Thứ Ba, 2 tháng 8, 2022

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay

 Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người là sự vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lê-nin về quyền con người vào điều kiện, hoàn cảnh thực tế của cách mạng Việt Nam. Những giá trị về quyền con người trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến nay vẫn còn nguyên giá trị, có ý nghĩa to lớn chỉ đạo về tư tưởng, đường lối và hoạt động thực tiễn của Đảng và Nhà nước ta.

Giá trị phổ quát mà các quốc gia trên thế giới hiện nay đều ghi nhận là mọi cá nhân đều có quyền con người, cần được tôn trọng và được đối xử bình đẳng mà không có sự phân biệt đối xử về giới tính, ngôn ngữ, chủng tộc, màu da, quốc tịch, tôn giáo, nơi cư trú, nghề nghiệp, tình trạng khuyết tật, địa vị xã hội hay bất cứ tình trạng nào khác. Các quyền con người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ thông qua các điều ước quốc tế, tập quán quốc tế, các văn bản trong hệ thống pháp luật quốc tế và pháp luật của mỗi quốc gia. Khuôn khổ các chuẩn mực quốc tế về quyền con người đã được hình thành, được các quốc gia thừa nhận, theo đó, đòi hỏi mọi thiết chế, tổ chức trong xã hội phải có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và thực hiện.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người

Quyền con người dưới xã hội xã hội chủ nghĩa bảo đảm tất cả các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa; bảo đảm cả quyền cá nhân và quyền tập thể; bảo đảm tự do và công bằng, bình đẳng, quyền con người thống nhất với quyền công dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp cận vấn đề quyền con người xuất phát từ truyền thống dân tộc Việt Nam và bối cảnh thực tiễn cụ thể của đất nước, đồng thời, kế thừa tinh hoa tư tưởng quyền con người trên thế giới, đặc biệt là vận dụng sáng tạo tư tưởng giải phóng con người và xã hội của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Trên cơ sở đó, Người đã đưa ra những luận điểm mới, sâu sắc và toàn diện về quyền con người, phù hợp với đặc điểm tình hình cụ thể ở Việt Nam. Nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người thể hiện:

Một là, thực hiện quyền con người trên nền tảng độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia. Trong những năm bôn ba tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra một chân lý phổ biến là: Độc lập cho dân tộc là điều vô cùng quý giá, là tiền đề tiên quyết để giải phóng con người, bảo đảm quyền con người. Người cho rằng, giành được độc lập dân tộc rồi thì phải xây dựng chủ nghĩa xã hội, bởi chủ nghĩa xã hội không chỉ là xu hướng phát triển tất yếu của thời đại, mà còn tạo cơ sở để hiện thực hóa quyền con người một cách toàn diện. Xây dựng một xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa chính là để cho nhân dân lao động có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hưởng công bằng; con người thực sự được giải phóng về các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, có điều kiện để thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần. Người viết: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”(1) và “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(2).

Hai là, tiếp cận vấn đề quyền con người trong mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Về lý luận, quyền con người mang tính tự nhiên - xã hội của bản chất con người, thể hiện lý tưởng giải phóng - phát triển con người toàn diện và tự do. Về thực tiễn, Đảng và Nhà nước có vai trò quan trọng trong thực hiện quyền con người; đồng thời, bảo đảm quyền con người luôn có tính đặc thù về xã hội, như truyền thống văn hóa dân tộc, trình độ sản xuất vật chất - tinh thần của xã hội, các quyền con người có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong Bài nói chuyện tại Hội nghị sản xuất cứu đói năm 1955, Người chỉ rõ: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ ta có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”(3). Ngay khi cách mạng thành công, chỉ một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ngày 3-9-1945), Người đã chỉ ra 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó có nhiệm vụ ban hành hiến pháp để bảo đảm quyền tự do dân chủ của nhân dân và đề nghị tổ chức sớm nhất cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai, gái đủ 18 tuổi trở lên đều được quyền ứng cử và bầu cử theo luật định không phân biệt giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo và giống nòi. Bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử dân tộc ta do Người trực tiếp làm trưởng ban soạn thảo đã được Quốc hội thông qua ngày 9-11-1946, trong đó xác định: “Bảo đảm quyền tự do dân chủ của nhân dân” là một trong những nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp. Hiến pháp năm 1946 đã dành cả chương II nói về “quyền lợi và nghĩa vụ công dân” gồm 18 điều cụ thể quy định các quyền dân sự, chính trị cũng như các quyền về kinh tế, văn hóa và xã hội…

Ba là, để thực hiện quyền con người, cần xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới là con đường giải phóng nhân loại khỏi bị áp bức, bóc lột và mang lại các quyền con người cơ bản cho đa số nhân dân lao động. Người nói: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”(4) và “Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ”(5). Vì thế, Người chỉ rõ: “Dân là chủ thì Chính phủ phải là đày tớ. Làm việc ngày nay không phải là để thăng quan, phát tài. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”(6). Đây chính là tư tưởng thể hiện sinh động và sâu sắc truyền thống đề cao vai trò nhân dân, quyền tự chủ của dân tộc Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trong tác phẩm Đường Cách mệnh, Người chỉ rõ: Nhà nước Việt Nam dân chủ kiểu mới là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Cơ sở xã hội của nhà nước đó là toàn thể dân tộc Việt Nam, dựa trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay sau khi nước ta giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:

“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.

Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.

Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.

Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.

Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.

Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.

Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(7)

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm bảo đảm quyền con người, cần xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân - nhà nước đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện ngắn gọn, súc tích, giản dị, dễ hiểu:

Nhà nước của nhân dân: Là nhà nước trong đó nhân dân là chủ, là người có địa vị cao nhất, có quyền lực cao nhất và có quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh dân tộc, đất nước. Điều này được thể hiện rõ trong Hiến pháp năm 1946: “Nước Việt Nam là một nước Dân chủ Cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.

Nhà nước do nhân dân: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ trương xây dựng nhà nước do nhân dân, nghĩa là nhà nước đó do nhân dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình, nhân dân làm chủ, nhân dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để Nhà nước hoạt động và nhân dân tham gia vào công việc của Nhà nước.

Nhà nước vì nhân dân: Nhà nước đó luôn phục vụ cho lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền, đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Trong nhà nước đó, cán bộ là “công bộc” của dân. Nên việc gì có lợi cho dân dù nhỏ mấy cũng phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ mấy cũng phải hết sức tránh. Cán bộ của nhà nước phải là những người biết đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân, bảo vệ nhân dân và không được vi phạm đến các quyền con người và quyền công dân trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình.

Xây dựng nhà nước kiểu mới của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh là xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ấy có nhiệm vụ xóa bỏ mọi sự nghèo khổ, bất công, bất bình đẳng và mang lại tự do cho nhân dân lao động.

