở đợt tiến công thứ nhất vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Sau 5 ngày chiến đấu, ta đã tiêu diệt nhanh gọn hai cứ điểm kiên cố bậc nhất của địch (Him Lam và Độc Lập), sau đó, làm tan rã thêm một tiểu đoàn địch và tiêu diệt cứ điểm Bản Kéo. Ta diệt và bắt sống 2.000 tên địch, bắn rơi 12 máy bay, mở thông cửa vào trung tâm tập đoàn cứ điểm, uy hiếp sân bay Mường Thanh, giáng một đòn choáng váng vào tinh thần binh lính địch.
Ngày 16/3/1954, địch cho 3 tiểu đoàn nhảy dù xuống tăng viện cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Ngày 30/3/1954, ta mở đợt tiến công thứ hai đánh đồng loạt các ngọn đồi phía Đông của phân khu trung tâm.
Đánh vào khu đông, ta tiêu diệt 2.500 tên địch, chiếm lĩnh phần lớn các điểm cao quan trọng ở phía đông, thực hiện từ trên đánh xuống, tạo thêm điều kiện chia cắt, bao vây, khống chế địch, chuyển sang tổng công kích tiêu diệt địch.
Ngày 1/5/1954, ta mở đợt tiến công thứ ba. Quân ta lần lượt đánh chiếm những cứ điểm còn lại ở phía Đông và phía Tây, bẻ gãy những cuộc phản kích của địch.
Ngày 4/5/1954, địch thả tiểu đoàn dù dự bị cuối cùng xuống Điện Biên Phủ.
Ngày 7/5/1954, bộ đội ta phất cao cờ chiến thắng, tiến thẳng vào sở chỉ huy địch, tướng Đờ Cáttơri (De Castries) và toàn bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm bị bắt sống.
Sau 56 ngày đêm chiến đấu vô cùng anh dũng, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Ta tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch. Ta hy sinh 4.200 đồng chí, mất tích 792 đồng chí, bị thương 9.118 đồng chí.
Ta thu được 28 khẩu pháo, 5.915 khẩu súng lớn nhỏ, 3 xe tăng, 64 ô tô, 43 tấn dụng cụ thông tin, 20 tấn thuốc quân y, 40 tấn đồ hộp, 40.000 lít xăng dầu, bắn rơi 62 máy bay các loại.
Đây là chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn nhất của Quân đội ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp, góp phần quyết định làm phá sản kế hoạch Nava của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, là chiến thắng có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, một chiến công vĩ đại trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, cổ vũ phong trào chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc trên thế giới.
Chiến thắng Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi 9 năm kháng chiến trường kỳ, anh dũng của Nhân dân ta. Điện Biên Phủ ghi một mốc son chói lọi vào lịch sử dân tộc và thời đại, trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng và sức mạnh Việt Nam./.
                                                                              Lk sưu tầm và biên soạn.

Xây dựng văn hóa chính trị


Nhìn vào thành quả lãnh đạo cách mạng nước ta gần một thế kỷ qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xuất hiện như là một lực lượng tiên phong, sáng suốt, một tập hợp của những chiến sĩ giương cao ngọn cờ đấu tranh cho những giá trị chân chính của con người. Đảng đã chiếm được trái tim và khối óc của gần một trăm triệu người Việt Nam. Có được như vậy là do Đảng ta luôn cầu thị vì một nền văn hóa chính trị.
Văn hóa được hiểu như là cái cốt lõi của bản lĩnh, bản sắc và những truyền thống tốt đẹp, là tinh hoa, là yếu tố xuyên suốt toàn bộ lịch sử, tạo nên sức trường tồn của dân tộc. Trong bối cảnh hiện nay, văn hóa còn được hiểu là một tập hợp bao gồm hệ thống các giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức và trí tuệ, phẩm chất và tài năng, sức nhạy cảm tiếp thu cái mới từ bên ngoài, bản lĩnh và ý thức bảo vệ bản sắc của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để tự bảo vệ mình, để không ngừng lớn mạnh.
