Thứ Tư, 3 tháng 8, 2022

Nhiệm vụ trọng tâm trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống

 Một là, tiếp tục quán triệt nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên vềtính tự giác trong nhận diện những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,“tự chuyển hóa” trong nội bộ gắn chặt với việc đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh.

Thực hiện các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp; cam kết rèn luyện giữ gìn phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, không “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Nâng cao tính thuyết phục trong giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận, trách nhiệm của mình trước Đảng, trước nhân dân, luôn vững vàng trước khó khăn, thử thách và không bị cám dỗ bởi tiền tài, danh vọng để thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ, luôn giữ gìn phẩm chất đạo đức trong sáng, có lối sống lành mạnh, tiết kiệm, đặt lợi ích chung, lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết.

 Khơi dậy ý thức tự giác trong nêu gương; tự giác trong nhận diện những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; thực sự cầu thị trong tự phê bình, “tự soi, tự sửa”; thắng thắn, chân thành trong phê bình đồng chí, đồng nghiệp, cấp trên với tinh thần xây dựng, trên tinh thần đồng chí; tự giác học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh mỗi ngày; tự giám sát, kiểm tra, tự nhận trách nhiệm, khuyết điểm và hình thức kỷ luật để tích cực khắc phục, sửa chữa.

Chú trọng nghiên cứu hệ quan điểm lý luận sắc bén để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; đấu tranh, phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, những phần tử bất mãn, cơ hội chính trị.

Đổi mới phương pháp, quy định rõ trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng, phổ biến pháp luật cho cán bộ, đảng viên; thông tin kịp thời, làm tốt công tác định hướng dư luận. Tập trung đổi mới căn bản, toàn diện công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới cho đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu các cấp.

 

  Hai lànâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; thực hiện nghiêm túc, đúng quy trình công tác kiểm điểm, tự phê bình và phê bình đối với tập thể, cá nhân và đánh giá, phân loại chất lượng tổ chức đảng, đảng viên gắn với việc nhận diện những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ

Phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt tư tưởng, tạo nên sự đoàn kết, thống nhất trong công tác, nhiệm vụ được giao. Trong công tác kiểm điểm, thực hiện theo trình tự cấp trên kiểm điểm trước để làm gương cho cấp dưới; tập thể kiểm điểm trước, cá nhân kiểm điểm sau. Sau kiểm điểm, kết quả kiểm điểm phải được thông báo đến những tập thể đã góp ý kiến trước khi kiểm điểm. Cấp dưới báo cáo kết quả kiểm điểm với cấp trên. Những nơi kiểm điểm không đạt yêu cầu, cấp uỷ cấp trên chỉ đạo kiểm điểm lại.

Thực hiện tự phê bình và phê bình cần khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, dị hoà vi quý; “nói không đi đôi với làm”, “nói nhiều, làm ít”, làm hình thức, đối phó; một số cán bộ, đảng viên, nhất là một bộ phận cán bộ đứng đầu cấp uỷ, chính quyền các cấp còn thiếu gương mẫu, chưa tự giác nhận đúng mức khuyết điểm và trách nhiệm của mình được giao phụ trách.

Tăng cường công tác xây dựng, củng cố, đánh giá, phân loại tổ chức đảng và đảng viên hàng năm phải được tiến hành thường xuyên, liên tục đảm bảo theo tiêu chí và quy định của Điều lệ Đảng. Phải gắn trách nhiệm của cấp uỷ, người đứng đầu với kết quả triển khai thực hiện xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh.

 

Ba là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ

Chú trọng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Đổi mới trong công tác nhận xét, đánh giá cán bộ bằng “sản phẩm”, coi kết quả đánh giá cán bộ là tiêu chí quan trọng nhất để thực hiện quy hoạch, điều động, bổ nhiệm cán bộ. Đề bạt, sử dụng người có đức, có tài, dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới, sáng tạo, dám chịu trách nhiệm; kiên quyết không bổ nhiệm và kịp thời điều chuyển, thay thế những cán bộ làm việc kém hiệu quả, không hoàn thành nhiệm vụ, yếu về năng lực, kém về phẩm chất đạo đức, lối sống, tín nhiệm thấp mà không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác, nhất là người đứng đầu.

Nghiên cứu xây dựng các cơ chế, chính sách ưu đãi cán bộ phù hợp thực tiễn phát triển của đất nước. Thực hiện hiệu quả chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, sử dụng chuyên gia giỏi ở các lĩnh vực, chú ý quan tâm bồi dưỡng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số. Tiếp tục thực hiện mô hình một số chức danh lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã không phải là người địa phương.

Tiếp tục đổi mới, kiện toàn và từng bước hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động gắn với nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Nghiên cứu sửa đổi quy định về phân cấp quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ, công chức, viên chức trong toàn bộ hệ thống chính trị.

Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng chính phủ, chính quyền điện tử gắn với hoạt động của Trung tâm phục vụ hành chính công của các bộ ngành, địa phương một cách có hệ thống và đồng bộ, kết nối với hệ thống dữ liệu quốc gia. Giảm tối đa thời gian, chi phí thực hiện các thủ tục hành chính. Tăng cường phân cấp, làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cấp, từng ngành, từng địa phương, đơn vị để phục vụ nhân dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn, hiệu quả hơn.