Như vậy, có thể thấy, nội dung quyền con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh được phát triển rất phong phú cả về bề rộng và chiều sâu, tạo ra một hệ thống về quyền con người theo quan điểm khoa học và cách mạng.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người ở Việt Nam hiện nay

Nhận thức vai trò của quyền con người đối với cách mạng Việt Nam, kế thừa tư tưởng quyền con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn xác định: “Tất cả vì con người, tất cả vì tự do, hạnh phúc và sự phát triển phong phú và toàn diện cho mỗi người trong quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên”(8). Tiếp tục khẳng định tư tưởng đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân”(9). Đến Đại hội lần thứ XII, Đảng ta khẳng định: “Thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; gắn quyền với trách nhiệm, nghĩa vụ, đề cao đạo đức xã hội. Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở; hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân”(10). Trên phương diện xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật để thực hiện quyền con người, “Đảng và Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được xác định đầy đủ hơn trong Hiến pháp năm 2013 và hệ thống phát luật mới được ban hành và sửa đổi”(11).

Tại Đại hội XIII, Đảng ta đề ra phương hướng: “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”(12).

Những quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Ðảng, Nhà nước về bảo đảm và thúc đẩy quyền con người đã được cấp ủy đảng và chính quyền các cấp quán triệt sâu sắc, tạo chuyển biến nhận thức một cách cơ bản, tích cực trong hệ thống chính trị. Để bảo đảm thực hiện tốt quyền con người, ngày 20-7-2010, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 44-CT/TW “Về công tác nhân quyền trong tình hình mới”. Việc thể chế hóa đường lối của Ðảng, hệ thống pháp luật từng bước được hoàn thiện, đặc biệt là Quốc hội đã thông qua Hiến pháp năm 2013; tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo vệ, thực thi quyền con người và ngăn chặn, xử lý các hành vi xâm phạm quyền con người.

Hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, công tác bảo đảm quyền con người đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta. Hiện nay, Việt Nam đã tích cực tham gia đầy đủ các công ước quốc tế cơ bản, quan trọng nhất về quyền con người, như Công ước về quyền dân sự, chính trị; Công ước về quyền kinh tế - xã hội và văn hóa; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc; Công ước về quyền trẻ em…(13). Trên cơ sở đó, Việt Nam tiến hành luật hóa trong hệ thống pháp luật Việt Nam, thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động thực thi pháp luật về quyền con người.

Thành công trong việc phát huy quyền con người còn được thể hiện thông qua hệ thống chính sách an sinh xã hội không ngừng được hoàn thiện và mở rộng đối tượng thụ hưởng góp phần cải thiện đời sống của nhân dân; “tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm còn dưới 3%; nhà ở được quan tâm; đã hoàn thành mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ”(14).

Thời gian tới, để phát huy và thực hiện tốt quyền con người, cần tập trung thực hiện một số nội dung sau:

Thứ nhất, quán triệt, nhận thức một cách đầy đủ, toàn diện về vị trí, vai trò của quyền con người trong từng chiến lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong toàn bộ hệ thống chính trị, các cơ quan, ban, ngành, các tổ chức xã hội. Từ đó, tạo nên sự thống nhất trong nhận thức và hành động của hệ thống chính trị, hướng đến mục tiêu phát triển vì con người.

Thứ hai, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc bảo vệ, thúc đẩy và phát triển quyền con người.  Bảo đảm nguyên tắc quyền luôn đi đôi với nghĩa vụ; đề cao vai trò chủ thể hưởng thụ quyền là nhân dân; bảo đảm và thúc đẩy quyền con người trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương.

Thứ ba, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền chính sách, thành tựu bảo đảm quyền con người của Việt Nam. Tận dụng thế mạnh của các kênh ngoại giao, đối thoại, hợp tác làm cho cộng đồng quốc tế, kiều bào ta ở nước ngoài hiểu đúng quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thành tựu đã đạt được trong bảo đảm quyền con người./.

----------------------

(1), (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 175, 64

(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 518

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 434

(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 13, tr. 83

(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 74 - 75

(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 232

(8) Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 10

(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,  Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 65

(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 169

(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 166

(12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 177

(13) Đỗ Thị Tùng: “Không thể phủ nhận thành tựu của Việt Nam trong xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật về quyền con người”, Tạp chí Cộng sản điện tử, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/823406/khong-the-phu-nhan-thanh-tuu-cua-viet-nam-trong-xay-dung,-hoan-thien-va-thuc-thi-phap-luat-ve-quyen-con-nguoi.aspx#, ngày 20-6-2021

(14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 65 - 66

TS. NGUYỄN MINH TRÍ - tapchicongsan.org.vn - 09-07-2022

Chống tiêu cực, chặn mầm tham nhũng: Phải chống từ gốc

  Liên tục các vụ tiêu cực bị xử lý nghiêm khắc trong thời gian gần đây cho thấy việc phòng, chống sự tha hóa, tiêu cực trong cán bộ, đảng viên đang được Đảng chú trọng hơn.

 

Những hành vi tham nhũng, tiêu cực của cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền trong thực thi nhiệm vụ gây rất nhiều bức xúc cho người dân.

Thực tiễn chỉ ra tham nhũng và tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nên công tác phòng, chống tham nhũng và công tác phòng, chống tiêu cực, ngăn chặn suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống phải gắn liền với nhau.

Liên tục trong thời gian gần đây, đặc biệt là từ sau Đại hội XIII của Đảng, bên cạnh hàng loạt các vụ án tham nhũng tiếp tục bị phanh phui, đưa ra trước ánh sáng, nhiều vụ việc liên quan tới hành vi tiêu cực của cán bộ, đảng viên, thậm chí là những lãnh đạo cấp cao trong bộ máy Nhà nước, cũng liên tục được gọi tên.

Những vụ việc tiêu cực xảy ra muôn hình vạn trạng. Tuy hành vi thực hiện là khác nhau nhưng tất cả đều có chung một mẫu số đó là đi ngược lại các chủ trương, chính sách, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của đoàn thể; các chuẩn mực đạo đức, quy tắc ứng xử, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng, Nhà nước, làm tha hóa đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, làm giảm sút niềm tin của nhân dân, cản trở quá trình phát triển kinh tế-xã hội.

Do thiếu tu dưỡng, rèn luyện

Mới đây nhất, Ban Bí thư đã quyết định cách chức tất cả các chức vụ trong Đảng đối với ông Lê Minh Trung, Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, Phó Bí thư Đảng đoàn, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng, vì hàng loạt vi phạm trong quá trình công tác.

Cụ thể, ông Trung đã thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống; vi phạm quy định về những điều đảng viên không được làm, trách nhiệm nêu gương; vi phạm Luật Hôn nhân và Gia đình, gây dư luận xấu trong xã hội, ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức đảng, cơ quan nhà nước.

