Thứ Hai, 3 tháng 1, 2022

Vạch trần những thủ đoạn xuyên tạc sai sự thật về công cuộc phòng, chống đại dịch COVID-19 của Việt Nam

 

Vạch trần những thủ đoạn xuyên tạc sai sự thật về công cuộc phòng, chống đại dịch COVID-19 của Việt Nam


TCCS - Từ cuối năm 2019 đến nay, đại dịch COVID-19 diễn ra phức tạp, khó lường, tác động tiêu cực đến kinh tế thế giới, khu vực, trong đó có Việt Nam. Trong khi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang nỗ lực thực hiện toàn diện các biện pháp phòng, chống đại dịch, bước đầu đạt được kết quả quan trọng thì các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đẩy mạnh tung tin giả mạo, xuyên tạc tình hình, phủ nhận cách thức phòng, chống dịch bệnh COVID-19 ở Việt Nam, mưu toan gieo rắc tâm lý hoài nghi, gây bất ổn an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Do đó, cần phải vạch trần bản chất những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, góp phần củng cố sự đoàn kết, đồng lòng và quyết tâm đẩy lùi đại dịch COVID-19 của cả hệ thống chính trị và của toàn dân.

“Vi-rút tin giả” và cách nhìn sai lệch, xuyên tạc sự thật về tình hình phòng, chống dịch bệnh COVID-19 ở Việt Nam

Thời gian qua, đợt dịch COVID-19 thứ tư bùng phát ở Việt Nam, với sự xuất hiện biến chủng Delta của vi-rút SARS-CoV-2 có tốc độ lây nhiễm nhanh, diễn biến vô cùng phức tạp, khó kiểm soát. Trong bối cảnh đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tập trung mọi nguồn lực đẩy mạnh cuộc chiến phòng, chống dịch, vừa thực hiện giãn cách, cách ly, liên tục cải tiến phác đồ điều trị để giành giật từng mạng sống cho người bệnh, vừa bảo đảm sản xuất, cung ứng lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm đến từng người dân...

Lợi dụng thời điểm khó khăn này của chúng ta, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước lại ra sức đăng tải, phát tán tràn lan trên các phương tiện truyền thông xã hội, như blog, zalo, facebook... những thông tin có nội dung sai lệch, bịa đặt về tình hình dịch bệnh COVID-19 ở Việt Nam. Những kiểu thông tin này giống như một “biến chủng mới” của vi-rút độc hại - “vi-rút tin giả”. Tần suất, lưu lượng, cường độ những thông tin xấu, độc trên ngày càng gia tăng, kèm theo là những hình ảnh, clip không rõ nguồn gốc, được lắp ghép từ những sự kiện rời rạc, chỉnh sửa có chủ ý, mưu toan dựng lên bức tranh đen tối về một Việt Nam tang thương trong dịch bệnh COVID-19; trong đó, nổi lên một số thủ đoạn chủ yếu là:

Một là, tung tin giả mạo nhằm tạo ra những hỗn loạn trong cộng đồng, gây đảo lộn đời sống sinh hoạt của người dân. Vào thời điểm mà Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương trên cả nước triển khai thực hiện giãn cách xã hội theo các chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về phòng, chống dịch bệnh COVID-19, ngay lập tức xuất hiện các tin giả lan truyền về việc thị trường sẽ khan hiếm hàng hóa, giá cả sẽ tăng đột biến. Nhằm dẫn dụ niềm tin của công chúng, các đối tượng tung tin rằng đây là nguồn tin từ “nội bộ cơ quan nhà nước”. Thông tin thất thiệt này nhanh chóng được một số đối tượng khác chia sẻ, bình luận, lây lan trong cộng đồng nhằm gieo rắc tâm lý hoài nghi, tiêu cực, bức xúc, làm bất an lòng dân, bất ổn xã hội, nhất là tại các “điểm nóng” của dịch bệnh. Không chỉ xuyên tạc rằng “Việt Nam - cơn ác mộng mới chỉ bắt đầu”, các đối tượng này còn bịa đặt rằng “chính quyền sẽ bỏ mặc người dân”, “mạnh ai người ấy sống”(?!); từ đó kích động người dân không tin chính quyền, không chấp hành các quy định về giãn cách, cách ly, gây khó khăn cho công tác quản lý, kiểm soát tình hình, truy vết nguồn dịch. Đối với họ, tình hình càng rối thì càng dễ giở các chiêu trò chống phá. Tuy nhiên, thực tiễn đời sống xã hội, sự quyết tâm vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị nhằm bảo đảm sự vận hành của thị trường và hệ thống chuỗi cung ứng, bảo đảm hàng hóa, nhu yếu phẩm liên tục đến tận tay người tiêu dùng chính là những bằng chứng sinh động, thuyết phục, hoàn toàn khác với những gì mà các thế lực phản động tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá.

Hai là, chỉ trích, xuyên tạc công tác phòng, chống dịch bệnh COVID-19 của Đảng, Nhà nước ta là sai lầm, vi phạm quyền con người. Chỉ trong tháng 7 và tháng 8-2021, trên nhiều chuyên mục của đài, báo nước ngoài không có thiện chí với Việt Nam đã có hàng trăm bài viết; còn trên các trang mạng xã hội, số lượng này lớn hơn nhiều với nội dung cố tình bóp méo sự thật, khích bác về công tác phòng, chống dịch bệnh COVID-19 của Việt Nam. Đó là những luận điệu như “mùa dịch COVID-19 mà ngăn sông cấm chợ”, “chỉ biết ra lệnh phong tỏa, cách ly để mặc dân sống cơ hàn, vật lộn với khó khăn tận cùng” hoặc chỉ trích “chống dịch kiểu Việt Nam khiến dịch bệnh lây lan ngày càng nhiều” (?!). Thậm chí, họ còn đưa ra luận điệu vu vạ rằng “chính quyền bỏ mặc người dân”, “chỉ giỏi tuyên truyền sáo rỗng”, “cố tình che giấu sự thật” về dịch bệnh COVID-19. Họ còn quy chụp Chính phủ “bỏ rơi công dân Việt Nam ở nước ngoài”, “đóng cửa biên giới”, “bế quan tỏa cảng”, “ngăn cản công dân Việt Nam trở về Tổ quốc, quê hương”. Họ còn xuyên tạc và ra vẻ quan ngại rằng “đang có sự bất bình đẳng trong khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội và hỗ trợ của chính quyền” nhằm hạ bệ uy tín của Đảng, Nhà nước, phủ định quyết tâm của cả hệ thống chính trị trong việc vừa bảo vệ an toàn tuyệt đối tính mạng của nhân dân, vừa tập trung phát triển kinh tế; vu cáo Việt Nam “vi phạm nhân quyền, đẩy người dân vào cảnh thiếu đói cùng cực” trong điều hành chống dịch bệnh COVID-19 (?!). Từ đó, họ kích động nhân dân “bất tuân dân sự”, đi ngược lại các biện pháp phòng, chống dịch bệnh mà rộng hơn là chống lại các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta.

Ba là, đưa tin giả với mưu đồ chia rẽ vùng, miền, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đẩy mạnh thủ đoạn kích động, mưu toan gây mâu thuẫn, chia rẽ vùng, miền, nhằm làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Gần đây, các đối tượng này dựng chuyện, lấy cớ kêu gọi tẩy chay việc các bộ, ngành, địa phương trong cả nước huy động sức người, sức của, các y bác sĩ, tình nguyện viên vào giúp Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Nam chống dịch bệnh COVID-19. Họ cố tình gợi lại nỗi đau chia cắt hai miền của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh để phụ họa cho giọng điệu “hai miền không thể hòa một trong cuộc chiến chống dịch”. Nhiều đối tượng phản động, cơ hội chính trị đã mượn cớ này để hùa theo, cho rằng Đảng, Nhà nước “phân chia” và “ưu tiên” vùng, miền trong chống dịch. Thậm chí, họ cố tình suy diễn một cách vô căn cứ rằng, dịch bệnh ở Thành phố Hồ Chí Minh bùng phát mạnh là do khởi phát từ Bắc Ninh, Bắc Giang (nói chung là từ miền Bắc), nên họ kêu gọi “hãy tẩy chay Bắc kỳ”... Những luận điệu xuyên tạc đó không chỉ nhằm gây tâm lý chia rẽ vùng, miền mà còn khoét sâu thêm vào nỗi khó khăn, vất vả mà người dân Thành phố Hồ Chí Minh và đồng bào miền Nam đang phải dốc sức vượt qua trong cuộc chiến với dịch bệnh.

Bốn là, xuyên tạc chiến lược vắc-xin, chiến dịch tiêm chủng phòng, chống COVID-19 của Đảng, Nhà nước ta. Các đối tượng phản động, cơ hội tung tin sai sự thật rằng “chính quyền lừa dối nhân dân trong chiến dịch vắc-xin”, “Chính phủ lấy vắc-xin viện trợ của quốc tế để bán cho dân”, “Quốc hội đề nghị sớm ban hành luật tiêm vắc-xin để thu tiền” (?!)... Họ xuyên tạc trắng trợn chính sách phân bổ, cung cấp vắc-xin của Đảng, Nhà nước ta rằng Chính phủ chỉ ưu tiên tiêm vắc-xin ngừa COVID-19 cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, đảng viên và các đối tượng là “con ông, cháu cha” chứ không quan tâm đến sức khỏe người dân, nhất là người dân nghèo, người yếu thế trong xã hội (?!). Thậm chí, họ còn bịa đặt, vu cáo Chính phủ Việt Nam sử dụng quỹ vắc-xin không đúng mục đích; từ đó kêu gọi người dân, cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước rút tiền, ngừng việc quyên góp, ủng hộ vào Quỹ vắc-xin phòng, chống dịch bệnh COVID-19.