 

Bốn là, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và nhân dân, thật sự dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh; phòng, chống, ngăn chặn suy thoái về tư tưởng chính trị đạo đức, lối sống trong Đảng là vấn đề có tính nguyên lý cần được quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc trong toàn Đảng và hệ thống chính trị.

Chú trọng việc thể chế hoá và thực hiện nghiêm trách nhiệm của Đảng, tổ chức đảng, đảng viên được quy định trong Hiến pháp 2013 và được xác định rõ trong Văn kiện Đại hội XIII: Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Các tổ chức đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân. Sớm thể chế hoá nguyên tắc “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát, dân thụ hưởng”

Xây dựng cơ chế dựa vào dân để xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh: Cơ chế để nhân dân tiến cử những người có đủ đức, tài vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Có hình thức thích hợp, lấy ý kiến góp ý của nhân dân trước khi bổ nhệm cán bộ.Phát huy vai trò của nhân dân trong việc giám sát, đánh giá cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là những người có chức vụ, quyền hạn, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt các cấp. Tiếp tục thực hiện tốt hơn công tác tiếp công dân, tiếp nhận xử lý thông tin và các khiếu nại, tố cáo của cán bộ đảng viên và nhân dân liên quan đến công tác cán bộ; đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; chống cửa quyền, hách dịch, thiếu trách nhiệm với nhân dân.

Thực hiện có hiệu quả hơn Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Xây dựng chế độ công tác, quy trình ban hành quyết định của Đảng, Nhà nước, trong đó quy định rõ vai trò của Mặt trận Tổ quốc các cấp. Mặt trận Tổ quốc các cấp có nhiệm vụ chủ trì phản biện công khai đối với các quyết sách liên quan đến lợi ích thiết thực, chính đáng của nhân dân. Phải có cơ chế tạo điều kiện để nhân dân có thể tham gia ngay từ đầu quá trình xây dựng chính sách, giám sát quá trình thực hiện chính sách, xây dựng và giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ được giao trách nhiệm tổ chức thực hiện chính sách cho nhân dân. Tăng cường giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên trong công tác và cuộc sống.

- Tiếp tục đổi mới và thực hiện nghiêm quy định người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền các cấp tiếp dân, đối thoại, tự phê bình và phê bình, kiểm điểm thực hiện chức trách trước nhân dân. Xây dựng cơ chế khuyến khích, bảo vệ, tôn vinh người phát hiện, tố giác và tích cực đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Đề xuất quan điểm về đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống

Một là, kiên quyết, kiên trì với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn; phát huy sự chủ động, sáng tạo và sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong công tác đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là vấn đề cơ bản, cốt lõi trong xây dựng và phát triển đất nước, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Hai là, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện một cách quyết liệt, đồng bộ, thường xuyên về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ là nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và hệ thống chính trị.

 

Ba là, phải kết hợp tốt giữa “xây” và “chống”, trong đó "xây" là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài và có ý nghĩa quyết định; "chống" là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. Chủ động, tích cực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động, các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị.

 

Bốn là, tăng cường sự lãnh đạo và đoàn kết, thống nhất trong Đảng, vai trò nêu gương của cán bộ, trước hết là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính tri, Ban Bí thư, cấp uỷ và Ban Thường vụ cấp uỷ các cấp. Thực hành dân chủ và phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ; kỷ cương, kỷ luật của Đảng; chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực trong toàn bộ hệ thống chính trị.

Năm là, tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cần phải được thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các công cụ và biện pháp về chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kiểm tra, giám sát, pháp luật và công nghệ.

Thứ Ba, 2 tháng 8, 2022

Một số vấn đề đặt ra trong thực tiễn đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ

 

Thứ nhất, việc nhận thức, nhận diện 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, nhất là 9 biểu hiện sự suy thoái về đạo đức, lối sống của cá nhân đảng viên vẫn còn lúng túng, chưa thật rõ, chưa sát thực tiễn, còn rập khuôn, thiếu tính khả thi, nhất là trong việc xác định, lựa chọn các vấn đề trọng tâm, nổi cộm để giải quyết trong từng trường hợp, đối tượng cụ thể. Chưa xây dựng được hệ giá trị chuẩn mực đạo đức theo tinh thần “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” cho phù hợp với truyền thống văn hoá của dân tộc Việt Nam và trong điều kiện mới hội nhập quốc tế, làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự tu dưỡng, rèn luyện và ứng xử trong công tác và cuộc sống. Công tác giáo dục, bồi dưỡng về đạo đức công vụ chưa được chú trọng trong các cơ sở, đơn vị đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị.

Thứ hai, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp uỷ, tổ chức đảng chưa thường xuyên, thiếu kiên quyết, quyết liệt; việc giám sát, kiểm tra, nhận diện, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ còn hạn chế, nhất là việc đánh giá kết quả, xác định trách nhiệm cá nhân thực hiện cam kết, kế hoạch hành động của từng cá nhân đảng viên trong khắc phục khuyết điểm của hậu kiểm điểm còn thiếu cụ thể, kéo dài, chung chung, thiếu tính thuyết phục; vẫn còn tình trạng coi vấn đề diễn biến tư tưởng xẩy ra ở đâu đó, chứ không phải trong cơ quan, đơn vị mình, địa phương mình, đồng chí mình vẫn còn nhiều chưa có biện pháp khắc phục.