Từ những vi phạm này, tại Kỳ họp thứ 6 (kỳ họp chuyên đề) khóa X, nhiệm kỳ 2021-2026 ngày 14/6, Hội đồng Nhân dân thành phố Đà Nẵng đã bãi nhiệm chức danh Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng Nhân dân và tư cách đại biểu Hội đồng Nhân dân thành phố Đà Nẵng đối với ông Lê Minh Trung.

Hay trường hợp ông Lê Hùng Sơn, Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện Cô Tô, tỉnh Quảng Ninh, đã bị Ban Bí thư khai trừ ra khỏi Đảng. Với cương vị Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy, ông Sơn chịu trách nhiệm người đứng đầu về những vi phạm của Ban Thường vụ Huyện ủy Cô Tô (Quảng Ninh).

Trong quá trình công tác, ông Hùng Sơn đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, Quy chế làm việc, Quy định về những điều đảng viên không được làm, Quy định về trách nhiệm nêu gương; thiếu tu dưỡng, rèn luyện, suy thoái phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, sống buông thả, quan hệ bất chính với nhân viên dưới quyền, vi phạm tiêu chuẩn đảng viên và tiêu chuẩn cấp ủy viên.

Trước những sai phạm này, tại Kỳ họp thứ 6, Hội đồng Nhân dân tỉnh Quảng Ninh khóa XIV đã thực hiện quy trình bãi nhiệm tư cách đại biểu Hội đồng Nhân dân tỉnh khóa XIV, nhiệm kỳ 2021-2026, đối với ông Lê Hùng Sơn.

Cũng bị Ban Bí thư khai trừ khỏi Đảng, ông Đàm Quang Vinh, nguyên Chánh Thanh tra tỉnh Lào Cai lại thực hiện những hành vi tiêu cực ở một góc độ khác.

Để thăng tiến, ông Vinh đã sử dụng Bằng tốt nghiệp Phổ thông Trung học không hợp pháp để được tuyển dụng, đào tạo, quy hoạch và được bổ nhiệm, bầu vào chức vụ lãnh đạo trong các tổ chức đảng và cơ quan nhà nước.

Đồng thời, ông Vinh đã thiếu trung thực trong báo cáo, kê khai lý lịch để được kết nạp vào Đảng, vi phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên, vi phạm về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, Quy định về những điều đảng viên không được làm.

Ông Đàm Quang Vinh suy thoái về tư tưởng chính trị, trong kiểm điểm tự phê bình còn giấu giếm, thiếu thành khẩn, không tự giác nhận khuyết điểm.

Với những sai phạm này, ông Đàm Quang Vinh cũng đã bị bãi nhiệm Ủy viên Ủy ban Nhân dân tỉnh Lào Cai khóa XVI, nhiệm kỳ 2021-2026.

Còn ông Đinh Quý Nhân, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình, nguyên Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Quảng Bình bị Ban Bí thư khai trừ ra khỏi Đảng vì những hành vi gây hậu quả nghiêm trọng.

Trong thời gian giữ chức vụ Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Quảng Bình đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, Quy chế làm việc; vi phạm Quy định về những điều đảng viên không được làm, Quy định về trách nhiệm nêu gương, Quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ.

Ông này đã có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, cố ý làm trái các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong việc tuyển dụng viên chức. Từ những sai phạm này, ông Đinh Quý Nhân bị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình cách chức Tỉnh ủy viên nhiệm kỳ 2015-2020.

Những trường hợp bị xử lý kỷ luật nói trên đều do có hành vi vi phạm được đánh giá là nghiêm trọng và rất nghiệm trọng, làm tổn hại đến uy tín của tổ chức đảng, chính quyền, cơ quan, đơn vị công tác và của cá nhân, gây bức xúc trong cán bộ, đảng viên và dư luận xã hội, đến mức phải thi hành kỷ luật nghiêm theo quy định.

Mà nguyên nhân gốc rễ của những sai phạm đó là thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức lối sống, vượt qua lằn ranh mỏng manh, tự chuyễn biến, tự chuyển hóa, dẫn đến hành vi sai phạm chỉ là một bước ngắn ngủi.

Nhận diện hành vi tiêu cực

Liên tục các vụ tiêu cực bị xử lý nghiêm khắc trong thời gian gần đây cho thấy việc phòng, chống sự tha hóa, tiêu cực trong cán bộ, đảng viên đang được Đảng chú trọng hơn, đặc biệt là từ khi Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng được bổ sung thêm chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn phòng, chống tiêu cực.

Các chế tài nghiêm khắc đối với những hành vi tiêu cực là hồi chuông cảnh tỉnh cho những ai cố tình dựa vào địa vị của mình để thực hiện các hành vi tiêu cực nhằm mưu lợi cá nhân.

Việc đẩy mạnh phòng, chống tiêu cực, những biểu hiện "tự diễn biến," "tự chuyển hóa" trong nội bộ cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm được xác định trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng.

Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, thuật ngữ “tiêu cực” dùng để chỉ những hiện tượng không lành mạnh, có tác dụng phủ định, cản trở, không tốt đối với quá trình phát triển của xã hội; trái với tích cực.

Đứng ở những cách tiếp cận khác nhau, thuật ngữ “tiêu cực” có cách hiểu khác nhau, nhưng tựu chung lại, hành vi tiêu cực trái ngược với tích cực, trái ngược với sự tiến bộ, phát triển hoặc cản trở, kìm hãm sự tiến bộ, phát triển.

Hành vi “tiêu cực” trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có thể hiểu là những thói hư, tật xấu, khuyết điểm, là nhận thức, thái độ, hành vi không lành mạnh, có tác dụng xấu, gây ảnh hưởng xấu đến lợi ích, uy tín của Đảng, Nhà nước, cơ quan, đơn vị và chính cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, làm giảm sút niềm tin của nhân dân, cản trở quá trình phát triển của xã hội.

Khái quát lên, "tiêu cực" trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức là những biểu hiện, hành vi trái với các chủ trương, chính sách, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của đoàn thể; các chuẩn mực đạo đức, quy tắc ứng xử, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng, Nhà nước, làm tha hóa đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, làm giảm sút niềm tin của nhân dân, cản trở quá trình phát triển kinh tế-xã hội.

Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ ra 27 biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến,” “tự chuyển hóa” trong nội bộ; gồm 3 loại: Suy thoái về tư tưởng chính trị (9 biểu hiện); suy thoái về đạo đức, lối sống (9 biểu hiện); “tự diễn biến,” “tự chuyển hóa” (9 biểu hiện).