Như vậy, bản chất của âm mưu, thủ đoạn và chiêu trò chống phá tinh vi, xảo quyệt trên của các thế lực thù địch với mưu đồ gây nhiễu loạn thông tin, gieo rắc tâm lý lo âu, hoang mang, gây xáo trộn đời sống kinh tế - xã hội, nhằm làm suy giảm quyết tâm chính trị và sự đồng thuận chống dịch trong cộng đồng. Họ không chỉ dừng lại ở việc xuyên tạc tình hình, phủ nhận một cách vô căn cứ những biện pháp, kết quả của Việt Nam trong cuộc chiến chống đại dịch COVID-19 mà còn mưu toan tác động vào niềm tin của nhân dân, gây mất ổn định tình hình chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Không thể bóp méo sự thật, phủ nhận những biện pháp và kết quả phòng, chống đại dịch COVID-19 của Việt Nam

Bước vào cuộc chiến chống đại dịch COVID-19, Việt Nam không phải là quốc gia có tiềm lực kinh tế mạnh hay có trình độ y học phát triển cao, nhưng cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các địa phương đã đoàn kết, đồng lòng, quyết tâm vào cuộc. Các biện pháp, cách làm để phòng, chống dịch bệnh COVID-19 được Việt Nam thực hiện là chưa có tiền lệ, trên cơ sở tiếp thu những bài học của thế giới và đúc rút từ những lần chống dịch trước, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, bổ sung phù hợp với diễn biến thực tế để đạt hiệu quả cao nhất.
Cụ thể là:

Thứ nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả hệ thống chính trị đã vào cuộc với sự đoàn kết và quyết tâm chính trị cao nhất “chống dịch như chống giặc”. Đây được xác định là “nhiệm vụ chiến đấu trong thời bình”, là trọng tâm cấp bách hàng đầu, cả trước mắt và lâu dài, được triển khai thực hiện quyết liệt, hiệu quả, không chủ quan, lơi là, mất cảnh giác hay bằng lòng với kết quả đã đạt được. Trên cơ sở đó, phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi tổ chức, mọi lực lượng, khơi dậy mọi nguồn lực trong xã hội, đúng với phương châm “3 trước”, “4 tại chỗ”(1). Trung ương Đảng, Bộ Chính trị thường xuyên nắm chắc tình hình, kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội; ban hành các chỉ thị, thông báo, kết luận(2). Đây là định hướng chiến lược quan trọng, thể hiện tư duy sắc bén và tầm nhìn sáng suốt, toàn diện trước một nhiệm vụ mới nảy sinh với tính chất vô cùng khó khăn, phức tạp. Thực hiện chỉ đạo đó, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 30/2021/QH15, ngày 28-7-2021, đề ra một số giải pháp cấp bách phòng, chống đại dịch COVID-19. Chính phủ luôn bám sát thực tiễn, nắm chắc diễn biến, bất kể ngày đêm và trong nhiều tình huống khẩn cấp, kịp thời ban hành chỉ thị, nghị quyết, công điện(3), “thực hiện quyết liệt, đồng bộ, linh hoạt các nhiệm vụ, giải pháp phòng, chống dịch bệnh COVID-19 để thích ứng với tình hình; huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và sự tham gia tích cực của cộng đồng doanh nghiệp, nhân dân cả nước... từng bước kiểm soát tình hình dịch bệnh COVID-19, sớm đưa cuộc sống trở lại trạng thái “bình thường mới””(4). Chủ động phân công các đồng chí Phó Thủ tướng Chính phủ trực tiếp theo dõi, chỉ đạo, sâu sát cơ sở và chịu trách nhiệm về kết quả phòng, chống dịch ở những địa bàn trọng điểm. Các thành viên Ban Chỉ đạo quốc gia phòng, chống COVID-19 luôn có mặt chỉ đạo địa phương liên tục 24/24 giờ cho đến khi mọi việc được kiểm soát an toàn. Tất cả các cấp, các ngành, các địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội đã vào cuộc đồng bộ, quyết tâm cao nhất, đoàn kết, đồng lòng và hành động quyết liệt vì mục tiêu tối thượng là bảo vệ tính mạng, sự bình yên và hạnh phúc của nhân dân. Bất chấp mọi gian nguy, vất vả, hàng vạn y, bác sĩ, tình nguyện viên, cán bộ, chiến sĩ quân đội, công an, dân quân tự vệ luôn có mặt trên tuyến đầu chống dịch, ở tâm điểm của những nơi khó khăn nhất cùng chính quyền cơ sở trực tiếp tiến hành và hướng dẫn, động viên quần chúng phòng, chống dịch bệnh COVID-19, trở thành điểm tựa niềm tin, gắn kết chặt chẽ tình cảm quân - dân, khắc sâu hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, người chiến sĩ công an từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, vì nhân dân phục vụ. Với lẽ đó nên đại bộ phận người dân Việt Nam, dù ở trong nước hay học tập, lao động, công tác ở nước ngoài luôn một lòng ủng hộ và tuân thủ theo chủ trương, đường lối của Đảng, hành động theo sự điều hành và sự kêu gọi của Chính phủ vì sự bình yên, hạnh phúc của chính mình và mọi người. Thực tế đó đã củng cố vững chắc niềm tin cho dù trong bất kỳ tình huống nào, Đảng, Nhà nước luôn hành động vì lợi ích quốc gia - dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Vì vậy, mọi luận điệu xuyên tạc, bịa đặt dẫu có tinh vi đến đâu cũng đều bị chính những kết quả thực tiễn sinh động bác bỏ.

Thứ hai, triển khai thực hiện đồng bộ, nghiêm túc, triệt để các quy trình, biện pháp phòng, chống đại dịch COVID-19. Đó là các quy định, thông điệp 5K, sau đó phát triển thành 9K và vắc-xin(5). Để hạn chế thấp nhất sự lây nhiễm, các địa phương, cơ quan, đơn vị chủ động thực hiện tốt các biện pháp giãn cách, cách ly, phong tỏa nguồn dịch theo đúng nguyên tắc “ai ở đâu thì ở đó” và tinh thần “chủ trương một, tổ chức thực hiện mười” bảo đảm chặt chẽ, thực chất, không để xảy ra tình trạng giãn cách hình thức hoặc “chặt ngoài, lỏng trong”. Chỉ đạo thực hiện nghiêm phương châm “đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng người”, phát hiện, quản lý chắc, cách ly ngay những người có liên quan đến dịch tễ, phong tỏa ngay những nơi là “ổ dịch”. Tiến hành khoanh vùng, bảo vệ vững chắc “vùng xanh” (khu vực an toàn), có biện pháp từng bước chuyển “vùng cam” (khu vực có nguy cơ lây nhiễm cao) thành “vùng xanh” và khoanh chặt, thu hẹp “vùng đỏ” (khu vực phong tỏa, cách ly, có dịch). Nhanh chóng tổ chức xét nghiệm trên diện rộng, sàng lọc các đối tượng có nguy cơ lây nhiễm cao, truy vết và tách các ca bệnh ra khỏi cộng đồng; đồng thời, kiểm soát chặt chẽ không để lọt người có nguy cơ nhiễm vi-rút COVID-19 tiếp tục tiếp xúc, di chuyển làm lây lan dịch bệnh ra cộng đồng. Tổ chức các khu cách ly, khu phong tỏa chặt chẽ, khoa học, hợp lý, không để xảy ra lây nhiễm chéo. Trước những diễn biến mới của dịch bệnh COVID-19, tổ chức thực hiện quyết liệt hơn, hiệu quả hơn, đồng bộ hơn các giải pháp: Giãn cách xã hội là yếu tố quyết định; thần tốc xét nghiệm trên diện rộng là khâu then chốt; điều trị giảm tử vong là ưu tiên hàng đầu; bảo đảm an sinh xã hội là trọng yếu; vắc-xin, thuốc điều trị là chiến lược; giữ vững an ninh, trật tự, an toàn xã hội là quan trọng; lấy xã, phường, thị trấn là pháo đài, toàn dân là chiến sĩ chống dịch(6).

Với những biện pháp, cách làm đó, đã qua ba lần dịch bùng phát trước đây nhưng Việt Nam vẫn thực hiện được “mục tiêu kép” là vừa duy trì tăng trưởng kinh tế, vừa đẩy mạnh phòng, chống, kiểm soát dịch bệnh COVID-19, bảo vệ sức khỏe và bảo đảm cuộc sống của người dân. Với công dân Việt Nam ở nước ngoài, Chính phủ đã chủ động liên hệ, sắp xếp và tổ chức hàng trăm chuyến bay trợ giúp kiều bào rời khỏi vùng dịch về nước an toàn. Đánh giá về kết quả này, Trưởng đại diện Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tại Việt Nam, Tiến sĩ Ki-đông Pắc khẳng định: “Việt Nam đang đi đúng hướng trong việc quản lý các đợt dịch bùng phát hiện nay, đã xây dựng kế hoạch ứng phó quốc gia với đại dịch COVID-19 từ giai đoạn đầu, trong đó có các kịch bản khác nhau”(7). Còn cựu Đại sứ Pháp tại Việt Nam, ông Giăng Nô-en Poa-ri-ê, đề cao hiệu quả phòng, chống dịch bệnh COVID-19 của Việt Nam: “Có hai lý do, thứ nhất, chính sách phòng, chống dịch bệnh COVID-19 của Việt Nam rất xuất sắc và rất đúng; thứ hai, người dân Việt Nam đã thực hiện và đồng tình với các quy định của Nhà nước, của Chính phủ”(8).

Thứ ba, xây dựng chiến lược vắc-xin, thành lập Quỹ vắc-xin phòng COVID-19. Kết luận của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm tăng cường công tác phòng, chống đại dịch COVID-19 và phát triển kinh tế - xã hội đã khẳng định: “Đẩy nhanh việc mua và tổ chức tốt việc tiêm vắc-xin cho người dân, trong đó, tập trung cho các đối tượng ở tuyến đầu phòng, chống dịch, vùng có nguy cơ cao, người lao động trực tiếp sản xuất ở các khu công nghiệp; nghiên cứu, xem xét việc tiêm vắc-xin cho trẻ em. Sớm xây dựng, công khai chương trình, kế hoạch tiêm vắc-xin cho người dân nhằm đạt miễn dịch cộng đồng với lộ trình thời gian cụ thể”(9). Xác định vắc-xin là giải pháp chiến lược, căn bản, lâu dài nên dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh “chiến lược ngoại giao vắc-xin”, bằng mọi biện pháp thúc đẩy viện trợ, mua, nhập khẩu vắc-xin để đáp ứng yêu cầu tiêm chủng nhanh nhất, nhiều nhất có thể, tăng cường khả năng miễn dịch trong cộng đồng. Thực hiện chiến dịch tiêm vắc-xin COVID-19 miễn phí cho người dân cả nước theo quan điểm “vắc-xin tốt nhất là vắc-xin được tiêm sớm nhất”; phấn đấu đạt 75% dân số từ 18 đến 65 tuổi được tiêm vào đầu năm 2022. Việc phân bổ vắc-xin được Bộ Y tế tính toán hợp lý trên nguyên tắc công bằng, minh bạch giữa các địa phương, ưu tiên cho lực lượng chống dịch trên tuyến đầu và các địa phương có số lượng nhiều người nhiễm bệnh COVID-19, nhiều ca tử vong, tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp, lây lan nhanh, các đô thị lớn, đông dân cư, tập trung nhiều khu công nghiệp. Tất cả vắc-xin nhập khẩu về Việt Nam đều là các loại vắc-xin đã được WHO đưa vào danh sách được phép sử dụng, được Bộ Y tế kiểm duyệt, phê duyệt, cấp phép. Không chỉ vậy, Chính phủ Việt Nam tạo mọi điều kiện thuận lợi đẩy nhanh tiến độ nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, thử nghiệm lâm sàng, sản xuất vắc-xin, thuốc điều trị COVID-19 và trang thiết bị, vật tư y tế đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch bệnh nhanh nhất, sớm nhất, hiệu quả nhất. Tham khảo kinh nghiệm các nước, tham vấn chuyên môn với WHO, sáng tạo trong huy động tổng hợp, hiệu quả các nguồn lực để mua, nhận hỗ trợ vắc-xin nhằm sớm thực hiện mục tiêu miễn dịch cộng đồng.