Thứ ba, chất lượng sinh hoạt chi bộ còn rất hạn chế, nội dung sinh hoạt đảng nhiều nơi còn hình thức, chất lượng thấp; việc đưa nội dung học tập, quán triệt, tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, Chỉ thị 05, Quy định nêu gương, Quy định về tu dưỡng rèn luyện đạo đức, lối sống vào sinh hoạt chi bộ hàng tháng có nhiều nơi vẫn còn hình thức, hiệu quả thấp. Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”; việc đấu tranh, phê phán, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch, để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nhất là trên môi trường mạng internet, mạng xã hội còn nhiều khó khăn, bất cập, thiếu đồng bộ trong phối hợp lực lượng, thiếu công cụ sắc bén, kỹ thuật công nghệ hiện đại, thông minh để ngăn chặn, xoá bỏ các thông tin xấu độc làm ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

   Thứ tư, một số cán bộ, đảng viên nhận thức và thực hành công tác kiểm điểm tự phê bình và phê bình với bản thân mình, đồng chí mình, đồng nghiệp thiếu sâu sắc, còn biểu hiện né tránh, nể nang, dĩ hoà vi quý, ngại va chạm, nhất là việc nêu gương của cán bộ chủ chốt, người đứng đầu ở các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị chưa nghiêm, thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm trong công việc của mình được giao, còn hiện tượng vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống phải kỷ luật; hiện tượng đảng viên bỏ sinh hoạt, xin ra khỏi đảng có dấu hiệu gia tăng(như đảng viên sau khi xuất ngũ về địa phương, đảng viên về hưu, đảng viên đi làm ăn xa gia đình, xa nơi cư trú…)

Thứ năm, vấn đề sắp xếp tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị ở một số bộ, ngành, địa phương thiếu đồng bộ, bất cập, hiện tượng nhập vào rồi lại tách ra đang diễn ra, gây tâm lý xấu, bất bình trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Việc bố trí một số cán bộ chủ chốt ở một số ban, bộ, ngành, địa phương còn lúng túng, khó khăn; vẫn còn tình trạng bổ nhiệm sai, có trường hợp vừa mới được bầu vào cấp uỷ các cấp, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp của nhiệm kỳ mới…, đã bị xử lý kỷ luật đều liên quan đến những biểu hiện của sự suy thoái, tham nhũng, tiêu cực. Việc phân định thẩm quyền, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của người đứng đầu với tập thể cấp uỷ, lãnh đạo cơ quan đơn vị chưa rõ ràng. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có nơi còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng trên một số lĩnh vực liên quan đến đất đai, bất động sản, tài chính, đầu tư công, xây dựng cơ bản, y tế, giáo dục… biểu hiện của “lợi ích nhóm”, “tham nhũng chính sách” tập trung vào số đảng viên có chức vụ, quyền hành trong bộ máy nhà nước cấu kết với các thế lực làm ăn bất chính, rửa tiền… gây bức xúc trong nhân dân.

Những vấn đề nêu trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó, nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.

Nguyên nhân khách quan: Từ mặt trái của kinh tế thị trường, trong điều kiện của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã xuất hiện những hoạt động lợi dụng sự phát triển của khoa học công nghệ thông tin, mạng internet, mạng xã hội, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế sâu rộng. Nhiều vấn đề mới, phức tạp nảy sinh từ thực tiễn chưa được lý giải một cách có cơ sở khoa học, khách quan và chưa được xử lý kịp thời, hiệu quả. Hơn nữa các thế lực thù địch, phản động thường xuyên đẩy mạnh thực hiện chiến lược công kích trên mặt trận tư tưởng, lợi dụng triệt để vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc, tôn giáo” và những yếu kém, sơ hở, mất cảnh giác của ta để xuyên tạc, bóp méo tình hình, tạo nên“ điểm nóng”, phức tạp; đồng thời, chúng còn ra sức cấu kết với các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị hoạt động ráo riết, chống phá Đảng, Nhà nước và cuộc sống của nhân dân ta ngày càng tinh vi, xảo quyệt với nhiều thủ đoạn thâm độc, nguy hiểm nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ giữa nhân dân với Đảng.

Nguyên nhân chủ quan: Tình trạng suy thoái ở một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn diễn biến hết sức phức tạp, trước hết là do bản thân cán bộ, đảng viên đó không tu dưỡng, rèn luyện về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, giao động trước những tác động từ bên ngoài; sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, có lối sống buông thả, thoái hoá, coi thường kỷ luật, kỷ cương. Chưa thật sự đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên; chưa tạo được sự thống nhất cao trong nhận thức về tình trạng suy thoái, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” và hậu quả gây ra. Sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ ở nhiều nơi hình thức, đơn điệu, thiếu tính chiến đấu. Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu các cấp chưa có quyết tâm chính trị cao, chưa kiên trì, kiên quyết trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái; một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trong đó có cả cán bộ cao cấp thiếu tiên phong, gương mẫu, nêu gương trước cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về xây dựng Đảng không theo kịp tình hình thực tế, nhiều vấn đề mới, khó chưa được nghiên cứu làm sáng tỏ. Chưa chú trọng xây dựng, tuyên truyền, cổ vũ, nhân rộng những mô hình, điển hình tiên tiến, lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực. Công tác quản lý cán bộ, đảng viên còn thiếu chặt chẽ. Nguyên tắc tập trung dân chủ ở nhiều nơi bị buông lỏng; nguyên tắc tự phê bình và phê bình thực hiện không nghiêm, chưa có cơ chế để bảo vệ người dám đấu tranh phê bình; chậm ban hành quy định xử lý tổ chức, cá nhân có biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Chưa xây dựng được cơ chế “dựa vào dân để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”.

Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ

 Nhận thức lý luận về đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ

Thứ nhất, việc ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, thời gian tới có phạm vi rộng hơn, toàn diện hơn, không chỉ trong nội bộ Đảng mà còn mở rộng ra cả hệ thống chính trị. Phạm vi, đối tượng thực hiện không chỉ đối với cán bộ, đảng viên trong Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc mà cả những đoàn viên, hội viên trong các tổ chức chính trị - xã hội trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại, hội nhập quốc tế của đất nước trong tình hình mới

Thứ hai, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ không chỉ về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống mà còn cả lĩnh vực tổ chức và cán bộ. Đổi mới công tác đánh giá cán bộ; coi trọng cả đức và tài, trong đó đức là gốc; vừa đào tạo, bồi dưỡng trong trường lớp vừa rèn luyện, thử thách trong thực tiễn, nhất là ở những địa bàn, lĩnh vực khó khăn, gian khổ; kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa số lượng, chất lượng và cơ cấu, giữa tính phổ biến và tính đặc thù phù hợp với từng chức danh, nhiệm vụ của cán bộ được giao. Chú trọng việc tự tu dưỡng rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên trong cuộc sống và công tác.

Thứ ba, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong Đảng. Coi trọng việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, chức vụ càng cao, càng phải nêu gương. Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc Việt Nam; nâng cao ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời và nêu cao danh dự, lòng tự trọng của người đảng viên cộng sản.

Thứ , mỗi cán bộ đảng viên, đoàn viên, hội viên cần phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhận thức đầy đủ, sâu sắc bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa - dân chủ thực chất, dân chủ được thể hiện trong thực tế để xây dựng môi trường dân chủ trong Đảng và trong xã hội, thực hành và phát huy dân chủ đi đôi với giữ gìn kỷ luật, kỷ cương xã hội.

Thứ năm, tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; chủ động phòng, chống "diễn biến hòa bình", những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, những thông tin xấu, độc, xuyên tạc trên Internet, mạng xã hội. Phát huy sức mạnh tổng hợp, tạo nên hiệu quả thiết thực trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chủ động phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ

 



Tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh “Phải gắn xây dựng, chỉnh đốn Đảng với xây dựng hệ thống chính trị theo đúng tinh thần Đại hội XIII của Đảng; cùng với ngăn chặn, đẩy lùi thì phải tích cực phòng ngừa và chủ động, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm minh sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những hành vi tham nhũng, tiêu cực”.

Đồng thời “bổ sung, hoàn thiện thêm một số nội dung quan trọng về rèn luyện tư tưởng chính trị, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, góp phần ngăn ngừa và khắc phục một cách mạnh mẽ hơn và quyết liệt hơn những biểu hiện suy thoái, tiêu cực; giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Đảng”. Đó chính là các chủ trương, đường lối mới của Đảng trong việc ngăn chặn "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ là quá trình diễn biến bên trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, theo hướng tiêu cực, từ tiến bộ sang lạc hậu. Nếu không ngăn chặn, khắc phục kịp thời có thể dẫn đến làm biến chất cán bộ, đảng viên, biến chất Đảng và chế độ xã hội, trượt sang quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Có nghĩa là bị mòn dần, xa dần những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội, rồi biến chất. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng nói: “Cứ bào mòn dần, mòn dần từng bước như thế rồi sẽ dẫn tới đâu? Nói “thoái hoá” là như thế, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” là thế”. Điều đó biểu hiện:

Trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị diễn ra rất phức tạp, đa dạng, nhiều cấp độ, như: Phai nhạt lý tưởng cách mạng, dao động về lập trường, quan điểm chính trị, sa sút ý chí chiến đấu, mơ hồ, hoài nghi về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; phủ nhận các giá trị truyền thống cách mạng, đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; không thực hiện đúng nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng, nói và làm trái với đường lối, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao; vi phạm những điều quy định đảng viên không được làm; thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, can ngăn, thậm chí có cá nhân ý thức chính trị kém, bị các thế lực thù địch lợi dụng lôi kéo, phụ hoạ, cổ súy cho những nhận thức, quan điểm sai trái, lệch lạc, chống phá sự nghiệp cách mạng, gây tổn hại đến uy tín và vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước ta.

Trên lĩnh vực kinh tế là biểu hiện phủ nhận và làm thay đổi kinh tế xã hội chủ nghĩa bằng kinh tế tư bản chủ nghĩa, phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tìm cách hạ thấp, làm mất vai trò quản lý kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa; đòi đẩy nhanh tư nhân hoá nền kinh tế, xoá bỏ chế độ công hữu tư liệu sản xuất, thay bằng chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa...

Trên lĩnh vực văn hoá, xã hội, đạo đức, lối sống là biểu hiện sùng bái, chạy theo lối sống tư sản; từ bỏ các giá trị văn hoá, đạo đức truyền thống dân tộc, các giá trị xã hội chủ nghĩa; xuyên tạc trắng trợn lịch sử, phủ nhận nền văn hoá; thương mại hoá các hoạt động văn hoá một cách thái quá, đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc; đề cao chủ nghĩa cá nhân, thói đạo đức giả, vị kỷ, xa hoa, trụy lạc,...

Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh là biểu hiện bóp méo, xuyên tạc thay đổi bản chất nền quốc phòng, thay đổi bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang, quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản; đánh đồng bản chất Quân đội nhân dân Việt Nam với bản chất quân đội tư sản...; chống phá về đường lối, chính sách quốc phòng, an ninh, thúc đẩy chuyển hoá lực lượng vũ trang, thực hiện “phi chính trị hoá” quân đội và công an; lợi dụng chính sách mở cửa, hợp tác, hội nhập để thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” từ bên trong. Tuyên truyền xuyên tạc các vấn đề nội bộ của quốc gia, hướng dư luận quốc tế ủng hộ cho mục đích can dự lật đổ từ bên ngoài của các thế lực thù địch.

Thời gian gần đây các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài móc nối với các đối tượng phản động trong nước tăng cường thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; chúng đã lập hàng nghìn trang web, blog, trang Facebook, Fanpage, Youtube, hàng trăm cơ quan báo chí, nhà xuất bản và các đài phát thanh, truyền hình có trụ sở, máy chủ ở nước ngoài để xuyên tạc, vu khống tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong nước, nhằm tạo sự hoài nghi, gây mất lòng tin của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bởi vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta phải luôn tỉnh táo, cảnh giác, nhận diện đúng và chủ động đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn, loại bỏ, nếu không chính mỗi cá nhân chúng ta có thể bị dính vào "bẫy" thông tin xấu, độc của kẻ thù khi nào không biết, dẫn đến "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống...

 Do đó, để kịp thời ngăn chặn, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ có hiệu quả, cấp ủy đảng các cấp cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau: Thường xuyên tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên về lập trường, mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kịp thời thông tin, tuyên truyền cung cấp thông tin chính thống, định hướng nhận thức đúng đắn cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân về những vấn đề được dư luận quan tâm, không để các thế lực xấu lợi dụng xuyên tạc, kích động, chống phá. Đồng thời, luôn giữ gìn, củng cố đoàn kết, thống nhất vững chắc trong  cấp ủy cơ quan, đơn vị, địa phương gắn với tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm minh những sai phạm theo quy định của pháp luật, đặc biệt là các biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên.

Bên cạnh đó, không ngừng nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng gắn với giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, do đó cấp uỷ, tổ chức đảng phải tiếp đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt cấp uỷ, chi bộ theo hướng đổi mới, lựa chọn, xác định nội dung trọng tâm để sinh hoạt định kỳ, đột xuất, tránh chung chung, qua loa, đại khái. Trong sinh hoạt đảng, cấp uỷ cần định hướng chi bộ nhấn mạnh, đi sâu thảo luận, làm rõ, giải quyết dứt điểm, thấu đáo có lý, có tình những vấn đề về tư tưởng, đạo đức có thể phát sinh trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ chuyên môn của cơ quan, đơn vị, địa phương cũng như trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao theo vị trí việc làm của cán bộ, đảng viên. Mặt khác, cấp uỷ, người đứng đầu cấp uỷ cần tăng cường kiểm tra, giám sát hoặc trực tiếp chỉ đạo kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng. Mức độ tuân thủ và chấp hành tốt các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng, ý thức tổ chức, kỷ luật, các quy chế, quy định của Đảng, của cấp uỷ, chi bộ là tiêu chí quan trọng để đánh giá lập trường, quan điểm, tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên. Đây là biện pháp rất quan trong trong việc chủ động phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ hiện nay.

Vấn đề “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ dễ dấn đến vấn đề “diễn biến hoà bình”

          Ở Việt Nam hiện nay,  sự chống phá của các thế lực thù địch với âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” đang ra sức thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, nhằm chia rẽ nội bộ Đảng và phá hoại mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân, làm mất uy tín của cán bộ, đảng viên, làm giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng với nhiều cách thức ngày càng tinh vi, khó nhận diện. Chẳng hạn, chúng lợi dụng những sự kiện lớn của đất nước và một số vụ việc (gần đây nhất là các sự kiện giàn khoan 981 hay giàn khoan Hải dương địa chất 8 của Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Việt Nam, sự kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, hay các vụ án liên quan đến tham nhũng, vấn đề nước sạch, môi trường… để nói xấu, bôi nhọ, đả kích nhằm kích động tinh thần, kích động biểu tình, tung tin thất thiệt, gây hoang mang dư luận. Điều đó đã làm cho một số cán bộ, đảng viên không đủ tỉnh táo, lập trường không vững vàng, không biết cách chọn lọc thông tin, nhận thức không đầy đủ, đúng đắn đã dễ dàng “bị phần tử xấu lợi dụng lôi kéo, kích động, xúi giục, mua chuộc đã có những tư tưởng, việc làm chống đối Đảng, Nhà nước”, có những bình luận, suy diễn, công khai cổ suý cho những nhận định sai trái, thiếu khách quan về một số sự kiện có liên quan đến lịch sử cách mạng, hoặc một số cá nhân lãnh đạo với dụng ý xấu và vô tình trở thành công cụ tiếp tay cho âm mưu của chúng. Trong số đó có cả cán bộ đã từng cống hiến lâu năm cho cách mạng, cán bộ có vị trí xã hội, cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, hoặc có những bất mãn cá nhân bị các thế lực xấu ở trong và ngoài nước tâng bốc, lôi kéo, nhồi nhét những tư tưởng xuyên tạc. Họ đã trở thành những người đi ngược lại với dân tộc, phản bội Tổ quốc, tiếp tay cho địch phát tán tài liệu, truyền bá những quan điểm sai trái với chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước. 