Từ 27 biểu hiện này, nhiều cấp ủy, tổ chức đảng thời gian qua đã nhận diện, cụ thể hóa thành hàng trăm hành vi cụ thể để tập trung đấu tranh, ngăn chặn. Các biểu hiện suy thoái này cũng chính là trọng tâm mà Đảng xác định cần tập trung đẩy mạnh đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi hiện nay.

Dưới góc độ hành vi, tiêu cực biểu hiện qua các hành vi hành động hoặc không hành động. Đó là các hành vi vi phạm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước như vi phạm nghĩa vụ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; vi phạm những điều cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức không được làm; vi phạm các quy định về nêu gương.

Đó là vi phạm kỷ luật của đoàn thể như vi phạm Điều lệ Công đoàn, Điều lệ Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh…

Đó là vi phạm các chuẩn mực đạo đức, quy tắc ứng xử, tập quán, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc được cộng đồng thừa nhận như vi phạm kỷ luật lao động, nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị; quan hệ nam nữ bất chính...

Mới đây, tại Quy định số 32-QĐ/TW, ngày 16/9/2021 của Bộ Chính trị Quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ làm việc, quan hệ công tác của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã nêu rõ phạm vi chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là “Chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng; phòng, chống tiêu cực, trọng tâm là suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp của các tổ chức  trong hệ thống chính trị trong phạm vi cả nước. Trực tiếp chỉ đạo xử lý các vụ án, vụ việc tham nhũng hoặc có dấu hiệu tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm; các vụ án, vụ việc tiêu cực khác ngoài tham nhũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự, uy tín, phẩm chất đạo đức, vai trò nêu gương của cán bộ…”

Điều này có nghĩa là suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến,” “tự chuyển hóa” đều là những biểu hiện tiêu cực; phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp của các tổ chức trong hệ thống chính trị trong phạm vi cả nước là trọng tâm của công tác phòng, chống tiêu cực./.

Quỳnh Hoa (TTXVN/Vietnam+) - 22.06.2022

Quan điểm “bốn không” của Đảng - thông điệp hòa bình

Nhằm thể hiện sự công khai, minh bạch chính sách quốc phòng, năm 2019 Việt Nam tiếp tục công bố Sách trắng Quốc phòng. Và sự kiện đó được dư luận quốc tế quan tâm, đánh giá cao. Cuốn sách có nhiều nội dung quan trọng, với tinh thần cơ bản là: xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn diện để bảo vệ vững chắc Tổ quốc; thực thi chính sách quốc phòng mang tính chất hòa bình, tự vệ. Đặc biệt, trong đó khẳng định rõ: Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Đây chính là quan điểm “Bốn không” của Đảng; là thông điệp hòa bình, thể hiện sâu sắc khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam gửi tới tất cả các quốc gia trên thế giới.

Câu hỏi đặt ra là, tại sao khẳng định quan điểm “Bốn không” nêu trên là thông điệp hòa bình? Nói như thế liệu có mâu thuẫn không? Câu trả lời là đúng như vậy! Và không hề có sự mâu thuẫn. Bởi vì, thực chất quan điểm “Bốn không” đã thể hiện sự nhất quán nhằm triệt tiêu hoàn toàn mầm mống chiến tranh từ phía Việt Nam; không cho bất cứ ai có thể lợi dụng Việt Nam, lãnh thổ Việt Nam để xâm lược hoặc gây phương hại nước khác. Từ thực tiễn khắc nghiệt của đất nước, Việt Nam thấu hiểu hòa bình không phải là mỹ từ để ngợi ca, mà là mục tiêu cao cả của nhân loại chân chính. Không một ai trong số những người có lương tri trên trái đất này lại không yêu chuộng hòa bình, đấu tranh vì hòa bình. Cũng vì thế mà nhân dân Việt Nam và các dân tộc từng bị áp bức, nô dịch bởi chủ nghĩa thực dân, đế quốc đã kiên quyết đứng lên đấu tranh đến cùng, không khoan nhượng để giành độc lập, tự do, hòa bình cho dân tộc mình – thứ quý đến mức “không có gì quý hơn” theo cách nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Để có được nó dân tộc Việt Nam đã phải trả giá bằng máu cùng sự đau thương, mất mát của nhiều thế hệ. Ngay trong cuộc sống hòa bình hôm nay, trên dải đất hình chữ “S” vẫn hằn sâu những vết thương chiến tranh, di chứng chiến tranh. Vẫn còn đó những Mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình thương binh, liệt sĩ, nạn nhân chất độc da cam,… họ là những chứng nhân của lịch sử, hiện thân của chiến tranh đã vượt lên số phận, không những có ích cho đời mà còn cho cả xã hội. Họ thực sự trở thành những tâm hồn cao đẹp của dân tộc Việt Nam đã tỏa sáng, được kết tinh bởi khát vọng hòa bình. Không phải ngẫu nhiên, ngay trong cuộc chiến tranh chính nghĩa đó của nhân dân ta chống chiến tranh xâm lược phi nghĩa của tên đế quốc đầu sỏ, Chủ tịch Hội đồng hòa bình thế giới Romesh Chandra đã khâm phục, ngợi ca: “Việt Nam là lương tri của thời đại”. Cũng không phải ngẫu nhiên mà Hà Nội – Thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vốn bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân của đế quốc Mỹ lại được UNESCO trao tặng danh hiệu “Thành phố vì hòa bình”, bạn bè quốc tế vinh danh “Thủ đô của phẩm giá con người”. Thật đáng tự hào!

Việt Nam là thế. Một dân tộc biết chiến đấu, dám hy sinh bởi khát vọng hòa bình, vì hòa bình và quyết biến nó thành hiện thực. Hẳn nhiên, dân tộc đó hiểu rõ giá trị của hòa bình. Trước đây là thế và bây giờ vẫn vậy, trong khả năng của mình, Việt Nam đã và đang làm tất cả những gì có thể để gìn giữ hòa bình cho đất nước; đồng thời, đóng góp tích cực vào đảm bảo môi trường hòa bình trong khu vực và trên thế giới.

Quan điểm “Bốn không” trong “Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019” là thông điệp hòa bình và cũng là cam kết của Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam gửi tới các quốc gia trên thế giới. Trước sau như một, Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các quốc gia trong quan hệ quốc tế, sẵn sàng mở rộng quan hệ hợp tác, kể cả hợp tác quốc phòng, trên cơ sở không phân biệt sự khác nhau về chế độ chính trị và trình độ phát triển. Việt Nam không chấp nhận quan hệ hợp tác dưới bất kỳ điều kiện áp đặt hoặc sức ép nào. Từ lịch sử đến hiện tại và tương lai, Việt Nam chưa từng và sẽ không bao giờ gây hấn hay xâm lược nước khác, không sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Đó là tôn chỉ, là truyền thống văn hóa lâu đời đã trở thành cốt cách của dân tộc Việt Nam. Như vậy, với cam kết “Bốn không”, Việt Nam đã chủ động bày tỏ thẳng thắn thái độ của mình xuất phát từ khát vọng hòa bình, vì hòa bình của chính dân tộc mình cũng như hòa bình của nhân loại.