Thứ tư, phòng, chống dịch bệnh COVID-19 với tinh thần bảo đảm tính mạng, sức khỏe của người dân là trên hết, trước hết. Trước những diễn biến vô cùng phức tạp của đợt bùng phát dịch bệnh COVID-19 lần thứ tư với số lượng ca nhiễm, ca tử vong tăng cao, Đảng, Chính phủ nhất quán tinh thần “lấy tính mạng, sức khỏe của người dân là trên hết, trước hết”(10), bằng mọi biện pháp không để đứt gãy chuỗi cung ứng lao động, lưu thông, vận chuyển hàng hóa, bảo đảm phân phối lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm, ổn định đời sống của người dân, đặc biệt là người dân ở những khu vực phong tỏa, cách ly, giãn cách. Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ, bảo đảm an sinh xã hội; thường xuyên rà soát, cập nhật, không bỏ sót đối tượng cần cứu trợ, không để ai bị thiếu đói, rơi vào cảnh “màn trời chiếu đất” hoặc tính mạng bị đe dọa. Chăm lo đời sống nhân dân, đặc biệt là người có công, gia đình chính sách, hộ nghèo, phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật, người yếu thế, người có hoàn cảnh khó khăn, người mất việc làm do dịch bệnh COVID-19 và lực lượng trên tuyến đầu chống dịch.

Ngày 1-7-2021, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 68/NĐ-CP “Về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch  COVID-19” với tổng số tiền hỗ trợ lên đến 26.000 tỷ đồng. Riêng Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã ban hành hai gói cứu trợ với giá trị gần 1.800 tỷ đồng. Trên thực tế các gói hỗ trợ này đã nhanh chóng đến tận tay người lao động, người yếu thế trong xã hội, giúp họ vượt qua khó khăn, thiếu thốn trong dịch bệnh. Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, hàng trăm nghìn túi hàng an sinh, gói thực phẩm cứu trợ được trao trực tiếp đến từng hộ gia đình; hàng chục nghìn tỷ đồng mà doanh nghiệp, người dân cả nước quyên góp đã được chuyển đến đúng người, đúng nơi. Hơn ai hết, nhân dân trong vùng dịch hiểu rằng chính quyền và cả hệ thống chính trị đang sát cánh, đồng hành và nỗ lực cùng với mình. Đồng bào, chiến sĩ cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài đang hướng về Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam với tất cả tình cảm chân thành, tinh thần tương thân, tương ái và sự góp sức, sẻ chia sâu sắc nhất để cùng chiến thắng dịch bệnh. Mục tiêu “không ai bị bỏ lại phía sau” là xuyên suốt, nhất quán, được Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị thực hiện triệt để, hiệu quả ngay từ khi đại dịch COVID-19 xuất hiện. Hơn thế, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, “lấy người dân là trung tâm phục vụ, là chủ thể phòng, chống dịch”, “chiến thắng dịch bệnh là chiến thắng của nhân dân”(11). Không chỉ trong thiên tai, thảm họa, dịch bệnh mà bất luận trong hoàn cảnh nào, người dân luôn được cấp ủy, chính quyền và các lực lượng chức năng bảo vệ, bảo đảm cả về tính mạng, tài sản và điều kiện sống.

Ngoài ra, Đảng, Nhà nước ta kiên quyết xử lý nghiêm những trường hợp đưa thông tin xuyên tạc, sai sự thật; trang bị “vắc-xin phòng ngừa vi-rút tin giả - 5K” cho công chúng (không tin - không bấm like - không cổ xúy bình luận - không kích động - không chia sẻ thông tin sai lệch). Ưu tiên ngân sách và các nguồn lực hợp pháp, bảo đảm kinh phí hợp lý, nhanh chóng thành lập hệ thống trung tâm chỉ huy ở các cấp để chỉ đạo tập trung, thống nhất, xây dựng cơ chế đặc thù, thuận lợi trong việc mua sắm vắc-xin, thuốc điều trị, hóa chất, trang thiết bị y tế phòng, chống dịch bệnh COVID-19.

Trong bối cảnh thế giới chưa có tiền lệ và không một quốc gia nào có thể khẳng định đã chiến thắng hoàn toàn đại dịch COVID-19; với Việt Nam, tiến hành đồng bộ, quyết liệt, linh hoạt, sáng tạo các giải pháp bằng sự đoàn kết, đồng lòng của cả hệ thống chính trị và của toàn dân là vũ khí mạnh nhất, hữu hiệu nhất để chiến thắng dịch bệnh COVID-19. Với những kết quả đã đạt được trong những lần chống dịch trước đây và những giải pháp quyết liệt, đồng bộ trong lần bùng phát dịch lần thứ tư này, chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào chiến thắng đại dịch COVID-19, như lời kêu gọi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Chúng ta đã cố gắng càng cố gắng hơn nữa; đã đoàn kết càng đoàn kết hơn nữa; đã quyết tâm càng quyết tâm cao hơn nữa; toàn dân tộc muôn người như một, đồng lòng cùng Đảng, Chính phủ, các cấp, các ngành tìm mọi cách quyết ngăn chặn, đẩy lùi bằng được, không để dịch lan rộng, bùng phát trong cộng đồng... nhất định chúng ta sẽ chiến thắng đại dịch COVID-19 và phải chiến thắng cho bằng được”(12). Do vậy, cho dù những chiêu trò chống phá cuộc chiến phòng, chống đại dịch COVID-19 của Việt Nam có thâm độc và tinh vi đến đâu thì sự thật vẫn luôn là ánh sáng phơi bày tường tận mọi ý đồ đen tối của các thế lực thù địch và tự nó phản bác đanh thép, đập tan mọi luận điệu xuyên tạc, sai trái, đồng thời xua tan những nghi ngờ, băn khoăn trong cộng đồng, củng cố vững chắc niềm tin và quyết tâm chiến thắng đại dịch./.

CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN VỚI CUỘC ĐẤU TRANH BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG HIỆN NAY!

      Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định: “Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta”, “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra còn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn”. Trên thực tế, hiện có rất nhiều tổ chức, đảng phái, hội nhóm phản động người Việt lưu vong và hàng chục cơ quan đặc biệt, các tổ chức nước ngoài, các kênh “truyền thông đen”, các trang web, blog, youtube và các trang mạng xã hội khác.vv có hoạt động chống phá Việt Nam. Chúng triệt để lợi dụng sự phát triển của internet, mạng xã hội nhằm tuyên truyền các quan điểm sai trái, thù địch, thông tin xấu độc, bịa đặt, thật giả lẫn lộn, hòng gây nhiễu loạn thông tin; gieo rắc tư tưởng hoài nghi, làm giảm sút lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trung bình mỗi ngày, chúng đăng tải hàng nghìn tin, bài có nội dung chống phá, tập trung vào những vấn đề nhạy cảm, quan trọng như: phủ nhận thành quả cách mạng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH); xuyên tạc sự lãnh đạo của Đảng, khơi gợi vấn đề lịch sử, quan hệ quốc tế phức tạp; thổi phồng những yếu kém, sai phạm trong điều hành, quản lý của Nhà nước…; tán phát, tung tin bịa đặt về “bí mật nội bộ”, “bí mật đời tư” của lãnh tụ, của lãnh đạo cao cấp để “bôi đen”, hạ uy tín, gieo rắc tâm lý hoài nghi, chán nản, bức xúc trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt là một số đảng viên lão thành và thanh niên, sinh viên. Nguy hiểm hơn, chúng còn cấu kết với các đối tượng cơ hội chính trị, phần tử thoái hóa, biến chất trong nội bộ để tạo thành thế “nội công, ngoại kích”, người tung, kẻ hứng với những chiêu bài hết sức tinh vi, làm cho một số người thiếu hiểu biết về tình hình, không được cung cấp đầy đủ thông tin, thiếu tinh thần cảnh giác, bản lĩnh chính trị kém vững vàng rất dễ tin, nghe và hùa theo.

 Trong cuộc đấu tranh này, cán bộ đảng viên luôn là đối tượng đầu tiên kẻ thù nhằm tới bởi chúng hiểu rằng vai trò, vị trí của đội ngũ cán bộ, đảng viên là rất quan trọng. Đảng viên là hạt nhân lãnh đạo, còn cán bộ là người tổ chức, quản lý và điều hành. Với những cán bộ chủ trì, chủ chốt các cấp thì vai trò, vị trí càng quan trọng hơn. Cán bộ đảng viên chính là đối tượng chủ yếu mà các thế lực thù địch, phản động muốn tha hóa, lôi kéo. Cán bộ đảng viên còn đang công tác, cán bộ đảng viên có chức vụ càng cao, với chúng càng có sức hấp dẫn, bởi đơn giản, nếu lôi kéo được, chuyển hóa được, dụ dỗ, móc nối, kích động được những đối tượng này, biến họ thành bất mãn, trở cờ, thành cái loa chuyên phát ngôn những lời lệch lạc, sai trái theo đúng kịch bản của chúng thì coi như âm mưu thủ đoạn chống phá của chúng đã hoàn thành. Nhận thức rõ được vấn đề này, trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng hiện nay, Đảng ta luôn đặt ra những yêu cầu rất cao đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22-10-2018 của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” xác định “nhiệm vụ cấp bách đặt ra cho mỗi tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên là phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, chủ động đấu tranh với âm mưu, hoạt động thâm độc của các thế lực thù địch, đối tượng xấu; quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là những quan điểm, luận điểm chỉ đạo mới về trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong công tác đấu tranh phòng, chống, phản bác các luận điểm sai trái, thù địch, để bảo đảm thực hiện thành công những mục tiêu đặt ra trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong giai đoạn mới”. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong bài phát biểu kết luận Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII cũng đã chỉ rõ “phải phát huy vai trò, trách nhiệm của tổ chức đảng, của mọi cán bộ, đảng viên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch”.

Thực tế hiện nay, như kết luận của Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII, vẫn còn “một số cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu chưa nhận diện đầy đủ mức độ suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” tại địa phương, cơ quan, đơn vị mình; chưa quyết tâm và có biện pháp chỉ đạo đủ mạnh, còn thụ động, trông chờ vào sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên; chưa thẳng thắn đấu tranh với những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, thậm chí còn cục bộ, lợi ích nhóm, bị cám dỗ bởi lợi ích vật chất, thờ ơ, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của nhân dân”

Để cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng được thực hiện tốt, giành được thắng lợi trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên:

Thứ Nhất, cán bộ, đảng viên phải là người tiên phong trong việc nghiên cứu, quán triệt các Chỉ thị, Nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Phải là người “hiểu trước, đi trước, làm trước”, nhận thức sâu sắc âm mưu, thủ đoạn chống phá của chúng, nhận rõ được sự cần thiết phải đấu tranh phòng, chống và nắm vững quan điểm lấy phòng là chính.


Thứ Hai, cán bộ, đảng viên phải là người gương mẫu, đầu tàu trong việc phòng, chống, cụ thể là gương mẫu trong tự giáo dục, tự quản, tự rèn và gương mẫu trong tự phê bình. Bản thân mỗi cán bộ, đảng viên phải giữ mình, quản lý được mình, tự kiểm tra, giám sát chặt chẽ để mình luôn trong sạch, không tham nhũng, không tiêu cực, thực hiện tốt quy định 37 về 19 điều đảng viên không được làm; đồng thời phải vận động gia đình, người thân làm tốt, không tạo cớ cho các thế lực thù địch chống phá, không “tự nạp thêm đạn cho chúng bắn”.