           Nhìn nhận thẳng thắn những vấn đề trên, ta thấy rằng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ hiện nay có quan hệ chặt chẽ   với “diễn biến hòa bình”. “Diễn biến hòa bình” đang lợi dụng khoét sâu, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đến lượt nó “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” lại thúc đẩy “diễn biến hòa bình”, trong đó “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là nhân tố bên trong quan trọng nhất. Nếu nhìn tổng thể thì có thể thấy âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch hòng chuyển hoá chế độ ta bằng “diễn biến hoà bình” là hết sức nguy hiểm, trong đó nguy hiểm nhất là khai thác những mầm mống và khả năng “tự diễn biến” để chuyển hoá ta cả về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, đạo đức, lối sống.
           Trên co sở nhân thức rõ mối liên quan mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau giữa các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên;  biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; âm mưu “diễn biến hoà bình” của kẻ thù hiện với những bước đi nguy hiểm, khó lường, yêu cầu việc nhận diện, đấu tranh phòng chống các biểu hiện trên cần phải phối hợp và thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp trong đó, đặc biệt chú trọng các giải pháp trong công tác cán bộ, bởi “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng ví tác hại của loại giặc “nội xâm” này chẳng khác nào như cỏ dại đối với lúa; muốn lúa tốt thì phải nhổ cỏ cho sạch, nếu không thì dù cày bừa có kỹ, bón phân nhiều thì lúa vẫn xấu vì bị cỏ át đi. Đúng như vậy, hiện nay chúng ta đang chứng kiến một cuộc chiến đấu chống giặc “nội xâm” được diễn ra mạnh mẽ, quyết liệt nhưng lại rất sâu sắc, không ồn ào, thể hiện trong mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi đơn vị, mỗi địa phương, đến tất cả mọi lĩnh vực rộng lớn của đời sống xã hội. Ngay từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng đã thẳng thắn chỉ ra 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và bốn hệ thống giải pháp; tập trung xây dựng và chỉnh đốn đội ngũ cán bộ, đảng viên với tinh thần kiên quyết và triệt để, nhất là vấn đề giám sát, kiểm soát quyền lực. 
            Như vậy, vấn đề suy thoái và biểu hiện của suy thoái không ở đâu xa, nó đang nằm ngay trong các cơ quan, đơn vị, trong mỗi đảng viên, mỗi cán bộ chúng ta. Mỗi cán bộ, đảng viên cần phải xác định rõ lý tưởng cách mạng, kiên trì với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của nước ta, luôn rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, đấu tranh với những cám dỗ, thói hư tật xấu, đấu tranh mạnh mẽ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, làm được điều đó, sẽ góp phần nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ đồng thời làm thất bại những mưu đồ lợi dụng vấn đề “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để dẫn đến vấn đề “diễn biến hòa bình” nhằm chống phá cách mạng nước ta và sự phát triển của đất nước của các thế lực thù địch trong và ngoài nước hiện nay./.

Nhận diện những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của cán bộ

 Nhận diện những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của cán bộ         Thứ nhất, những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của đội ngũ cán bộ tuy xảy ra ở một bộ phận cán bộ, nhưng hiện nay nó đang có những diễn biến, biểu hiện vô cùng phức tạp. Nghiêm trọng nhất là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, phủ nhận thành quả của cách mạng, mơ hồ, hoài nghi về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về khả năng lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều hành của Chính phủ. Từ đó tỏ ra bất mãn với chế độ, luôn có tư tưởng đi ngược lại với quan điểm Đảng, ủng hộ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, sẵn sàng từ bỏ con đường Chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã chọn, làm phương hại đến lợi ích của Đảng, của dân tộc, thậm chí nói xấu, bôi nhọ những gì thuộc về đất nước mình và luôn ca tụng, tung hô một cách cực đoan những gì thuộc về đất nước khác, nhất là phương Tây. Có thể nói đây là một biểu hiện quan trọng của sự xuống cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị và trong giai đoạn hiện nay, biểu hiện này đang có xu hướng gia tăng, không dễ ngăn chặn, đẩy lùi.