Hòa bình là không gian sinh tồn của con người theo đúng nghĩa đen của mỹ từ này. Thực tiễn chỉ ra rằng, để có được hòa bình là điều không dễ, nhưng giữ vững được hòa bình còn khó hơn. Đặc biệt, trong bối cảnh phức tạp của tình hình thế giới hiện nay, khi mà các mối quan hệ đan xen lợi ích với những toan tính chiến lược rất khó nhận biết của các nước lớn. Vì lợi ích ích kỷ, họ bất chấp mọi luân thường đạo lý, sẵn sàng “đi đêm”, “mặc cả” sau lưng người khác, thì việc giữ vững hòa bình càng trở nên không đơn giản với mọi quốc gia. Việt Nam đủ tỉnh táo để nhận rõ điều đó và biết rằng, nếu chỉ với quan điểm “Bốn không” sẽ không thể bảo vệ được nền hòa bình của đất nước, mà phải nỗ lực thực hiện bằng nhiều phương thức kết hợp, trong đó không thể thiếu việc tăng cường sức mạnh quốc phòng. Đề cập về vấn đề này trong tâm trí những người có lương tri lại dấy lên nỗi đau khi mà chiến sự Nga - Ukraine đang diễn ra khốc liệt, với biết bao người dân vô tội ở đó đang đổ máu, phải tạm rời bỏ đất nước mình. Đã có nhiều ý kiến khác nhau về căn nguyên của cuộc chiến này, nhưng đâu là sự thật thì ngoại trừ người trong cuộc chỉ có “trời mới biết”. Tuy nhiên, có điều chắc chắn mà ai cũng biết là sẽ không có người chiến thắng, có chăng chỉ những kẻ “đục nước béo cò”.

Từ thực tiễn đó, soi chiếu vào chính sách quốc phòng của Việt Nam mới thấy hết sự đúng đắn, sáng suốt, cũng như vị trí, ý nghĩa và tầm quan trọng chiến lược của quan điểm “Bốn không” mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang thực hiện đối với sự tồn vong của đất nước, của chế độ, sự an nguy của dân tộc. Điều đó cho thấy tư duy mới rất sáng tạo của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; đồng thời, một lần nữa khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Quan điểm “Bốn không” cũng là cơ sở, điều kiện quan trọng để giữ vững môi trường hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới. Điều đó càng thể hiện rõ, quan điểm “Bốn không” trong chính sách quốc phòng của Việt Nam chính là thông điệp và khát vọng hòa bình mà dân tộc ta gửi tới các quốc gia trên thế giới.

Quan điểm “Bốn không” một mặt là thông điệp hòa bình, mặt khác còn là kế sách ngăn ngừa chiến tranh, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” của dân tộc ta. Bởi thế, nó rất cần thiết và quan trọng, nhất là trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động, phức tạp, khó lường hiện nay. Dẫu vậy, chúng ta không tuyệt đối hóa quan điểm đó, hay coi đó là liệu pháp duy nhất chữa trị “căn bệnh nan y”; trái lại nó phải được kết hợp đồng bộ với nhiều phương thức hữu hiệu khác. Chỉ như vậy mới bảo vệ được vững chắc Tổ quốc, gìn giữ được hòa bình cho đất nước. Cho nên cần phải thường xuyên tăng cường sức mạnh quốc phòng trên cơ sở sức mạnh tổng hợp của cả nước, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại. Đó là quan điểm bao trùm của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.

Như đã đề cập, khi thực hiện tăng cường sức mạnh quốc phòng, Việt Nam khẳng định rõ chính sách quốc phòng mang tính chất hòa bình, tự vệ. Việt Nam tăng cường sức mạnh quốc phòng chỉ với mục đích duy nhất là để tự vệ, bảo vệ Tổ quốc chứ không phải là chạy đua vũ trang như một số kẻ thù địch từng rêu rao, xuyên tạc. Nói cách khác, việc làm đó của Việt Nam không nhằm đe dọa, xâm lược bất cứ quốc gia nào mà chỉ nhằm ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh; đồng thời, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi quy mô, hình thức của các thế lực thù địch nếu chúng liều lĩnh tiến hành. Bởi chúng ta biết sức mạnh quốc phòng là yếu tố cốt lõi để bảo vệ Tổ quốc, gìn giữ hòa bình cho đất nước. Nếu chúng ta thiếu sức mạnh quốc phòng, không đủ khả năng tự vệ, thì nguy cơ xảy ra chiến tranh đối với nước ta sẽ lớn; ngược lại, nếu có tiềm lực, sức mạnh quốc phòng, khả năng tự vệ cao thì hẳn nhiên nguy cơ bị xâm lược sẽ thấp. Nếu kẻ nào có dã tâm xâm lược đối với nước ta thì chúng cũng phải dè chừng. Cho nên, đối với Việt Nam, nói tăng cường sức mạnh quốc phòng trước hết nhằm ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh là vì thế.

Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình mọi mặt cả quốc tế và trong nước, Đảng ta nhận định trong những năm tới ít có khả năng xảy ra chiến tranh quy mô lớn đối với nước ta. Nhận định đó rất quan trọng và đáng mừng. Nhưng “ít” không có nghĩa là không còn khả năng đó, hay nói cách khác bị loại trừ hoàn toàn. Cho nên, dù khả năng đó là rất nhỏ thì chúng ta cũng không được phép mất cảnh giác, mà phải thường xuyên chăm lo tăng cường quốc phòng, an ninh. Đó là giải pháp không thể thiếu để bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống, gìn giữ cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

Dân tộc Việt Nam có truyền thống nhân văn cao đẹp, khát khao hòa bình không chỉ cho đất nước mình mà còn cho tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Cùng với việc khẳng định rõ quan điểm “Bốn không” – thông điệp hòa bình, Đảng, Nhà nước và toàn thể dân tộc Việt Nam đã và đang nỗ lực góp phần gìn giữ hòa bình với tư cách là “thành viên tích cực của cộng đồng quốc tế”. Dưới lá cờ Liên hợp quốc, những cán bộ, chiến sĩ quân y, công binh,… của Việt Nam không quản ngại hy sinh, gian khổ đang ngày đêm thực hiện nhiệm vụ gìn giữ hòa bình ở Nam Sudan và Abyei. Tinh thần đoàn kết đấu tranh cho hòa bình, vì hòa bình đang tỏa sáng ở Châu Phi và nhiều nơi trên thế giới sẽ đưa các quốc gia xích lại gần nhau hơn trên con đường hướng tới tương lai tốt đẹp.