Thứ Ba, là người lãnh đạo, người quản lý, điều hành, trước những thông tin sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, bản thân anh phải nhận thức được, phải bản lĩnh, vững vàng, bình tĩnh suy xét, xem thông tin đang tán phát ấy có đúng không, tán phát nhằm mục đích gì?. Việc hiểu đúng bản chất của vấn đề, luôn kiên định, vững vàng của cán bộ đảng viên sẽ tạo niềm tin cho quần chúng nhân dân; nó sẽ là điểm tựa, là liều thuốc hóa giải sự hoang mang cho quần chúng, tạo sự miễn nhiễm cho quần chúng trước bất kỳ một luận điệu xuyên tạc, chống phá nào.


Thứ Tư, với các cấp ủy viên, các cán bộ chủ trì, chủ chốt các cấp, phải chủ động xác định chủ trương, biện pháp, xây dựng chương trình hành động và quyết liệt triển khai tổ chức thực hiện các nội dung về phòng, chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.


Thứ Năm, phải quy tụ, phát huy được sức mạnh tổng hợp, có thái độ nhất quán, triển khai quyết liệt, tổ chức thực hiện chặt chẽ, cụ thể, thiết thực và phải làm tốt từ cơ sở. Chống phá là bản chất, là thuộc tính vốn có của các thế lực thù địch, phản động. Tuy nhiên, chúng có chống phá được hay không phụ thuộc vào nhận thức, ý chí, bản lĩnh, tư cách, phẩm chất và năng lực của toàn đảng, toàn dân và toàn quân ta, trước hết là của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nếu mỗi chúng ta đều quán triệt sâu sắc, thực hiện được đúng những lời căn dặn “nhận thức phải chín, tư tưởng phải thông, quyết tâm phải lớn, phương pháp phải đúng” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại phiên bế mạc Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, chắc chắn phần chiến thắng trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng sẽ thuộc về chúng ta ./.

Yêu nước ST.

Phát huy hơn nữa vai trò là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cao cấp của quân đội ta

 

Phát huy hơn nữa vai trò là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cao cấp của quân đội ta


 - Chủ tịch nước khẳng định, một trong những vấn đề quan trọng là làm tốt công tác xây dựng Đảng trong quân đội; đào tạo, bồi dưỡng được đội ngũ cán bộ, sỹ quan Quân đội nhân dân Việt Nam có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, tầm nhìn chiến lược, năng lực lãnh đạo, chỉ huy nổi bật, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung và thực sự tiên phong, gương mẫu, đoàn kết.
Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc dự lễ kỷ niệm 45 năm Ngày truyền thống Học viện Quốc phòng  

Ngày 31/12, tại Hà Nội, Học viện Quốc phòng tổ chức Lễ đón nhận Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất và kỷ niệm 45 năm Ngày truyền thống (03-01-1977/03-01-2022). Đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước tới dự và phát biểu chỉ đạo.

Cùng dự có Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Quốc phòng; lãnh đạo một số bộ, ngành Trung ương, thành phố Hà Nội; đại diện các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng và các thế hệ cán bộ, giảng viên, học viên, công nhân viên, chiến sĩ trong Học viện qua các thời kỳ…

Thượng tướng, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trần Việt Khoa, Ủy viên Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Quốc phòng, đọc diễn văn, nêu rõ, ngày 3/1/1977, Học viện Quân sự Cao cấp (nay là Học viện Quốc phòng) tổ chức lễ khai giảng khóa học đầu tiên. Trải qua 45 năm xây dựng, phát triển và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước mà thường xuyên, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; sự quan tâm giúp đỡ của các cơ quan Đảng, Nhà nước, quân đội, các địa phương và nhân dân cả nước, các thế hệ cán bộ, giảng viên, học viện, nhân viên, chiến sĩ Học viện Quốc phòng luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, chủ động sáng tạo, nỗ lực khắc phục khó khăn, đoàn kết phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Từ ngày thành lập đến nay, Học viện đã đào tạo, bồi dưỡng hơn 400 lớp với 18 loại hình đào tạo và 53 đối tượng học viên. Hàng chục nghìn cán bộ cao cấp đã tốt nghiệp tại Học viện, trong đó có hơn 1000 đồng chí trở thành tướng lĩnh quân đội, hơn 500 đồng chí là Ủy viên Trung ương Đảng, nhiều đồng chí đã và đang đảm nhiệm những trọng trách cao cấp của Đảng, Nhà nước và quân đội. Học viện đã đào tạo được 913 thạc sỹ, 473 tiến sỹ, 187 phó giáo sư, 14 giáo sư khoa học quân sự; tổ chức 83 khóa bồi dưỡng kiến thức quốc phòng- an ninh cho hơn 5 nghìn cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước thuộc diện Trung ương quản lý. Học viện cũng đã hoàn thành 81 khóa đào tạo, bồi dưỡng cho hơn 700 cán bộ cao cấp của quân đội một số nước.

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại Lễ kỷ niệm 

Phát biểu ý kiến chỉ đạo tại buổi lễ, thay mặt Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân ủy Trung ương, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đánh giá, những năm gần đây, Học viện đã quán triệt và thực hiện tốt chủ trương của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng. Công tác đào tạo đã có nhiều chuyển biến tích cực, đi vào thực chất hơn, chất lượng ngày càng cao hơn, đặc biệt là không để dịch bệnh lây lan vào Học viện; hoạt động nghiên cứu khoa học được đẩy mạnh và đạt được nhiều kết quả quan trọng, công tác đối ngoại quốc phòng có bước phát triển mới.

Đề cập tình hình thế giới và khu vực và tác động của đại dịch COVID-19 và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Chủ tịch nước khẳng định, một trong những vấn đề quan trọng là làm tốt công tác xây dựng Đảng trong quân đội; đào tạo, bồi dưỡng được đội ngũ cán bộ, sỹ quan Quân đội nhân dân Việt Nam có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, tầm nhìn chiến lược, năng lực lãnh đạo, chỉ huy nổi bật, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung và thực sự tiên phong, gương mẫu, đoàn kết. Học viện Quốc phòng cần phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cao cấp của quân đội ta.

Trên tinh thần đó, Chủ tịch nước yêu cầu Học viện không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược của quân đội, công tác bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho cán bộ chủ chốt các cơ quan Trung ương và địa phương; góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ giỏi về quân sự, quốc phòng, có kiến thức toàn diện về các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại, thực sự là những nhà chiến lược có năng lực lãnh đạo, chỉ huy giỏi, xử lý đúng đắn, sáng tạo mọi tình huống thực tiễn công tác, chiến đấu.

Học viện cần tích cực đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy và học tập theo hướng nâng cao nhận thức lý luận cơ bản, gắn lý luận với thực tiễn đổi mới đất nước, chú trọng những vấn đề mới đặt ra, vừa bảo đảm cho nhiệm vụ trước mắt, vừa đáp ứng yêu cầu lâu dài; xây dựng Học viện thực sự là một "pháo đài" vững mạnh tiêu biểu về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, có sức lan toả lớn trong toàn quân với đội ngũ cán bộ giảng dạy, quản lý vững vàng về chính trị tư tưởng, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có kiến thức sâu rộng, trải nghiệm thực tiễn, có vốn sống phong phú ở tầm chiến dịch, chiến lược.

Đồng thời, Học viện cần tích cực nghiên cứu, nắm chắc tình hình, nâng cao khả năng dự báo chiến lược, chủ động tham mưu với Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng những vấn đề mới về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa và sẵn sàng đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược; chủ động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tiếp tục nghiên cứu, đề xuất các giải pháp đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch; về những vấn đề quốc phòng, an ninh phi truyền thống; nâng cao vị thế, sức mạnh của Việt Nam trên trường quốc tế.

Chủ tịch nước yêu cầu Học viện đẩy mạnh công tác nghiên cứu phát triển khoa học quân sự, quốc phòng, nghệ thuật quân sự và văn hóa quân sự Việt Nam; bổ sung, điều chỉnh cách đánh mới khi địch sử dụng vũ khí công nghệ cao và các loại hình tác chiến mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của quân đội trong tình hình mới. Học viện cần có cơ chế phù hợp huy động các nhà khoa học trong và ngoài quân đội tham gia nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn về quân sự, quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc. Cùng với đó, Học viện cần mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, tiếp tục hoàn thành tốt nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quân sự cao cấp cho hai nước bạn Lào và Campuchia, mở các lớp đào tạo quan chức quốc phòng đa quốc gia.

Chủ tịch nước tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, mà thường xuyên, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Học viện Quốc phòng sẽ ngày càng lớn mạnh, lập được nhiều thành tích to lớn hơn nữa trong sự nghiệp giáo dục - đào tạo, góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.


Phê phán luận điệu phủ nhận “không có thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội”

 

Phê phán luận điệu phủ nhận “không có thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội”

Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch lợi dụng sự kiện này để công kích, xuyên tạc Chủ nghĩa Mác-Lênin, bài bác những luận điểm cơ bản nhất về thời đại.

Luận điệu sai trái về thời đại ngày nay

Nhận thức rõ đặc điểm và xu hướng phát triển của thời đại cũng như cục diện và tình hình thế giới là một việc rất cần thiết. Hiểu biết sâu sắc về thời đại giúp ta tìm thấy xu hướng tất yếu trong vô vàn những hiện tượng phức tạp, mang tính ngẫu nhiên của đời sống xã hội, giúp ta nhìn xa trông rộng, nắm bắt khuynh hướng và quy luật phát triển của nhân loại để vừa có thể lựa chọn được hướng đi phù hợp với sự phát triển của lịch sử; lường trước được những thách thức phức tạp, tránh được những vấp váp sai lệch trên đường đi; từ đó sẽ không bị chao đảo hoặc bị cuốn trôi trước phong ba bão táp của thời cuộc và đời sống chính trị quốc tế.

V.I.Lenin từng chỉ rõ: Khi phân tích bất cứ vấn đề xã hội nào, phải đặt trong bối cảnh lịch sử nhất định, vì chỉ có dựa trên cơ sở hiểu biết những đặc điểm cơ bản của một thời đại, người ta mới có thể tính đến những đặc điểm chi tiết của nước này hay nước khác. Nói cách khác, vấn đề thời đại là căn cứ khách quan và tiền đề cần thiết để các chính đảng đi theo Chủ nghĩa Mác phân tích tình hình, xác định nhiệm vụ, phân chia trận tuyến, xây dựng chiến lược, hoạch định chính sách, triển khai thực hiện một cách khoa học.

Chính vì lẽ đó, khi bàn về những vấn đề lớn của cách mạng, trước đây cũng như hiện nay, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta bao giờ cũng bắt đầu bằng việc phân tích đặc điểm, nội dung, xu thế phát triển của thời đại và nhận định các mặt của tình hình thế giới để xác định đúng con đường đi của cách mạng Việt Nam và đề ra đường lối đối nội, đối ngoại đúng đắn, sáng tạo.