Văn hóa chính trị là một hệ giá trị văn hóa được con người lựa chọn tiếp nhận và biểu hiện ra trong quá trình hoạt động chính trị. Trước hết, đó là trình độ giác ngộ khoa học về chính trị, tức là sự nắm vững các tri thức, giúp con người nhận thức đúng bản chất của lợi ích và quyền lực chính trị, biết phân biệt sự khác nhau, động cơ, thái độ và hành vi trong hoạt động chính trị. Sự giác ngộ về văn hóa chính trị được hình thành từ hai nguồn tri thức khoa học lý luận và từ kinh nghiệm thực tiễn. Cần hiểu văn hóa chính trị là chất lượng tổng hợp của tri thức và kinh nghiệm hoạt động chính trị, là tình cảm và niềm tin chính trị của mỗi cá nhân tạo thành ý thức chính trị, động cơ thúc đẩy họ vươn tới những hành động chính trị một cách tự giác phù hợp với lý tưởng chính trị của xã hội.
Văn hóa của cả loài người nói chung mang tính năng động và sáng tạo, nghĩa là đổi mới không ngừng. Tuy có sự khác nhau trên con đường phát triển của các nền văn hóa của các dân tộc trên thế giới, thậm chí có nền văn hóa trong một thời gian nhất định bị ngừng trệ, thoái lui, nhưng ở tầm lịch sử và mang tính thời đại thì văn hóa của các dân tộc và của loài người luôn trong xu thế vươn lên từ thấp đến cao, từ lạc hậu tới văn minh, hiện đại. Chính vì vậy, văn hóa là đổi mới và văn hóa chính trị đổi mới cũng là tất yếu và sự đổi mới ấy luôn gắn với đặc điểm, yêu cầu của từng thời kỳ.
Văn hóa chính trị có thể được nhận dạng qua: Thứ nhất, là nhu cầu và thói quen, qua hành động tích cực tham gia của cá nhân vào các sinh hoạt chính trị - xã hội theo những chuẩn mực nhất định vì lợi ích của cộng đồng, bảo vệ, tán thành, ủng hộ hoặc phê phán, phản đối những hiện tượng, những sự việc ở các lĩnh vực trong đời sống xã hội (chính trị, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật...) theo những chuẩn mực văn hóa và quan điểm, lập trường chính trị nhất định. Thứ hai, là qua giao tiếp, ứng xử trong các mối quan hệ (cá nhân với cá nhân, đồng nghiệp, đồng cấp, cấp trên với cấp dưới; cá nhân với tổ chức; cá nhân với xã hội trên các vấn đề thuộc về lợi ích). Một trong những biểu hiện của hình thức này là văn hóa tranh luận, văn hóa đối thoại. Văn hóa chính trị của từng cá nhân bộc lộ qua quan điểm giai cấp, lập trường chính trị, khí chất, năng lực trí tuệ, trình độ tư duy, dấu ấn nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, tác phong, nhân cách... của mỗi người, từ mỗi công dân bình thường đến các chính khách, các nhà lãnh đạo, quản lý nắm trong tay quyền lực chính trị. Thông qua quan hệ giao tiếp, ứng xử có thể đánh giá trình độ văn hóa chính trị của mỗi người ở các mức độ: Mức độ tự biết mình; mức độ biết lắng nghe tiếp nhận, chọn lọc và xử lý thông tin; mức độ biết thích ứng và đáp ứng để thỏa mãn nhu cầu của người khác vì mục tiêu chính trị; trung thành với lý tưởng chính trị, tính trung thực và khiêm nhường, sự kiên quyết, khéo léo, mưu lược, lòng nhân ái, hướng về nhân dân, dân tộc và tận tụy phục vụ nhân dân một cách có hiệu quả.