Quang Chuyên - Mạnh Hà - tapchiqptd.vn - 15.06.2022

Quan điểm "Dân là gốc" trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng


1. Quan điểm “dân là gốc” trong Văn kiện Đại hội XIII được đúc rút từ lịch sử và tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tiến trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã chứng minh vai trò to lớn, vị thế quan trọng của nhân dân. Thực tế lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam cho thấy, triều đại nào quan tâm đến lòng dân, ý dân và thực hiện tốt vấn đề dân sinh, tạo được lòng tin của nhân dân, cố kết được dân tâm, huy động được cả nước đồng lòng, góp sức thì cường thịnh và dựng nên nghiệp lớn. Trái lại, triều đại nào chỉ lo cuộc sống xa hoa, “mặc dân khốn khổ, chẳng hề đoái nghĩ”, “nhân dân oán hận mà không biết, lòng người oán trách mà chẳng kinh”, dân chúng chống lại, lòng người ly tán... thì cuối cùng đều phải bại vong. Từ thực tế đó và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa tư tưởng đương thời, nhiều bậc tiền nhân trong lịch sử nước ta đã khẳng định, muốn làm nên nghiệp lớn phải “lấy dân làm gốc”, phản ánh vai trò to lớn của quần chúng nhân dân, như: “trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân” (Lý Công Uẩn); “khoan thư sức dân”, “chúng chí thành thành” (Trần Quốc Tuấn); “lật thuyền mới rõ dân như nước”, do đó phải “yêu nuôi nhân dân, để khắp các nơi làng mạc không có tiếng oán giận, than sầu” (Nguyễn Trãi); “Xưa nay nước lấy dân làm gốc/ Được nước là bởi lẽ được dân”, nên “Thất thiên kim, chớ thất nhân tâm” (Nguyễn Bỉnh Khiêm)...

Mặc dù, về cơ bản vẫn chưa vượt ra ngoài khuôn khổ của hệ tư tưởng phong kiến với nòng cốt là Nho giáo, song yếu tố tiến bộ của những tư tưởng ấy trở thành giá trị văn hóa tinh thần vô giá của dân tộc, để lại bài học quý báu: “Coi trọng dân thì thành công, coi thường dân thì thất bại”.

Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin với quan điểm khoa học: “nhân dân là chủ thể của lịch sử”, “quần chúng là động lực của cách mạng”, “cách mạng là ngày hội của đông đảo quần chúng nhân dân”... Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện “cách mạng hóa” và bổ sung quan điểm “dân là gốc” bằng sức sống thời đại. Người khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(1). Thực tế chứng minh, tin dân, dựa vào dân, biết khơi dậy sự đồng lòng và phát huy ý chí, khát vọng toàn dân tộc mới bảo đảm được sự trường tồn của non sông đất nước. Từ đó, Người chỉ rõ: “Nước lấy dân làm gốc... Gốc có vững cây mới bền/ Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”(2).

Quan điểm “dân là gốc” của Đảng ta chính là sự tiếp nối bài học từ truyền thống dân tộc và kế thừa trực tiếp chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng nhân dân. Mặt khác, những nội dung của quan điểm đó không ngừng được hoàn thiện, ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn từ thực tiễn đổi mới ở Việt Nam. Trong nhiều văn kiện của Đảng đều nhất quán khẳng định vai trò của nhân dân đối với sự thành bại của đổi mới, đồng thời xác định mục tiêu đổi mới là vì nhân dân, chỉ rõ bài học nổi bật: “dân là gốc”, tất cả “vì dân, do dân”, “đổi mới vì hạnh phúc của nhân dân và dựa vào nhân dân để đổi mới”(3).

Tiếp nối tinh thần đó, Văn kiện Đại hội XIII tiếp tục khẳng định: “trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân”; kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”(4).

Điều đó khẳng định, “dân là gốc” là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ cương lĩnh, chủ trương, đường lối, chính sách và phản ánh quan điểm của Đảng về mục tiêu, động lực của công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Mặc dù ở những giai đoạn cụ thể và trong những thời điểm nhất định, cách thức diễn đạt có thể khác nhau, song đều nhất quán khẳng định vai trò quan trọng của nhân dân.

2. Quan điểm “dân là gốc” trong Văn kiện Đại hội XIII mang nội dung toàn diện và sâu sắc, không chỉ khẳng định “vị trí trung tâm”, mà còn nhấn mạnh và đề cao “vai trò chủ thể” của nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng nói chung và trong công cuộc đổi mới đất nước nói riêng.

Một là, khơi dậy và phát huy mọi nguồn lực, sức mạnh của nhân dân để xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân

Xây dựng, phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng, bảo đảm cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân là khát vọng ngàn đời của dân tộc ta. Chăm lo lợi ích và phấn đấu vì hạnh phúc của nhân dân là “mục đích thiêng liêng, lý tưởng cao cả” của Đảng và cũng là “động lực của công cuộc đổi mới đất nước”. “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, “con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” là một trong những đặc trưng bản chất của xã hội XHCN mà chúng ta hướng đến. Do đó, sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta không lấy lợi nhuận của một thiếu số dựa trên sự chiếm đoạt lợi ích cộng đồng làm mục tiêu tối thượng, không vì tăng trưởng kinh tế đơn thuần mà “hy sinh” tiến bộ, công bằng xã hội. Trái lại, phải gắn kết hài hòa kinh tế với văn hóa, xã hội và môi trường; bảo đảm “mỗi chính sách kinh tế phải đi liền với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội”, đồng thời “mỗi chính sách xã hội phải tạo động lực để kinh tế phát triển bền vững”.

Trên tinh thần ấy, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé”, vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm”(5). Thời gian qua, đại dịch Covid-19 tác động tiêu cực đến nền kinh tế đất nước, song Đảng, Nhà nước ta vẫn nhất quán khẳng định “bảo vệ tính mạng, sức khỏe của người dân là trên hết, trước hết” và dành nhiều nguồn lực để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp vượt qua khó khăn của đại dịch. Điều đó thể hiện rõ tính nhân văn, tất cả vì con người, vì nhân dân của chế độ ta, không ai có thể phủ nhận.

Để thực hiện mục tiêu và khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, nhân dân hạnh phúc, phải dựa vào chính sức mạnh, phát huy các nguồn lực to lớn của nhân dân, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “đem tài dân, sức dân mà làm lợi cho dân”, vì “không có lực lượng nhân dân, thì việc nhỏ mấy, dễ mấy, làm cũng không xong, có lực lượng nhân dân, thì việc khó mấy, to mấy, làm cũng được”(6). Thực tiễn cũng đã chứng minh, nhờ phát huy được nguồn lực và sức mạnh to lớn của nhân dân mà công cuộc đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu, lập nên những kỳ tích, ghi dấu ấn đậm nét trong lịch sử dân tộc. Qua 35 năm đổi mới, đất nước phát triển mạnh mẽ, toàn diện trên mọi lĩnh vực; quy mô, chất lượng nền kinh tế không ngừng nâng cao; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân đều được cải thiện rõ rệt; nước ta trở thành điểm sáng trong hoàn thành các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ, được bạn bè quốc tế ca ngợi.