Phê phán luận điệu phủ nhận “không có thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội”
Ảnh minh họa. Nguồn: bantuyengiao.vn 

Cả trên phương diện lý luận và thực tiễn là như vậy, nhưng hiện nay, một số luận điệu sai trái cho rằng: Thật không tưởng khi nói thời đại ngày nay là quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vì vậy, từ Đại hội XIII trở đi, không nên nói đến chủ nghĩa xã hội nữa. Cụ thể hơn, họ cho rằng làm gì có thời đại quá độ; nội hàm, đặc điểm, xu thế của thời đại là sự mơ hồ; hai nội dung cốt yếu của thời đại đã bị lịch sử phủ định. Bởi thế, khi không còn Liên Xô và hệ thống XHCN nữa thì Việt Nam làm sao có thể đi lên chủ nghĩa xã hội được.

Đây là luận điệu sai trái cần phải phê phán, vì những lý do cơ bản sau:

Thời đại mới do Cách mạng Tháng Mười Nga khai sáng

Theo nghĩa chung nhất, thời đại lịch sử được hiểu là toàn bộ thời kỳ phát triển của một hình thái kinh tế-xã hội hoặc những giai đoạn chủ yếu trong hình thái ấy.

Tuyên bố tại Hội nghị đại biểu các đảng cộng sản và công nhân các nước XHCN tháng 11-1957 tại Moscow (Liên Xô) đã khẳng định: “Nội dung cơ bản của thời đại chúng ta là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười vĩ đại ở nước Nga”.

Thực tế cho thấy, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi và nhà nước XHCN đầu tiên ra đời năm 1917 đã đánh dấu chấm hết thời đại độc tôn của chủ nghĩa tư bản, mở ra thời đại mới, thời đại của sự quá độ lớn lao nhất trong lịch sử loài người, tiến tới một xã hội hiện thực không còn người bóc lột người, không còn nô dịch giữa người và người. Chế độ XHCN non trẻ đã vượt qua hàng loạt thử thách khắc nghiệt nhất của lịch sử, hiện diện cả ở châu Âu, châu Á, châu Mỹ, phát triển mạnh mẽ với nhiều ưu việt về chính trị, kinh tế, xã hội.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định nhận thức rõ bản chất, nội dung của thời đại cũng như cục diện và tình hình thế giới là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Trong khi khẳng định thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta nhận rõ tình hình phức tạp, quanh co và rất lâu dài của quá trình chuyển biến xã hội nên đã hướng vào đánh giá trực tiếp những động thái, đặc trưng, xu hướng và tính chất trong giai đoạn hiện nay của thời đại.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng năm 1991 đã nêu rõ: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc gay go, phức tạp của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”.

Tiếp đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với các chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”.

Thế giới có nhiều biến động nhưng khuynh hướng phát triển thời đại không thay đổi

Xem xét trên cơ sở lý luận và thực tiễn lịch sử xã hội loài người đều cho thấy, mỗi bước chuyển từ một hình thái kinh tế-xã hội này đến hình thái cao hơn đều diễn biến trong thời gian rất dài, có khi vài trăm năm hoặc vài nghìn năm. Vậy nên việc Đảng ta phân định giai đoạn hiện nay của thời đại “quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới” là tư duy sáng tạo, có tính khoa học xác thực và cần thiết. Theo đó, việc nghiên cứu đặc điểm và xu hướng phát triển của thời đại cũng được thực hiện trong khung khổ giai đoạn hiện nay của thời đại.

Khi đã xác định thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mở đầu bằng Cách mạng XHCN Tháng Mười vĩ đại ở nước Nga, thì rõ ràng nội dung của thời đại ngày nay có hai vấn đề chính: Một là, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; hai là, mở đầu bằng Cách mạng XHCN Tháng Mười vĩ đại ở nước Nga. Nhận định về nội dung thời đại như vậy là sự khái quát mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc, đầy tính thuyết phục.

Tuy nhiên, sau khi chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch lợi dụng sự kiện này để công kích, xuyên tạc Chủ nghĩa Mác-Lênin, bài bác những luận điểm cơ bản nhất về thời đại. Lập luận của luận điệu sai trái là, nếu nói thời đại hiện nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội thì nay chủ nghĩa xã hội sụp đổ rồi, thời đại này đương nhiên là của chủ nghĩa tư bản; rằng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản đã tàn lụi thì dù có trăm năm sau cũng không thể gượng dậy được nữa.

Cách nhìn nhận như vậy rõ ràng là thiếu kiến thức lịch sử và thiển cận. Quá trình chuyển biến và thay thế một thời đại này bằng thời đại khác không thể diễn ra nhanh chóng được mà phải qua một chặng đường dài. Quá trình đó là một xu thế tất yếu của xã hội loài người, nhưng diễn ra quanh co, phức tạp, chứa đựng nhiều biến cố, có cả bước tiến mạnh mẽ và cũng có cả những bước thụt lùi.

Sự đổ vỡ của XHCN ở Đông Âu và Liên Xô đương nhiên là tổn thất nặng nề đối với phong trào cộng sản. Sự sụp đổ ấy có nhiều nguyên nhân, nhưng nó không thuộc về bản chất của chế độ XHCN, càng không phải vì thế mà làm mất đi nội dung thời đại. Lịch sử đã cho thấy thời đại tư bản chủ nghĩa thay thế thời đại phong kiến đâu phải dễ dàng.

Quá trình chuyển biến đó diễn ra hàng mấy trăm năm, trải qua biết bao phức tạp bởi sự chống trả quyết liệt của các thế lực phong kiến. Tình hình hiện nay cũng tương tự như vậy. Thế lực đế quốc không từ một thủ đoạn nào để mưu toan chặn đứng phong trào cộng sản. Điều đó càng thể hiện tính chất phức tạp của thời đại ngày nay.

Kẻ thù tư tưởng của chúng ta công khai tuyên bố rằng, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã sụp đổ thì giá trị của Cách mạng Tháng Mười Nga cũng chấm hết. Đây là kết luận vội vã và hồ đồ. Đành rằng thành quả mà Cách mạng Tháng Mười Nga đem lại đã bị đổ vỡ tại ngay quê hương của nó, nhưng đó không phải là sự chấm dứt lý tưởng cao đẹp của Cách mạng Tháng Mười Nga.

Vả chăng, lịch sử đã chứng minh, không có một cuộc cách mạng nào, kể cả các cuộc cách mạng vĩ đại nhất, lại đủ khả năng kết thúc ngay công việc xóa bỏ xã hội cũ và xây dựng xong ngay xã hội mới. Quá trình chuyển từ xã hội phong kiến lên xã hội tư bản chủ nghĩa đã phải trải qua hàng trăm năm với nhiều cuộc cách mạng tư sản: Cách mạng Anh năm 1688, các cuộc cách mạng tư sản Pháp vào các năm 1830, 1848, 1871.

Sự đột phá của Cách mạng Tháng Mười Nga làm cho chủ nghĩa tư bản bị đổ vỡ một mảng lớn. Thế giới bừng tỉnh, bung ra với sức mạnh mới của sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội làm sụp đổ hoàn toàn hệ thống thuộc địa, giải phóng xã hội, giải phóng con người.

Thành quả của Cách mạng Tháng Mười Nga đã tạo cho loài người có khả năng kìm giữ sự lộng hành của chủ nghĩa tư bản, làm thay đổi cả những yếu tố bên trong của chủ nghĩa tư bản. Những thay đổi trong chiến lược kinh tế, chính trị để thích nghi, những thay đổi trong các chính sách phúc lợi xã hội ở các nước tư bản phát triển hiện nay đều bắt nguồn từ kết quả của xã hội đấu tranh của những người lao động và sâu xa hơn là được ảnh hưởng những yếu tố tích cực của Cách mạng Tháng Mười Nga.

Từ những phân tích trên đây, chúng ta càng thống nhất với nhận định của Đảng ta rằng, tình hình cụ thể trong từng thời kỳ của thế giới có những biến động nhưng điều đó không làm thay đổi nội dung của thời đại; loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn, nội dung và hình thức biểu hiện có nhiều nét mới.

Chặng đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội tuy không còn có sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước XHCN như trước nhưng trong giai đoạn mới của thời đại, khi cách mạng khoa học-công nghệ và toàn cầu hóa đời sống thế giới, tất cả các nước đều ở trong mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, không một nước nào sống biệt lập mà có thể phát triển được.

Sự hợp tác kinh tế với các nước bằng nhiều hình thức sinh động trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau dưới bất kỳ hình thức nào, sẽ tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý, phục vụ cho việc phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó cũng là một khả năng thực tế mà chúng ta đã và đang cố gắng tận dụng, đưa nước ta hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.

Như vậy, từ một nước kinh tế kém phát triển, nếu chúng ta biết tranh thủ những thời cơ, thuận lợi và biết vượt qua những thách thức, nguy cơ, chúng ta có thể “phát triển rút ngắn” lên XHCN bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa theo quan điểm của V.I.Lenin-người đã có đóng góp to lớn vào lý luận về sự “phát triển rút ngắn” và Chính sách kinh tế mới (NEP). Nó đã được thực tiễn khảo nghiệm mà ngày nay Đảng ta đang vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng nước ta.

Xuất phát từ tình hình như thế, chúng ta có thể tin tưởng vững chắc rằng Việt Nam đang trong tư thế vươn tầm, kiên định con đường đã lựa chọn, đã có đủ sức lực và trí tuệ để tiến bước cùng thế giới, tiến cùng thời đại; phấn đấu hiện thực hóa mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

NGƯỜI PHÁP, NGƯỜI MỸ VIẾT VỀ BÁC HỒ CHÚNG TA!

      Tuần báo "ĐÂY PARIS" số ra 18-6-1946:

"Chủ tịch nước Việt Nam là một người quá đỗi giản dị, Quanh năm chỉ bộ quần áo kaki giản dị! Khi những người cộng tác xung quanh nhắc Ông: 'với địa vị Ông, nên quan tâm mặc bộ trang trọng hơn!' Ông chỉ mỉm cười trả lời: "Chúng ta thì tưởng rằng chúng ta được quý trọng vì có áo đẹp mặc, trong khi bao nhiêu đồng bào thân trần, đang rét run ngay trong thành phố và các vùng quê...".

Sự giản dị đến cực độ như một nhà ẩn sĩ thế đó là một trong những đức tính rõ rệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Một tuần lễ Ông nhịn ăn một bữa, không phải hành tự xác mình.. mà để nêu gương dè xẻn gạo cho đồng bào, mong mọi người cùng làm để góp phần giảm bớt nạn đói trong nước. Và hết thảy mọi người xung quanh đều bắt chước làm theo hành động đó của Ông...

Tính giản dị, gần gũi qua những bài diễn văn: Không bao giờ Ông tỏ ra thông thái, dù Ông thông thạo bảy thứ tiếng khác nhau và nói được rất nhiều tiếng thổ âm.. Ông chỉ dùng những câu từ nôm na, thường dùng sao cho một người dù quê mùa chất phác nghe cũng hiểu ngay được...