Xây dựng văn hóa chính trị trên tinh thần “tự chỉ trích”
Sự vĩ đại của một Đảng, một dân tộc không thể chỉ nhìn vào một số hiện tượng nhất thời, những khúc quanh co và thụt lùi, không thể thiển cận chỉ thấy “cây” không thấy “rừng”, chỉ thấy những “bóng mây” đen tối tạm thời che mờ bản chất sáng ngời của chân lý. Lịch sử là khách quan, hiện thực thì cần nhìn nhận một cách thẳng thắn, nhưng để đánh giá bản chất thì phải dưới ánh sáng của những giá trị văn hóa, văn minh. Bình tĩnh và khách quan nhìn ngược lại một chặng đường dài và cùng nhìn thẳng vào những sai lầm, khuyết điểm đã mắc phải, như thế không những sẽ cho ta nhìn rõ những giá trị đích thực, mà còn thấy được cái giá phải trả, cái nghị lực phi thường của một đảng cách mạng chân chính.
Nhìn vào sự vĩ đại của một đảng chính trị, trước hết, phải thấy ở chỗ đảng đó đã biết vượt qua những trở lực khó khăn, thậm chí cả những sai lầm để đề ra được đường lối và quyết sách chiến lược đúng trong những thời điểm lịch sử có tính bước ngoặt. V.I. Lê-nin đã từng nói, cái gì có thể áp dụng đối với cá nhân con người, thì tuy mức độ có khác nhau, cũng có thể áp dụng vào chính trị và các chính đảng được. Người thông minh không phải là người không phạm sai lầm. Không có và không thể có những người không sai lầm. Người nào phạm sai lầm, biết nhanh chóng nhận ra sai lầm, tìm nguyên nhân và đề ra chủ trương, biện pháp khắc phục có hiệu quả, người đó là người thông minh, một người đã đạt tới một đẳng cấp văn hóa cao.
Suốt chín thập kỷ qua, Đảng Cộng sản Việt Nam không phải không có những sai lầm. Đảng từng phạm sai lầm trong những năm mới ra đời, những năm chuẩn bị Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong lãnh đạo kháng chiến, trong cải cách ruộng đất và cả trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng sự vĩ đại của Đảng chính là ở sự tự chỉ trích, tự phê bình, dũng cảm nhận ra và sửa chữa các sai lầm, khuyết điểm để ngày càng hoàn thiện với tư cách một đảng có đạo đức, có văn hóa, một đảng văn minh.
Trong nhiều thời kỳ, Đảng luôn phải đấu tranh không khoan nhượng với các trào lưu tư tưởng sai lầm, biểu hiện của tệ bè phái, cục bộ, khuynh hướng giáo điều, cơ hội hữu khuynh và ấu trĩ tả khuynh. Đảng đã nhiều lần chỉnh đốn tổ chức của mình, thẳng thắn nhìn vào những sai lầm, khuyết điểm, mạnh dạn cắt bỏ khỏi “cơ thể” những “khối u” gây hại cho phong trào cách mạng của nhân dân. Đảng đã kiên trì làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Nơi nào sai lầm, ai sai lầm, thì lập tức sửa chữa. Kiên quyết chống thói nể nang và che giấu.
Sự vĩ đại của Đảng chính là ở chỗ hơn 90 năm qua (1930 - 2020) không bao giờ tự mãn, tự thấy tổ chức của mình đã hoàn thiện, hoàn mỹ, mà luôn tự phê bình, tiếp nhận phê bình của nhân dân, gắng sửa chữa để đổi mới Đảng. Chỉnh đốn Đảng luôn được coi như là điều kiện tồn tại và phát triển mà lãnh tụ của Đảng - Chủ tịch Hồ Chí Minh - đã suốt đời quan tâm, nhắc nhở.