Tất cả những nhận thức và hành động trên của một bộ phận cán bộ đã làm ảnh hưởng lớn tới uy tín của Đảng, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Đây là mức độ nguy hiểm cao của sự xuống cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị. 
           Thứ hai, những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống: Bên cạnh sự xuống cấp của một bộ phận cán bộ về tư tưởng chính trị thì sự xuống cấp về đạo đức, lối sống của đội ngũ này cũng đã và đang có xu hướng gia tăng cả về số lượng và phạm vi. Trong đó “tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng với những biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, gây bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước”. Cá biệt, có những vụ tham nhũng, lãng phí gây hậu quả rất nghiêm trọng, làm thất thoát lớn tài sản của Nhà nước, gây bức xúc dư luận, làm giảm niềm tin của quần chúng vào vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. 
Không chỉ có tình trạng tham nhũng, hối lộ, một số cán bộ lãnh đạo quản lý lợi dụng chức, quyền để mưu lợi cá nhân, lo thu vén cho cá nhân, gia đình dẫn đến coi nhẹ lợi ích tập thể, cộng đồng. Bệnh cơ hội, tư duy nhiệm kỳ, chủ nghĩa cá nhân có chiều hướng gia tăng, “một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý nắm giữ khối lượng tài sản, nguồn vốn lớn của tập thể, của Nhà nước; đó là môi trường để chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, thực dụng phát triển”. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý lợi dụng chi tiêu công, dùng tài sản công phục vụ mục đích cá nhân; có lối sống hưởng lạc, xa hoa, lãng phí không quan tâm đến đời sống còn khó khăn của nhân dân dẫn đến thói quan liêu, xa dân, lãnh đạm, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc và yêu cầu, đòi hỏi chính đáng của nhân dân, thậm chí đi ngược tâm tư, quyền lợi của nhân dân, gây bức xúc trong nhân dân, làm tổn hại thanh danh và uy tín của Đảng, làm giảm niềm tin của quần chúng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, cũng như sự lựa chọn con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội. 
           Như vậy tình trạng xuống cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ ở nước ta hiện nay đã trở nên rất nghiêm trọng, với nhiều những biểu hiện khác nhau, phạm vi biểu hiện ở nhiều nơi, nhiều cấp, nhiều ngành, thậm chí có biểu hiện còn trở thành “quốc nạn”. 
        

Một số giải pháp đấu tranh, ngăn chặn tình trạng “tự chuyển hóa”, “tự diễn biến” trong nội bộ

 Để đấu tranh ngăn chặn tình trạng “tự chuyển hóa”, “tự diễn biến” và làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên mặt trận chính trị - tư tưởng trong nội bộ Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên, cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

Một là, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng trong đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ đảng viên, nhất là đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức, viên chức. Quán triệt tinh thần đổi mới của Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tư, khóa XII và Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng, cần tập trung đổi mới nội dung giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Đồng thời, đổi mới nội dung tuyên truyền, giáo dục nhiệm vụ chính trị, quán triệt nghị quyết của Đảng cần làm sáng tỏ cơ sở lý luận, thực tiễn của đường lối, chính sách, nhiệm vụ của đất nước, bộ, ngành, địa phương và mỗi cơ quan, đơn vị. Trên cơ sở đó xác định chính xác những nội dung, nhiệm vụ mà mỗi tổ chức, từng cá nhân cần nắm vững và thực hiện để góp phần thực hiện thắng lợi mọi chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước và lấy nội dung nhiệm vụ chính trị làm cơ sở để đấu tranh với những nhận thức sai trái, mơ hồ, thiếu trách nhiệm trong công tác của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Hai là, các cấp ủy đảng cần tiếp tục triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; tổ chức thực hiện có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực hiện tốt tự phê bình và phê bình, công tác bảo vệ chính trị nội bộ, công tác quản lý cán bộ, đảng viên, kịp thời phát hiện, ngăn chặn những biểu hiện suy thoái ngay từ khi mới xuất hiện; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng và công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Phát huy tính chủ động, tích cực tự tu dưỡng, tự rèn luyện của đội ngũ cán bộ, đảng viên, coi đây là giải pháp trực tiếp quyết định đến nâng cao năng lực đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng.

Ba là, đề cao tinh thần tự phê bình và phê bình trong các tổ chức Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tư, khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Quy định số 101-QĐ/TW ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư khóa XI về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”. Nêu cao đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, khắc phục chủ nghĩa cá nhân, tích cực đấu tranh chống tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực ngay trong cơ quan, đơn vị mình, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức Đảng, đổi mới và tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong Đảng, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ và xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh; tăng cường, chủ động nắm bắt tình hình, giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc phát sinh, chấn chỉnh các mặt hạn chế, yếu kém; đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên một cách thực chất; cụ thể, lượng hóa tiêu chí đánh giá phù hợp với từng loại hình tổ chức Đảng. Các cấp ủy, tổ chức Đảng và đảng viên cần nhận thức sâu sắc hơn về vai trò, tầm quan trọng của đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng để từ đó đề ra các giải pháp xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh gắn với thực hiện các giải pháp khắc phục hạn chế, khuyết điểm sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình.

Bốn là, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền kịp thời, có tính định hướng đúng đắn nhằm cung cấp thông tin chính thống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và Nhân dân về những vấn đề kinh tế, chính trị, đối ngoại… quan trọng của đất nước; chú trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng đối với mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là với những cán bộ lãnh đạo, quản lý. Cần kết hợp chặt chẽ giữa tăng cường giáo dục đạo đức trong Đảng và trong xã hội với tinh thần tự tu dưỡng, rèn luyện của mỗi cán bộ, đảng viên.

Tăng cường kỷ luật, công khai, minh bạch, dân chủ trong quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp, bố trí và quản lý cán bộ, bảo đảm lựa chọn đúng người có đức, có tài vào bộ máy và cơ quan lãnh đạo các cấp; tạo môi trường xã hội, thể chế kinh tế lành mạnh, văn minh, khoa học để cán bộ, đảng viên không có điều kiện sa vào những tiêu cực, vi phạm đạo đức. Chủ động phát hiện, ngăn chặn kịp thời các hoạt động chống phá và xâm nhập trái phép của các thế lực thù địch. 

Năm là, giữ gìn, củng cố đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng, chống những biểu hiện cục bộ, địa phương, phe cánh, “lợi ích nhóm”; tiếp tục giáo dục nâng cao nhận thức, xác định rõ vị trí, vai trò, trách nhiệm của các lực lượng tham gia đấu tranh; tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận; quan tâm đầu tư những điều kiện đảm bảo cho cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng ngày càng hợp lý, có hiệu quả.