Tất cả đức tính Hồ Chí Minh luôn thể hiện trong từng hành động tưởng chừng như bé nhỏ đó... Chủ tịch Hồ Chí Minh rất ghét lối nói khoa trương, văn vẻ. Mỗi bài diễn văn của Ông là một bài học nhỏ về đạo đức. chính những ý tưởng hết sức giản đơn ấy mà từng bài diễn văn của Ông là tiếng vang lớn trong giới trí thức và dân chúng."


*****

Sau khi Bác đã mất, năm 1971 nhà báo, nhà văn Mỹ (Đâyvít Hanbơcstơn) trong ấn phẩm “HỒ”- NXB 'Răngđôm Haosơ - Niu Yoóc" đã viết:

"Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật kỳ lạ của thời đại này, hơi giống Găngđi, hơi giống Lênin, nhưng hoàn toàn Việt Nam. Hơn tất cả, đối với dân tộc của Ông, và cả thế giới Ông là hiện thân của một cuộc cách mạng.

Thế nhưng, với hầu hết người dân Việt Nam, Ông là biểu tượng của cuộc sống, hy vọng, đấu tranh, hy sinh và thắng lợi của họ.

Ông là một người Việt Nam lịch sự, khiêm tốn, nói năng hòa nhã, không màng địa vị, luôn luôn ăn mặc đơn giản nhất - cách ăn mặc không khác mấy so với người nông dân nghèo nhất - là phong cách mà phương Tây đã chế giễu Ông thiếu nghi thức quyền lực, không có đồng phục, không biết thời trang. Cho đến một ngày họ mới tỉnh ngộ và ngộ ra chính cái giản dị ấy, cái khả năng hòa mình vào nhân dân ấy là cơ sở tiên quyết cho sự thành công của Ông...

Tính giản dị của Ông Hồ là một sức mạnh. Địa vị càng cao sang, Ông càng giản dị và trong sạch. Hình như ông luôn luôn giữ được những giá trị vĩnh cửu của Việt Nam: kính già, yêu trẻ, ghét tiền của. Ông Hồ không tìm kiếm cho mình những cái trang sức quyền lực vì Ông tự tin ở mình và ở mối quan hệ của mình với nhân dân, với lịch sử... Việc Ông luôn từ chối sự sùng bái cá nhân, sùng bái lãnh tụ là đặc biệt đáng chú ý trong một xã hội kém phát triển…"./.

Yêu nước ST.

TÍN HIỆU VỀ NGÀY TÀN CỦA “GIỚI RẬN CHỦ”!

         Năm 2021 đã qua đi và đối với "đám rận chủ" quốc nội thì đây đúng là một năm đầy “ác mộng” khi hàng loạt số đối tượng cầm đầu, cốt cán trong làng rận chủ quốc nội “được nhập kho”. Nhưng có lẽ kẻ xót xa nhất chính là các tổ chức thù địch chống phá Việt Nam ở nước ngoài, họ lần lượt chứng kiến đám “con cưng” do mình dày công “gây dựng”, đào tạo xa vào vòng lao lý mà “bất lực” không thể làm gì để thay đổi tình thế ngoài việc giở chiêu trò cũ rích, đeo bám phía “quốc mẫu” để cầu xin sự can thiệp, gây sức ép với Việt Nam đòi thả tự do cho số đối tượng đã bị bắt, xử lý hình sự. Nhưng như vậy càng cho thấy ngày tàn của những kẻ hành nghề “dân chủ” cũng sắp đến.


        Tuy nhiên, chúng ta không được chủ quan, mất cảnh giác, vì thủ đoạn của đám kền kền rất tinh vi và xảo trá khi phủ nhận sạch trơn mọi tội lỗi cho đám đồng đảng. Trong khi căn cứ vào kết luận và bằng chứng của các cơ quan chức năng, thì tội trạng của các đối tượng là rất rõ ràng. Thế nhưng, để bẻ lái vụ án, đám kền kền lại không ngần ngại thể hiện sự “mặt dày” của mình mà vu vạ mọi tội lỗi cho chính quyền. Chẳng hạn, mới đây, sau khi Toà tuyên án cho các đối tượng Đỗ Nam Trung, Phạm Đoan Trang, Trịnh Bá Phương và Nguyễn Thị Tâm, những tổ chức chống phá và “đồng đảng” lại ca ngợi số đối tượng này như những “anh hùng dân chủ”. Nực cười hơn khi họ rêu rao “nếu Việt Nam có dân chủ thì những người như Trang, Phương, Tâm, Trung đã có vị thế khác”?! Ngoài ra, họ còn đưa ra cái gọi là các bản báo cáo, bản phúc trình, thông cáo. Thậm chí, là tung ra yêu sách đòi Việt Nam phải trả tự do vô điều kiện cho các đối tượng phạm tội. Và dĩ nhiên, đi liền với đó là việc kêu gọi các thế lực bên ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

        Nhưng nói đi thì cũng nói lại, đây chẳng qua là sự cứu cánh, những động thái cuối cùng mà đám kền kền ở bên ngoài thể hiện để vớt vát chút danh dự cho các đối tượng cũng như để “lợi dụng” họ nhằm tiếp diễn các hoạt động chống phá trên lĩnh vực “dân chủ, nhân quyền” mà thôi. Và hơn nữa, họ làm vậy chẳng qua cũng để nuôi hy vọng sẽ tiếp tục lợi dụng được các đối tượng trên sau khi mãn hạn tù. Vì chúng ta đều thấy rõ một thực tế ở Việt Nam có khoảng 98 triệu dân thì giới “dân chủ” chỉ lác đác vài người, quanh đi quẩn lại cũng chỉ có một vài “gương mặt thân quen”. Cho nên, sau khi số đối tượng như Phạm Đoan Trang, mẹ con Cấn Thị Thêu bị kết án, giới “dân chủ” suy yếu rất nhiều, trong khi đó, số đối tượng cốt cán khác thì đã được “xuất khẩu” ra nước ngoài, và tất nhiên khi ở nơi trời Âu thì họ cũng chẳng thể hiện được vai trò gì và cũng dần bị quên lãng. Chính vì vậy, các đối tượng “dân chủ” ra sức bám víu ở lại Việt Nam, thậm chí, trước khi vào tù, chúng cũng cố tình biến phiên xét xử trở thành một “sàn diễn” về cái gọi là “lý tưởng dân chủ, nhân quyền”. Đây như một cách “kéo dài hơi tàn” nhằm tranh thủ sự chú ý từ các thế lực bên ngoài./.

Yêu nước ST.

BÀ HENRIETTE BÙI - NỮ BÁC SĨ ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM: THÔNG THẠO 7 THỨ TIẾNG, TÀI GIỎI ĐẾN MỨC GÂY CHẤN ĐỘNG MỘT THỜI

     Bà Henriette Bùi biết đến 7 ngoại ngữ, bao gồm: Tiếng Pháp, tiếng Trung, tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ý, tiếng La Tinh và tiếng Hy Lạp.

Bà Henriette Bùi Quang Chiêu sinh ngày 8/9/1906 tại Hà Nội và lớn lên ở Sài Gòn. Bà xuất thân trong một gia đình tri thức và giàu có nức tiếng thời bấy giờ. Điều khiến bà được người đời nhớ tới là bởi, bà chính là nữ bác sĩ đầu tiên ở Việt Nam. Tài năng, năng lực học tập của nữ bác sĩ này từng gây chấn động một thời...


Thông thạo đến 7 thứ tiếng, tốt nghiệp trường Y với luận án xuất sắc

Ngay từ nhỏ, bà Henriette Bùi Quang Chiêu đã được ăn học đầy đủ. Bà cũng rất sáng dạ và luôn có thành tích học tập xuất sắc. Thưở nhỏ, bà Henriette Bùi Quang Chiêu theo học tại Trường Saint Paul de Chartres (trường Nhà Trắng) tại Sài Gòn. Năm 1915, bà thi vượt cấp và nhận bằng Certificat d'Études sớm 2 năm, rồi vào học trường Collège des Jeunes Filles, tức Trường Trung học Gia Long, trường Áo Tím sau này, mà nay là Trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai thuộc quận 3, TP.HCM.

Năm 15 tuổi, Henriette Bùi Quang Chiêu được đưa sang Pháp du học tại Trường Lycée Fenelon ở Paris vào năm 1926. Năm 1927, bà vào học Y tại ĐH Y khoa Paris. Thời điểm ấy, việc phụ nữ học lên đại học đã ít, huống chi còn là ĐH Y, và còn là một nữ sinh người Việt. Chính vì vậy mà sự kiện này gây chấn động thời đó. Sự có mặt một phụ nữ Việt tại một trường đại học danh tiếng của Pháp cũng là bước đột phá trong hệ thống giáo dục của nước này.

Sau 7 năm miệt mài học tập, bà Henriette Bùi Quang Chiêu tốt nghiệp trường Y với luận án đạt loại xuất sắc vào năm 1934. Bản luận án thậm chí còn được Hội đồng giám khảo khen ngợi và tặng thưởng huy chương. Từ đây, Henriette chính thức bắt đầu con đường hành nghề y, trở thành nữ bác sĩ khoa sản đầu tiên của Việt Nam.

Một điều ấn tượng nữa, đó là bà Henriette Bùi Quang Chiêu biết đến 7 ngoại ngữ, bao gồm: Tiếng Pháp, tiếng Trung, tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ý, tiếng La Tinh và tiếng Hy Lạp.


Chọn cứu người, thay vì hạnh phúc riêng tư

Năm 1935, bà Henriette về nước lấy chồng theo lệnh của cha mẹ. Chồng bà là ông Vương Quang Nhường, Tiến sĩ Luật khoa đầu tiên của Việt Nam. Thời điểm về nước, bà Henriette nhậm chức Trưởng khoa Hộ sinh cho một bệnh viện sản ở Chợ Lớn, và là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên có trách nhiệm chăm lo hệ thống bệnh viện thuộc địa thời ấy.

Cuộc hôn nhân của bà và ông Nhường chỉ kéo dài được 2 năm vì bà Henriette rất bận rộn công việc, thường xuyên phải ra khỏi nhà vào đêm hôm để đi cứu người. Sau đổ vỡ, bà tái giá với kỹ sư, đồng thời là bác sĩ Nguyễn Ngọc Bích. Ông Bích từng tốt nghiệp kỹ sư cầu cống từ trường nổi tiếng bậc nhất xứ Pháp “École Polytechnique,” vốn chỉ dành riêng cho sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp và thế giới thời ấy.

Được biết thời điểm làm việc tại bệnh viện sản ở Chợ Lớn, bà Henriette thường xuyên đấu tranh trực diện với cấp trên để yêu cầu những quyền lợi chính đáng cho y bác sĩ Việt, cho bệnh nhân người Việt, trước sự bất công, thiên vị dành cho bác sĩ, bệnh nhân người Pháp.


Trong suốt 44 năm theo nghề y, bà Henriette từng làm việc cả ở Việt Nam và Pháp

Năm 1957, bà từng sang Nhật học thêm châm cứu để áp dụng trong ngành sản khoa. Năm 1961, bà sang Pháp sinh sống và mở phòng mạch riêng.

Năm 1970, bà Henriette về nước, tình nguyện phục vụ không lương trong ngành hộ sản và nhi khoa tại Bệnh viện Phú Thọ. Năm 1971, bà lại sang lại Pháp tiếp tục làm nghề y đến năm 1976 và mất vào ngày 27/4/2012 tại Paris, thọ 106 tuổi.