Nhìn từ thái độ đối với sai lầm, khuyết điểm, người ta thấy được sức mạnh của đảng chân chính. Chỉnh đốn Đảng, đổi mới Đảng, kết nạp những người ưu tú nhất vào Đảng, đưa ra khỏi Đảng những kẻ thoái hóa, biến chất, trừng trị những kẻ lợi dụng danh nghĩa Đảng để trục lợi; công khai, công bằng; không dung túng, bao che, “nhẹ trên, nặng dưới”... là thể hiện ý chí và quyết tâm của Đảng. Hiếm có một lãnh tụ vừa nhân từ, khoan dung đối với mọi người, vừa nghiêm khắc, phục tùng kỷ luật Đảng và phép nước như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Dù đau xót, Người vẫn phải dằn lòng ký lệnh tử hình đảng viên là cán bộ cấp cao đã phạm tội trước nhân dân. Nỗi đau đó của lãnh tụ đã góp phần làm nên sự vĩ đại của Đảng. Nhân dân tin tưởng vào hành động quang minh chính đại của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Cán bộ, đảng viên lấy đó mà răn mình để ngày càng xứng đáng là người lãnh đạo và người đầy tớ trung thành của nhân dân
Xây dựng văn hóa của nhà lãnh đạo chính trị
Văn hóa chính trị không có mục đích tự thân trong đời sống chính trị, không tự nhiên hình thành ở mỗi cá nhân cũng như ở các nhà chính trị, ở đảng chính trị, nhưng cần xây dựng, bồi dưỡng để trở thành nhu cầu nội sinh trong từng cá nhân, tổ chức. Từ đó, mới tạo được nền tảng để tập hợp, giáo dục quần chúng, tìm ra được các hình thức tổ chức phù hợp để quy tụ mọi tầng lớp, giai cấp xã hội phấn đấu theo định hướng của đảng chính trị.
Con đường hình thành văn hóa chính trị ở mỗi con người khác nhau nhưng nhìn tổng quát có thể thấy một số điểm chung: Thông qua một quá trình giáo dục và giáo dưỡng của hệ thống giáo dục gồm gia đình, nhà trường, xã hội và từ sự tự nỗ lực tìm kiếm, học hỏi của mỗi người; hình thành từ hoạt động thực tiễn, từ sự trải nghiệm của mỗi người trong đời sống chính trị, trong lao động sản xuất và giao tiếp với cộng đồng.
Ngày nay, một đảng chính trị, một cá nhân có văn hóa chính trị chỉ khi hiểu được định hướng của sự phát triển, chủ động tích cực tham gia vào công cuộc đổi mới để đạt được những mục tiêu tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, cụ thể đó là sự giàu có về đời sống vật chất và tinh thần của người dân; sự hùng cường, tự chủ, văn minh của đất nước.
Để trở thành nhà lãnh đạo chính trị, phải có động cơ hành động đúng đắn. Động cơ hành động là thước đo trình độ văn hóa chính trị của mỗi cá nhân, là văn hóa chính trị được vật chất hóa thông qua sự hiện hữu của mỗi con người.
Động cơ là nội lực của mỗi con người, không thể chỉ bằng giáo dục mà có. Nó còn đòi hỏi sự tự tu dưỡng, rèn luyện lâu dài. Động cơ chi phối suy nghĩ và hành động của con người, làm cho con người vượt qua khó khăn, trở ngại để đạt mục đích cao đẹp và những thành tựu có khi rất vĩ đại. Chính động cơ “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(1) của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn Người tới đỉnh cao của một vĩ nhân, anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa kiệt xuất của nhân loại.
Một người có văn hóa chính trị cao là người có đạo đức cách mạng trong sáng, tuyệt đối trung thành với lý tưởng của Đảng vì độc lập, chủ quyền quốc gia, danh dự và lợi ích dân tộc, dân chủ, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”, là “trung với nước,hiếu với dân”. Lòng trung thành của nhà hoạt động chính trị thể hiện ở niềm tin và hành động cụ thể đối với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đối với Hiến pháp và pháp luật. Trong tình hình hiện nay, khi đất nước ta đang đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập toàn cầu thì vấn đề tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với nhân dân càng phải được coi trọng. Đây là điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi người cán bộ phải “vững về chính trị, giỏi về chuyên môn”.