Nhìn lại thực trạng nền kinh tế - xã hội của đất nước những năm trước đổi mới, với nền kinh tế lạc hậu, thấp kém, đời sống nhân dân gặp muôn vàn khó khăn, thách thức, “nhiều nhu cầu chính đáng tối thiểu của nhân dân về đời sống vật chất và văn hóa chưa được bảo đảm”, “công bằng xã hội bị vi phạm”... chúng ta càng tự hào và thấy rõ ý nghĩa lớn lao của những thành quả mà đất nước ta, nhân dân ta bằng ý chí, nỗ lực, quyết tâm để đạt được. Vì thế, “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(7).

Thực tế đó góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo, tạo động lực, khí thế mới, cổ vũ tinh thần lao động sáng tạo, khơi dậy “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” và cống hiến vì sự cường thịnh, trường tồn của dân tộc. Tuy nhiên, các nguồn lực và tiềm năng sáng tạo của nhân dân chưa thực sự được khai thác và phát huy hiệu quả, đời sống của một bộ phận nhân dân chưa hết khó khăn. Vì vậy, một trong những đòi hỏi bức thiết là phải “Tập trung khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, niềm tự hào, ý chí tự cường, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội và khát vọng phát triển đất nước của toàn dân tộc. Xây dựng các cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước của mọi người dân Việt Nam”(8).

Hai là, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; thực hành dân chủ, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân.

Sinh thời, V.I.Lênin từng cảnh báo: “Đối với đảng cộng sản..., thì một trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ nhất là tự cắt đứt liên hệ với quần chúng”(9). Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng căn dặn, Đảng Cộng sản Việt Nam “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phấn đấu”, và “ngoài lợi ích của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích nào khác”. Do đó, “phải dựa vào nhân dân mà xây dựng Đảng. Tức là: hết lòng ra sức phụng sự nhân dân, tin tưởng vào lực lượng của nhân dân, học hỏi nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân và không một phút nào xa rời nhân dân, cùng nhân dân kết thành một khối”(10).

Tiếp nối tinh thần ấy, đồng thời trên cơ sở tổng kết các bài học thành công và chưa thành công từ thực tiễn, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”(11). Vì thế, phải “Thường xuyên tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân, phát huy vai trò của nhân dân và thật sự dựa vào dân để xây dựng Đảng”(12), đồng thời “Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên”(13).

Thực tiễn đã chứng minh, mối liên hệ gắn bó máu thịt với nhân dân là truyền thống của Đảng ta. Chính nhân dân tạo nên sức mạnh của Đảng, cùng Đảng làm nên những kỳ tích lịch sử. Trong những năm đổi mới, việc đối thoại, lắng nghe tâm nguyện của nhân dân được coi trọng; những nguyện vọng, kiến nghị, lợi ích hợp pháp, chính đáng và nhiều vấn đề bức xúc của nhân dân được giải quyết kịp thời đã góp phần củng cố, tăng cường mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân, vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng không ngừng được phát huy.

Quan điểm “dân là gốc” cũng được quán triệt trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, từ hoạch định chính sách đến tổ chức thực hiện. Bằng chứng thực tế là, Quốc hội “thực sự là cơ quan quyền lực, đại biểu cao nhất của nhân dân”; nền hành chính nhà nước ngày càng “chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch, dân chủ, vì dân”; nền tư pháp không ngừng hướng đến “công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”; nền dân chủ xã hội chủ nghĩa từng bước được hiện thực hóa, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy; cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” đi vào thực chất và vận hành hiệu quả hơn.

Trong bối cảnh mới hiện nay, một trong những nhiệm vụ và yêu cầu bức thiết đặt ra là phải tiếp tục thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân, không ngừng củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ, tăng cường đồng thuận xã hội. Do đó, phải “có cơ chế phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới” và không ngừng “thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân”.

Ba là, dựa vào nhân dân để bảo vệ thành quả của công cuộc đổi mới, vì cuộc sống yên bình, hạnh phúc của nhân dân

Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật của sự hình thành, phát triển dân tộc Việt Nam. Xây dựng CNXH gắn liền với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài của cách mạng nước ta hiện nay. Tạo lập căn cứ vững chắc trong lòng dân, xây dựng lực lượng quân sự hùng hậu bằng sức mạnh của nhân dân; lấy làng xã làm pháo đài, dựa vào dân để chiến đấu là một trong những nghệ thuật quân sự đặc sắc, là cách thức xây dựng quân đội để bảo vệ Tổ quốc rất hiệu quả của người Việt từ xưa đến nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, sự đồng lòng của nhân dân sẽ “đúc thành một bức tường đồng” vững chắc, mà bất cứ kẻ địch nào đụng phải đều cam chịu thất bại. Từ truyền thống lịch sử và thực tiễn cách mạng, Đảng và Nhà nước ta khẳng định, quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Do đó, phải chú trọng củng cố “thế trận lòng dân” một cách vững chắc trên nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và sự đồng thuận xã hội. Văn kiện Đại hội XIII xác định: Xây dựng “thế trận lòng dân”, kết hợp với xây dựng “thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân” vững chắc làm nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”(14).

Thực tiễn những năm qua đã chứng minh một cách hùng hồn, “lòng dân” là cội nguồn sức mạnh, quyết định sự thành bại của công cuộc đấu tranh bảo vệ thành quả xây dựng đất nước, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia. Tin vào dân, quy tụ được lòng dân, khơi dậy và phát huy sức mạnh toàn dân tộc là nhân tố quan trọng đảm bảo an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân”.

Trước bối cảnh trong nước và quốc tế nhiều biến động rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo hiện nay, để xử lý tốt các vấn đề an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống, giữ vững “chủ quyền số quốc gia trên không gian mạng”, tạo “vành đai an ninh”, ngăn ngừa từ sớm, từ xa các nguy cơ gây bất ổn xã hội, “lo giữ nước từ lúc nước chưa nguy” để không bị động, bất ngờ trước mọi tình huống, bảo vệ vững chắc Tổ quốc cùng những thành quả của công cuộc đổi mới, thì còn phải dựa vào nhân dân, khai thác mọi nguồn lực trong dân, phát huy tiềm năng, sức mạnh toàn dân tộc. Đó là “nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên” của Đảng, Nhà nước và của cả hệ thống chính trị. Mặt khác, phải dựa vào dân để “xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại” với ba trụ cột là “đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân”, tạo nên thế trận liên hoàn, sức mạnh tổng hợp để bảo vệ cuộc sống yên bình, hạnh phúc của nhân dân.