Được biết, bà Henriette còn hiến tặng biệt thự tư gia của bà ở số 28 đường Testard làm cơ sở cho Trường ĐH Y khoa Sài Gòn thuộc Viện Đại học Sài Gòn. Hiện nay, nơi này là địa điểm thuộc Bảo tàng Chứng tích chiến tranh ở đường Võ Văn Tần, TP.HCM./.

Yêu nước ST.

CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY TẾT MẬU THÂN 1968 TRONG TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM!

     Cách đây hơn nửa thế kỷ, đúng vào dịp Tết Mậu Thân 1968, hưởng ứng lời hiệu triệu của Bộ Thống soái tối cao, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, toàn quân và toàn dân ta ở miền Nam đã mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt đánh vào hầu hết các thành phố, đặc biệt là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, các thị xã, thị trấn, chi khu, quận lỵ, sân bay và căn cứ hậu cần của quân Mỹ và quân đội Sài Gòn trên toàn chiến trường miền Nam.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã gây ra cho đế quốc Mỹ một đòn "choáng váng đột ngột", làm đảo lộn thế bố trí, phá vỡ kế hoạch tác chiến dự định của chúng; làm rung chuyển không những toàn bộ chiến trường miền Nam Việt Nam mà còn làm rung chuyển cả Lầu Năm Góc cũng như toàn nước Mỹ. Với ý nghĩa to lớn đó, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một sự kiện lịch sử quan trọng và để lại dấu ấn sâu đậm trong tiến trình lịch sử Việt Nam hiện đại.

Kể từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (2-9-1945) cho đến trước sự kiện Tết Mậu Thân 1968, nhân dân Việt Nam đã tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược với tinh thần anh dũng, kiên cường, lập nhiều chiến công xuất sắc, từng bước đánh bại mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù. Đặc biệt, trong 10 năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1964), bằng đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo, nhân dân Việt Nam từng bước đẩy đế quốc Mỹ vào thế bị động, không còn giữ được ưu thế trên chiến trường miền Nam.

Đầu năm 1965, chiến lược "chiến tranh đặc biệt" bị phá sản, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ", ồ ạt đưa quân Mỹ vào tham chiến ở quy mô lớn ở miền Nam, đồng thời đẩy mạnh chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc. Tham vọng của đế quốc Mỹ trong chiến lược "chiến tranh cục bộ" là đánh bại cách mạng miền Nam trong vòng từ 25 đến 30 tháng, với kế hoạch ba giai đoạn, hai cuộc phản công chiến lược, mà giai đoạn ba dự tính là hoàn thành việc tiêu diệt khối chủ lực của ta, tiếp tục bình định miền Nam, rút quân Mỹ và quân đồng minh của Mỹ về nước vào cuối năm 1967. Đứng trước tình thế đó, Đảng ta khẳng định: "Với việc thay đổi chiến lược chiến tranh như trên của đế quốc Mỹ, cách mạng và cuộc kháng chiến của nhân dân ta đứng trước một tình thế hiểm nghèo. Đảng ta, nhân dân ta sẽ đối phó với thách thức ấy như thế nào? Trên chiến trường, cách đánh với quân Mỹ sẽ ra sao? Có tiếp tục đấu tranh chính trị được nữa hay không? Vận mệnh của dân tộc, chiều hướng phát triển của sự nghiệp cách mạng nước ta và trên một mức độ nào đó của cả phong trào cách mạng thế giới, phụ thuộc vào câu trả lời về cách thức chúng ta xử trí tình huống chiến lược hệ trọng này"(1).

Trước sự thay đổi nhanh chóng của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược, Đảng Lao động Việt Nam đã đánh giá tình hình chiến lược mới một cách bình tĩnh và sáng suốt, tạo nên sự nhất trí cao trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, cả nước một lòng thực hiện Lời kêu gọi vang dậy núi sông của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu: "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn"(2). Theo đó, với khí thế quyết chiến, quyết thắng, quân dân ta đã đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 của địch ở miền Nam, đánh bại một bước chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc, tạo đà cho cách mạng Việt Nam tiến lên.

Tháng 4-1967, đồng chí Nguyễn Chí Thanh ra miền Bắc báo cáo về tình hình miền Nam và đề xuất phải tổ chức những cuộc tiến công đánh thẳng vào hang ổ của địch trong các thành phố, thị xã để tạo chuyển biến lớn. Đồng chí Lê Duẩn tán thành ý kiến của đồng chí Nguyễn Chí Thanh. Đây cũng là vấn đề mà đồng chí Lê Duẩn đang trăn trở, ý đồ chiến lược theo đó ngày càng sáng tỏ thêm.

Xuất phát từ những suy nghĩ trên, khi trao đổi với đồng chí Văn Tiến Dũng về kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng Tham mưu, đồng chí Lê Duẩn nảy ra ý định phải có cách đánh mới, phải khởi nghĩa và tiến công địch ở đô thị, nhất là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng. Tuy nhiên, cách đánh mới như thế nào thì chưa hình dung được cụ thể. Song theo các đồng chí thì phải khởi nghĩa và đánh vào đầu não địch ở các trung tâm thành phố - nơi địch cho là an toàn và ổn định nhất. Có làm được như vậy mới đánh bại địch về chiến lược. Vì đánh được vào các thành phố, nhất là Sài Gòn, mới làm "thôi động" hậu phương địch, làm rung động nước Mỹ, tạo nên làn sóng đấu tranh chính trị của nhân dân các đô thị miền Nam, nhân dân Mỹ, đồng thời cũng để tỏ rõ thế và lực của ta mạnh chứ không tàn lụi như đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn tuyên truyền.

Tháng 5-1967, ngay sau khi cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của quân Mỹ kết thúc, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá tình hình, xem xét dự thảo Kế hoạch chiến lược Đông - Xuân 1967 - 1968. Tiếp đó, tháng 6-1967, Hội nghị Bộ Chính trị được triệu tập và bàn bạc rất kỹ dự thảo kế hoạch chiến lược này. Hội nghị nhận định, thắng lợi của quân và dân ta giành được trên cả hai miền Nam, Bắc là to lớn, toàn diện. Thắng lợi đó đã làm thất bại một bước rất cơ bản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, đẩy chúng vào thế lúng túng, bị động về chiến lược.

Hội nghị còn nhận định, về phía ta, cả thế và lực đang có những tiến bộ, cho phép ta "trên cơ sở phương châm đánh lâu dài, đẩy mạnh nỗ lực chủ quan đến mức cao nhất để giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn"(3). Nhưng tương đối ngắn là bao lâu? Tuy bàn bạc rất tỉ mỉ về tương quan lực lượng lúc đó nhưng Hội nghị cũng chỉ có thể dự kiến sẽ giành thắng lợi quyết định trong năm 1968 theo phương hướng đánh lớn. Muốn vậy, nhiệm vụ quân sự của ta là phải tiêu diệt một bộ phận sinh lực quân Mỹ, làm mất khả năng tiến công của chúng, đồng thời phải tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân đội Sài Gòn, khiến cho chúng không còn là lực lượng chiến lược trong tiến công và phòng ngự mà Mỹ dựa vào đó để tiến hành chiến tranh.

Từ ngày 20 đến ngày 24-10-1967, Bộ Chính trị họp bàn cụ thể hơn về chủ trương và kế hoạch chiến lược năm 1968 - kế hoạch tiến công táo bạo "Tết Mậu Thân” lịch sử. Tại Hội nghị này, thay mặt Quân ủy Trung ương, đồng chí Văn Tiến Dũng trình bày dự thảo Kế hoạch chiến lược Đông - Xuân - Hè 1967-1968 làm cơ sở cho Bộ Chính trị bàn bạc và thảo luận. Bên cạnh đó, Hội nghị còn dành thời gian nghe báo cáo về tình hình địch của Cục 2, về tình hình ta của Cục Tác chiến - Bộ Tổng Tham mưu, về các kế hoạch tác chiến của Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Khu 5, Tây Nguyên và Nam Bộ. Trên cơ sở đường lối độc lập, tự chủ và thảo luận kỹ các báo cáo, đặc biệt là Kế hoạch Đông - Xuân - Hè 1967-1968 do Quân ủy Trung ương dự thảo, Bộ Chính trị chủ trương tạo một bất ngờ lớn về chiến lược đánh địch. Để tạo được bất ngờ về chiến lược, Bộ Chính trị quyết định thời gian bắt đầu mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vào dịp Tết Mậu Thân. Tiếp đó, tháng 11-1967, Bộ Chính trị họp tiếp để bàn cụ thể về Kế hoạch tổng khởi nghĩa ở các đô thị miền Nam.

Quán triệt chủ trương của Bộ Chính trị, các chiến trường, các địa phương nhanh chóng bắt tay chuẩn bị trực tiếp cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, cụ thể: xây dựng và hoàn chỉnh phương án, kế hoạch công kích; khởi nghĩa; tổ chức, điều động, bố trí lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị; phân chia chiến trường; tổ chức hệ thống bảo đảm hậu cần; triển khai mạng lưới giao liên từ căn cứ xuống vùng ven, vào nội thành; chuẩn bị khu vực, địa điểm cất giấu lực lượng và địa bàn xuất phát tiến công; điều tra các mục tiêu và nắm tình hình cũng như quy luật hoạt động của địch ở nội đô. Đồng thời, huy động lực lượng bí mật bằng nhiều đường, nhiều loại phương tiện vận chuyển vũ khí vào nội thành cất giấu... Để khắc phục mọi khó khăn, các địa phương, các chiến trường đã phân cấp, phân hướng, trên dưới đồng thời chuẩn bị. Trong điều kiện thời gian gấp, chiến trường chia cắt, hơn một triệu quân Mỹ, quân đội Sài Gòn, quân một số nước đồng minh của đế quốc Mỹ với bộ máy kìm kẹp cùng mạng lưới tình báo, gián điệp, chỉ điểm giăng rộng và trà trộn khắp mọi nơi nhưng quá trình chuẩn bị của ta vẫn giữ bí mật tuyệt đối và cơ bản hoàn tất trước khi ngày giờ nổ súng bắt đầu.

Cùng với quá trình chuẩn bị, các chiến trường mở đợt hoạt động Thu - Đông 1967. Đợt hoạt động này nằm trong khuôn khổ giai đoạn 1 của kế hoạch tác chiến chiến lược. Mục đích của đợt hoạt động là trực tiếp tạo thế, tạo lực cho Tết Mậu Thân, buộc địch phải phân tán binh lực, nghi binh làm lạc hướng chú ý của chúng, tạo thêm điều kiện cho quá trình chuẩn bị của ta. Vì thế, ở vùng ven đô thị và vùng nông thôn đồng bằng, lực lượng vũ trang ta được lệnh duy trì các hoạt động. Trong khi đó, chủ lực Quân giải phóng liên tiếp mở các chiến dịch có quy mô tương đối lớn ở khu vực rừng núi nhằm đánh bồi vào quân Mỹ, phá kế hoạch chuẩn bị phản công lần thứ ba của chúng và lôi kéo, ghìm chân một bộ phận quan trọng chủ lực Mỹ tại vòng ngoài(4).