Phải ham học hỏi, biết luôn tự vượt cao hơn chính mình, phải có sự hiểu biết nhiều mặt, nhất là khoa học và công nghệ, tổ chức và quản lý điều hành, phải “ham học”, “say hỏi”, “say nghiên cứu xem xét”, phải “gắn lý luận với thực tế” để hoàn thành những nhiệm vụ cụ thể. Làm việc là sự thể hiện năng lực, nhưng xét sâu xa, lại đồng thời là đạo đức, là biểu hiện về văn hóa chính trị của mỗi người. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, trước hết là phải“học để làm việc”, “học để làm người”, “học để làm cán bộ”, nhà hoạt động chính trị có vai trò, trách nhiệm hướng dẫn cho người khác, cho nhân dân, vì vậy, sự gương mẫu là đòi hỏi và yêu cầu bắt buộc đối với nhà hoạt động chính trị và phải học để biết làm việc và biết làm người, biết làm tròn chức trách của mình. Chỉ có vậy mới “phụng sự đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại”.
Đối với bản thân, phải biết tự rèn luyện, tự nghiêm khắc, tự mình phải cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư, không hiếu danh, không si mê quyền lực, không kiêu ngạo, không tự huyễn hoặc; phải biết tự kiềm chế, “ít lòng ham muốn vật chất”, “cả quyết sửa lỗi mình”. Tự biết mình, đánh giá đúng bản thân để biết phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, nỗ lực vươn lên, đó là một người lãnh đạo chính trị tự trọng và có nhân cách.
Đối với người, phải trung thực, khoan dung, thẳng thắn, không dối trên lừa dưới, không dùng mánh lới, thủ đoạn đối với đồng chí, đồng nghiệp, không nói một đằng làm một nẻo, không giấu khuyết điểm, phải “quang minh chính đại”. Nhà hoạt động chính trị, nhất là người lãnh đạo chính trị, phải phấn đấu để có được lòng tin yêu, kính trọng của đồng sự và cấp dưới bằng sự ngay thẳng và lòng trung thực. Từ trái tim mình đến trái tim đồng chí, đồng nghiệp và đồng bào chỉ có thể đi bằng một con đường được xây nên bởi sự chân thành, tình yêu thương, lòng nhân ái, vị tha. Tính nguyên tắc, ý thức kỷ luật và tình cảm cách mạng; tình dân tộc, nghĩa đồng bào phải thống nhất với nhau trong hoạt động, thi hành chức phận của nhà chính trị. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, hiểu chủ nghĩa Mác - Lê-nin là phải sống với nhau cho có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Người còn nói, theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin là phải vì nhân dân với tất cả tình cảm trong sáng của mình, “chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Đó là những yêu cầu bắt buộc của văn hóa chính trị, mà nhà hoạt động chính trị phải đạt tới nếu họ muốn trở thành một nhà chính trị chân chính.
Nhà hoạt động chính trị, một khi có chức, quyền trong tay cần phải đề phòng một số “bệnh” rất dễ đi liền với quyền lực. Ngay từ buổi đầu dựng nền dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở phải ngăn ngừa một số bệnh có nguy cơ dẫn đến sự tha hóa biến chất. Đó là trái phép nước, cậy thế, kéo bè, kéo cánh, chia rẽ, bè phái, “cánh hẩu”, kiêu ngạo, địa phương chủ nghĩa, óc quân phiệt, quan liêu, tham nhũng, vô kỷ luật, óc địa vị tranh giành quyền lực…
Để trở thành nhà hoạt động chính trị không thể không được giáo dục, hơn thế phải tự biết giáo dục về văn hóa chính trị. Trình độ văn hóa chính trị luôn luôn tỷ lệ thuận với uy tín chính trị, với sự thành đạt của nhà hoạt động chính trị và các tổ chức chính trị. Rõ ràng, sự vĩ đại của Đảng gắn liền với quá trình phấn đấu, được giáo dục và tự giáo dục bản thân để trưởng thành trên một nền tảng văn hóa chính trị vững chắc.
Tóm lại, văn hóa chính trị là một trong những tiêu chí quan trọng hàng đầu để cho mỗi người hướng tới để rèn luyện, học tập và tu dưỡng bản thân, xứng đáng là một công dân trong một đất nước và xã hội tiến bộ, văn minh.