3. Quan điểm “dân là gốc” sẽ tiếp tục định hướng công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam

Quán triệt quan điểm “Dân là gốc” trước yêu cầu của đất nước trong bối cảnh mới, Văn kiện Đại hội XIII đã chỉ rõ, phải thực hiện nghiêm túc và hiệu quả phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”:

Để thực hiện phương châm “dân biết”, cần công khai, minh bạch, dân chủ trong hoạch định và thực thi chủ trương, đường lối, chính sách, trước hết là sự công khai, minh bạch về thông tin, bảo đảm “quyền được thông tin và cơ hội tiếp cận thông tin của nhân dân”; đáp ứng “quyền được biết” của người dân về những chính sách liên quan trực tiếp đến đời sống, sinh kế của họ. Đồng thời, phải không ngừng nâng cao dân trí kết hợp với đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền để mọi người dân nắm bắt kịp thời, hiểu biết đúng đắn các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng như quyền lợi và trách nhiệm công dân.

Trong nhân dân cũng có nhiều bộ phận, với trình độ, hiểu biết không đồng đều, năng lực không giống nhau. Do đó, chủ trương, chính sách đúng nhưng dân chưa hiểu, chưa đồng tình thì cần phải kiên trì tuyên truyền, giải thích cho dân để dân biết, dân hiểu, tạo sự đồng thuận, nhất trí từ nhận thức đến hành động. Thực hiện tốt phương châm “dân biết” sẽ là tiền đề cần thiết để thực hiện phương châm “dân bàn”, bởi biết mới có thể bàn, và bàn trên cơ sở của sự hiểu biết mới mang lại hiệu quả thực sự.

Để thực hiện phương châm “dân bàn”, cần tạo lập môi trường dân chủ, khơi dậy tính tích cực của mỗi công dân, bảo đảm điều kiện để nhân dân được tham gia vào các công việc của Đảng, Nhà nước và xã hội; tham gia đóng góp ý kiến trong mọi khâu của quá trình, từ hoạch định đến tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhắc nhở, không được coi thường dân, cho dân là dốt nên không thèm bàn bạc, mà trái lại, “việc gì cũng phải bàn với dân”, “coi trọng ý kiến của nhân dân”, bởi “dân chúng có nhiều sáng kiến mà những người tài giỏi nghĩ mãi không ra”. Do đó, phải “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước”(15). Khi dân đã được biết, được bàn và hiểu rõ, họ sẽ chủ động, tích cực, tự giác, ra sức thực hiện trên tinh thần vui vẻ, đồng thuận và “nhất định việc gì cũng thành công”.

Để thực hiện phương châm “dân làm”, mọi đường lối, chính sách đều phải hợp lòng dân, bởi “Được lòng dân, thì việc gì cũng làm được/ Trái ý dân, thì chạy ngược chạy xuôi”(16). Khi nhân dân nhận thấy chủ trương, đường lối phản ánh đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình, họ sẽ tiếp nhận, ủng hộ và tích cực tham gia thực hiện. Muốn vậy, mọi công việc đều phải vì lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, lấy lợi ích và sự hài lòng, tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chuẩn đánh giá chất lượng, hiệu quả công việc của các cơ quan, tổ chức cũng như của mỗi cán bộ, đảng viên.

Mặt khác, trong mọi công việc, cán bộ phải đi đầu, nêu gương làm trước theo đúng tinh thần “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Đồng thời, cần tạo điều kiện công bằng, bình đẳng để mọi người dân được tiếp cận với các cơ hội phát triển, được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, được cống hiến tài năng và công sức cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Để thực hiện phương châm “dân kiểm tra, dân giám sát”, cần hoàn thiện thể chế; xây dựng hệ thống pháp luật chặt chẽ và thi hành pháp luật một cách nghiêm minh, công bằng, chính trực; thực hiện trách nhiệm giải trình của các cơ quan, tổ chức và của từng cá nhân cán bộ lãnh đạo quản lý trước nhân dân. Mặt khác, mọi phát hiện đúng đắn của nhân dân về các sai phạm, quan liêu, tham ô, tham nhũng, tiêu cực... phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh, “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ” để củng cố niềm tin của nhân dân về quyền được kiểm tra, giám sát đối với mọi công việc của các cơ quan, tổ chức; thường xuyên đối thoại, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân trên tinh thần cầu thị, tập trung giải quyết các khó khăn, bức xúc của nhân dân về đời sống, việc làm, đất đai, môi trường... nghiêm cấm sự trù dập dân dưới mọi hình thức. Do đó, phải “Đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở; xây dựng và thực hiện phong cách làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, trọng dân, gần dân, hiểu dân, vì dân, bám sát thực tiễn, cầu thị, học hỏi, nói đi đôi với làm”(17).

Để thực hiện phương châm “dân thụ hưởng”, cần bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội bền vững, hài hòa; hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, thực hiện xóa đói, giảm nghèo bền vững; bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, quan tâm đến mọi người dân, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, giải quyết tốt chính sách lao động, việc làm, nâng cao thu nhập, đồng thời thực hiện tốt và chú trọng nâng cao phúc lợi xã hội, trợ giúp cho các nhóm đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương. Phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm bình đẳng về cơ hội phát triển, giải quyết hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, “bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng” và không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân, “không để ai bị bỏ lại phía sau” trên con đường phát triển chung của đất nước.

“Dân là gốc” là một trong những nội dung cốt lõi, xuyên suốt trong Cương lĩnh, đường lối của Đảng ta. Đó không phải sự sao chép từ bất cứ học thuyết có sẵn nào mà thể hiện sự kế thừa, tiếp nối bài học từ chiều sâu lịch sử dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong Văn kiện Đại hội XIII, quan điểm “dân là gốc” được bổ sung toàn diện, phong phú và sâu sắc hơn, phản ánh tính khoa học và cách mạng, tính nhân văn và sáng tạo trong nhận thức lý luận của Đảng. Quan điểm đó tiếp tục định hướng công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước ta trong bối cảnh hiện nay.

__________________

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.453.

(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.501-502.

(3) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.50, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2007, tr.550.

(4), (7), (8), (13), (14), (15), (17) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.96-97, 25, 47, 191-192, 9, 71, 198-199.

(5) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.21.

(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.176.

(9) V.I.Lênin: Toàn tập, t.41, Nxb Chính trị quốc gia  Sự thật, Hà Nội, 2006, tr.426.

(10), (16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.281, 163.

(11) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.65.

(12) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.226.

TS Phan Mạnh Toàn - lyluanchinhtri.vn - 11.06.2022