Cùng với hoạt động trên chiến trường miền Nam trong Thu - Đông 1967, cơ quan chỉ đạo chiến lược đã đề ra các biện pháp nghi binh nhằm đánh lạc hướng sự chú ý của bộ chỉ huy đối phương(5).

Toàn bộ những hoạt động trên đây của ta không lọt qua sự chú ý của giới lãnh đạo nước Mỹ và Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn. Cuối năm 1967, chúng nhận định: Trong năm 1968, trọng tâm hoạt động của ta chỉ là chống phá bình định, mở một số trận đánh dọc miền biên giới, tiến công các mục tiêu ở hai tỉnh Quảng Trị - Thừa Thiên, tìm cách bảo tồn lực lượng, cố gắng duy trì mức độ giao tranh như năm 1967.

Từ nhận định này, chúng chủ trương tiếp tục mở cuộc phản công chiến lược lần thứ ba, mùa khô 1967-1978 mà hướng chủ yếu vẫn là miền Đông Nam Bộ và hướng quan trọng là Trị - Thiên nhằm duy trì thế giằng co, tránh mọi sự đảo lộn bất ngờ, chờ cho kỳ bầu cử tổng thống mới ở Mỹ kết thúc sẽ tính toán bước đi tiếp theo.

Ngày 28-12-1967, Bộ Chính trị họp phiên đặc biệt, chính thức thông qua Kế hoạch chiến lược năm 1968 và chủ trương: "Chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định"(6). Bộ Chính trị quyết định: "Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích - tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định"(7).

Bộ Chính trị dự kiến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy có thể phát triển theo ba khả năng:

Một là, ta giành được thắng lợi to lớn ở các chiến trường quan trọng, những cuộc công kích và khởi nghĩa thành công ở các đô thị lớn, ý chí xâm lược của địch bị đè bẹp, địch phải chịu thương lượng đi đến kết thúc chiến tranh theo mục tiêu, yêu cầu của ta.

Hai là, tuy ta giành thắng lợi quan trọng nhiều nơi nhưng địch vẫn còn lực lượng dựa vào những căn cứ lớn và tăng thêm lực lượng từ ngoài vào phản công giành lại những vị trí quan trọng và các đô thị lớn - nhất là Sài Gòn để tiếp tục chiến đấu với ta.

Ba là, Mỹ tăng cường nhiều lực lượng, mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, sang Lào và Campuchia hòng xoay chuyển cục diện chiến tranh, gỡ thế đang thua của chúng. Bộ Chính trị cũng chỉ rõ: ta phải nỗ lực phi thường giành thắng lợi cao nhất theo khả năng một, nhưng phải chuẩn bị sẵn sàng chủ động đối phó với khả năng hai, khả năng ba, tuy ít.

Tháng 1-1968, để giữ bí mật ý đồ chiến lược, Ban Chấp hành Trung ương lên họp ở Kim Bôi, Hòa Bình để thông qua Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 12-1967. Hội nghị Trung ương phân tích sâu sắc, toàn diện các vấn đề Bộ Chính trị nêu ra, tính kỹ các phương án, cuối cùng Trung ương nhất trí với Bộ Chính trị và lấy đó làm Nghị quyết Trung ương lần thứ 14. Phát biểu trong Hội nghị, đồng chí Trường Chinh cho đây là một sáng tạo lớn của Đảng.

Căn cứ vào Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 14, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh gấp rút hoàn chỉnh lần cuối phương án tổng công kích - tổng khởi nghĩa và xác định cụ thể: "Cùng với đòn tiến công của bộ đội chủ lực ở hướng phối hợp chiến lược đặc biệt quan trọng là Đường 9 - Khe Sanh, nhằm thu hút, giam chân lực lượng chiến lược của địch, một đòn tiến công chiến lược đánh vào thị xã, thành phố quy mô trên toàn miền Nam, kết hợp với nổi dậy của quần chúng nông thôn và đô thị, mở đầu cho tổng công kích - tổng khởi nghĩa, lấy chiến trường chính là Sài Gòn, Gia Định, Đà Nẵng, Huế; trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định, Huế - Đà Nẵng và các thành phố lớn"(8).

Thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng và thấm nhuần sâu sắc tư tưởng "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đêm 30 rạng ngày 31-1-1968, quân dân miền Nam từ Trị - Thiên đến Khu 5 và Nam Bộ đã tiến công và nổi dậy đồng loạt hướng trọng điểm nhằm vào các thành phố, thị xã, nhất là các hang ổ của địch ở Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế, các căn cứ quân sự, sân bay, bến cảng, kho tàng lớn của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trên toàn miền, gây cho chúng tổn thất lớn và choáng váng nhiều ngày, đối phó bị động, lúng túng ở tất cả các vùng chiến lược, nhiều nơi ta đánh chiếm và làm chủ được nhiều ngày.

Ở Huế, quân và dân ta hoàn toàn làm chủ thành phố, đánh lui hàng trăm đợt phản kích của địch. Ở Sài Gòn - Gia Định, sào huyệt đầu não của địch, quân và dân ta tập kích nhiều mục tiêu quan trọng như Tòa Đại sứ Mỹ, dinh "Gia Long", Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn... là những nơi đề xướng và điều hành mọi tội ác chiến tranh chống nhân dân, chống cách mạng. Đánh phá làm tê liệt nhiều hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy, làm ngưng trệ việc vận chuyển và thông tin liên lạc của địch trong nhiều ngày, nhiều giờ. Phối hợp chặt chẽ với tiến công, đội quân chính trị hùng hậu của nhân dân ở cả nông thôn và thành thị nổi dậy mạnh mẽ, lật đổ bộ máy chính quyền cơ sở, phá ách kìm kẹp của địch ở nhiều nơi, san bằng hàng loạt "ấp chiến lược", giành quyền làm chủ nhiều vùng rộng lớn, xây dựng và củng cố hậu phương trực tiếp, mở rộng địa bàn của ta.

Thắng lợi lớn nhất và quan trọng nhất của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là ta đã làm đảo lộn chiến lược chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ - một siêu cường quân sự, kinh tế, làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của chúng. Trong chiến tranh, thắng lợi ở quy mô chiến dịch là rất quan trọng, song chỉ khi làm đảo lộn kế hoạch chiến lược chiến tranh của đối phương mới tạo được chuyển biến lớn, thay đổi cục diện chiến trường. Đó là vấn đề có tính quy luật thuộc về nghệ thuật chỉ đạo và điều hành chiến tranh, có tác động lớn đến tiến trình và kết cục cuộc chiến tranh. Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, ta đã giáng một đòn quyết định vào chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, đánh bại cố gắng quân sự cao nhất của đế quốc Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam. Sự kiện Tết Mậu Thân 1968 của quân và dân ta là lần đầu tiên trong lịch sử Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, quân Mỹ bị đánh bại bởi một dân tộc nhỏ ở cách xa nước Mỹ.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 của quân và dân ta đồng thời đã tác động trực tiếp đến đời sống chính trị - tinh thần nước Mỹ, làm cho làn sóng đấu tranh phản đối chiến tranh xâm lược trong nhân dân Mỹ lên cao chưa từng thấy - một cuộc chiến tranh trong lòng nước Mỹ. Không còn sự lựa chọn nào khác, ngày 31-3-1968, Tổng thống Giônxơn buộc phải tuyên bố đơn phương ngừng đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Pari và không ra tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ hai.

"Kết quả cuộc Tổng tiến công và nổi dậy chứng tỏ Đảng ta không máy móc, mà luôn luôn có những phát kiến chiến lược lớn, luôn luôn sáng tạo trong chủ trương cũng như trong chỉ đạo toàn dân, toàn quân hành động"(9). Đánh giá về sự kiện Tết Mậu Thân 1968, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng sau ngày toàn thắng đã nêu rõ: ”... Thắng lợi rất oanh liệt của đòn tiến công và nổi dậy táo bạo, bất ngờ đó đã đảo lộn thế chiến lược của địch, làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ”, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pari"(10).

Như vậy, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã mang lại cho quân và dân ta một xung lực mới, một khả năng mới và củng cố niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng ngay trong những ngày tháng cam go, ác liệt nhất. Nếu so với kháng chiến chống thực dân Pháp, chúng ta phải tập trung hầu như toàn bộ các đơn vị chủ lực tinh nhuệ của quân đội vào một trận quyết chiến chiến lược ở một địa bàn xa trung tâm đất nước tại Điện Biên Phủ, thì trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 ta đã có đủ lực lượng cùng lúc đánh đồng loạt vào gần 40 thành phố, thị xã toàn miền Nam, trong đó tập trung vào các sào huyệt quan trọng, hiểm yếu nhất của đế quốc Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hòa như Sài Gòn, Huế... Mặc dù còn có những khuyết điểm, hạn chế, song thắng lợi to lớn mà Tết Mậu Thân 1968 tạo ra là không thể phủ nhận được. Từ đó có thể khẳng định, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một sự kiện lịch sử tiêu biểu trong tiến trình lịch sử Việt Nam hiện đại.

Thời gian không ngừng trôi, những trang vàng lịch sử dân tộc Việt Nam sẽ tiếp tục trải dài, nhưng sự kiện Tết Mậu Thân 1968 vẫn mãi là dấu ấn không thể phai mờ. Kỷ niệm 50 năm sự kiện Tết Mậu Thân là dịp để chúng ta cùng nhìn lại sự chủ động, sáng tạo của Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân, toàn dân ta kháng chiến; thấy được sự anh dũng, quả cảm của các lực lượng tham gia sự kiện này; đồng thời, đây cũng là dịp để chúng ta nhìn lại những điểm còn tồn tại, từ đó đúc rút những bài học kinh nghiệm quý báu, vận dụng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đã khẳng định; đưa dân tộc Việt Nam vững bước tiến lên sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác Hồ mong đợi lúc sinh thời.

---------------

(1). Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968. Nxb. Quân đội nhân dân, Hà nội, 1998, tr.19.

(2). Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15, tr.131.

(3). Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập II (1954-1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.384-385.

(4). Chiến dịch Lộc Ninh – Đường 13 của chủ lực miền Nam (27-10 đến 10-2-1967) ở khu vực rừng núi miền Đông Nam Bộ; Chiến dịch Đắk Tô của lực lượng vũ trang Tây nguyên (đầu tháng 11-1967).

(5). Tung bản tác chiến giả vào chiến trường, phóng thích hai tù binh “giặc lái” Mỹ về đoàn tụ với gia đình nhân dịp Nôen năm 1967, nhắc lại tuyên bố ngày 28-1-1967 của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh, rằng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ nói chuyện với Chính phủ Hoa Kỳ sau khi Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc vô điều kiện,…

(6). Hồ Khang: Tết Mậu Thân 1968 – Bước ngoặt lớn của Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr.95.

(7). Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 12-1967 được Ban chấp hành Trung ương thông qua tháng 1-1968 thành Nghị quyết Trung ương 14.

(8). Bộ Quốc phòng-Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 11- Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1955), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.238.

(9). Cuộc tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998, tr.265.

(10). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđđ, t.37, tr.481.

Môi Trường ST.