Chăm lo đến việc giáo dục văn hóa chính trị là chăm lo đến sự nghiệp trồng người, chăm lo đến sự nghiệp xây dựng đất nước “vì lợi ích trăm năm” và “muốn có chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Nhà hoạt động chính trị vừa phải tự rèn luyện, tự hoàn thiện trình độ văn hóa chính trị của mình, đồng thời, phải là người nêu gương sáng cho những người khác. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, văn hóa chính trị càng cần được đề cao, nhất là đối với những nhà hoạt động chính trị, bởi vì họ chính là tấm gương học tập, là biểu tượng của một nền văn hóa chính trị hiện đại đậm đà bản sắc dân tộc của chúng ta hiện nay./



DÂN CHẲNG THỜ SAI AI BAO GIỜ

Mẹ kể, ngày 02/09/1969, khi loa phát thanh đưa tin lãnh tụ Hồ Chí Minh qua đời, người phát ngôn cũng không ngăn được nghẹn ngào khi nghe thấy tiếng nức nở trên loa. Mẹ bảo thấy người lớn khóc thì trẻ con cũng khóc theo. Cả làng cả xã ai hầu như ai cũng khóc, không khí thương đau bao trùm cả nước.

ĐẨY MẠNH PHÒNG CHỐNG LỢI ÍCH NHÓM ĐỂ ĐẢNG TRONG SẠCH VỮNG MẠNH


Trong những năm qua, nhất là trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng; trong đó có phòng, chống và ngăn chặn “lợi ích nhóm” đã được đẩy mạnh. Từ Trung ương đến địa phương, việc nghiêm túc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII gắn với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” (Chỉ thị 05) đã tạo ra sự chuyển biến sâu sắc từ nhận thức đến hành động của các cấp ủy Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên. Thông qua đó, việc rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đã đạt được những kết quả tích cực.

Cảnh giác với thông tin xuyên tạc chống Đảng trên mạng xã hội

Cứ đến thời điểm đất nước chuẩn bị có những sự kiện trọng đại, các thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ hội chính trị lại triệt để lợi dụng để đẩy mạnh các hoạt động công kích, chống phá cách mạng Việt Nam. Chung lợi dụng thời điểm này để công kích, chống phá, xuyên tạc mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên XHCN ở Việt Nam. Lợi dụng thời điểm tổ chức Đảng từ Trung ương đến địa phương đang đại hội Đảng các cấp, các đối tượng này bắt đầu gia tăng các hoạt động tuyên truyền, chống phá.

Trong hoạt động tuyên truyền các luận điệu xuyên tạc nhằm phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN thì việc sử dụng không gian mạng xã hội là thủ đoạn phổ biến và có tính chất tinh vi nhất hiện nay. Thủ đoạn của thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị, phản động là xuyên tạc về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên CNXH ở nước ta, xuyên tạc kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhằm mục đích hướng lái cách mạng Việt Nam theo con đường tư bản chủ nghĩa; tác động, tiêm nhiễm tạo nhận thức lệch lạc, hoài nghi, tư tưởng hoang mang, dao động, từ đó suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.


          Nội dung chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động thông qua mạng xã hội rất đa dạng, trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội. Bởi vậy, mỗi  chúng ta cần nâng cao tinh thần cảnh giác trước các thông tin xuyên tạc, bôi nhọ, thông tin xấu, độc trên mạng xã hội. Phải luôn chủ động nâng cao kiến thức xã hội về mọi mặt, nhằm xây dựng cho mình nhận thức chính trị đúng đắn để xem xét, tiếp cận thông tin một cách khách quan, đầy đủ, chính xác từ những nguồn thông tin chính thống, tránh tiếp cận thông tin phiến diện, một chiều. Cảnh giác, sẵn sàng tham gia đấu tranh với những nhận thức không đúng, ngộ nhận, mơ hồ trước các nguồn thông tin sai trái, thù địch, trái với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân cần nâng cao ý thức cảnh giác và tăng cường đấu tranh tranh phản bác, làm thất bại âm mưu phản cách mạng nguy hiểm này.