Sáu là, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, lấy xây dựng mạnh về mọi mặt là chính, nhất là giữ vững ổn định chính trị và định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; mở rộng quan hệ đối ngoại. Chăm lo xây dựng nhân tố con người, nâng cao khả năng “tự bảo vệ” trước những âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; nâng cao “sức đề kháng” của cán bộ, đảng viên trước tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, hội nhập. Đây là biện pháp tốt nhất, tích cực, chủ động nhất để phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên.

Công tác phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, bên cạnh những thuận lợi cũng còn nhiều khó khăn, phức tạp, lại chịu sự tác động của nhiều yếu tố tiêu cực, nếu mỗi cán bộ, đảng viên thiếu bản lĩnh chính trị, xa rời mục đích, lý tưởng, sa sút về phẩm chất đạo đức sẽ dễ bị cuốn vào vòng xoáy của lợi ích cá nhân, bị kẻ xấu lợi dụng, lôi kéo, mua chuộc, đi đến phai nhạt mục tiêu, lý tưởng cách mạng. Vì vậy, muốn phòng ngừa, ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, tự thân cán bộ, đảng viên phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng; có tinh thần trách nhiệm cao trước Đảng, Nhà nước và Nhân dân; có tư duy sáng tạo, kiến thức, bản lĩnh vững vàng; phong cách làm việc khoa học, nói đi đôi với làm, góp phần làm trong sạch nội bộ Đảng, bộ máy nhà nước, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.

Nhận diện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng và cán bộ, đảng viên


Khái niệm “tự diễn biến” dùng để chỉ quá trình tự vận động của sự vật, hiện tượng; là quá trình tự biến đổi bên trong của sự vật theo một chiều hướng nhất định. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện của Đảng ta, “tự diễn biến” được hiểu là sự suy thoái, biến chất về tư tưởng chính trị, về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Thuật ngữ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được đề cập trong các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Đảng đánh dấu bước chuyển trong tư duy của Đảng về sự nhận diện một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ chính trị ở nước ta.

Khái niệm “tự chuyển hóa” dùng để chỉ quá trình tự biến đổi của sự vật, hiện tượng sang một cấu trúc, một dạng tồn tại, một chất mới. Trong các văn kiện của Đảng ta, “tự chuyển hóa” được sử dụng theo nghĩa là sự biến đổi về lập trường, quan điểm, tư tưởng, thái độ, hành vi, lối sống của cán bộ, đảng viên theo hướng đối lập với trạng thái ban đầu. Từ cách tiếp cận trên có thể hiểu “tự chuyển hóa” là hệ quả tất yếu, sự nối tiếp của quá trình “tự diễn biến”, là quá trình biến đổi về chất các quan điểm, tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một tổ chức và cá nhân. “Tự chuyển hóa” chính là quá trình thay đổi về chất trong quan điểm, tư tưởng, phẩm chất và hành động của chủ thể. Đây là cấp độ cao hơn của quá trình “tự diễn biến” biểu hiện sự thay đổi về chất của quan điểm chính trị, đạo đức, lối sống khiến cho mỗi cá nhân không còn là chính mình, chẳng những đánh mất vai trò tiên phong, gương mẫu mà có khi trở thành phản bội, chống lại Đảng và Nhà nước, thậm chí chuyển sang hàng ngũ kẻ thù.

Theo nghĩa đó, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là quá trình thay đổi từ bên trong của mỗi chủ thể theo chiều hướng xấu, từ đúng sang sai, từ tốt sang xấu, từ tích cực sang tiêu cực, từ tiến bộ sang phản tiến bộ… nếu không ngăn chặn hiệu quả, khắc phục kịp thời sẽ dẫn đến tha hóa, biến chất. Đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên thì “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là một quá trình tự vận động, thay đổi từ nhận thức đến hành động của chủ thể, từ lựa chọn chế độ XHCN sang lựa chọn chế độ tư bản chủ nghĩa. Quá trình này chịu sự tác động, chi phối của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan, trong đó nhân tố chủ quan là chủ yếu. Quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đều dẫn đến các mục tiêu, kết quả như: phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. 

Thực tế trong những năm qua cho thấy bên cạnh mặt tích cực là chủ yếu thì  công tác tổ chức, cán bộ và quản lý cán bộ, đảng viên còn yếu kém. Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có một bộ phận người đứng đầu cơ quan, đơn vị chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu. Tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm; một số cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ được giao. Tình trạng quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn xảy ra, trong đó tập trung vào số đảng viên có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy nhà nước. Nhiều tổ chức, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nguyên nhân của tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là do một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài. Sự chống phá quyết liệt, nhất là hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch cũng là nguyên nhân quan trọng dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng.

Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của vấn đề “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XI của Đảng đánh giá: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp”. Vấn đề đặt ra hiện nay là phải kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đảng viên, củng cố niềm tin của đảng viên và của Nhân dân đối với Đảng. Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng một lần nữa chỉ rõ: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”… Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở một số địa phương, bộ, ngành chưa có chuyển biến rõ rệt; công tác phòng ngừa tham nhũng ở một số nơi còn hình thức”.

Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ thực sự là vấn đề cấp bách đối với sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Đây không chỉ là đợt sinh hoạt chính trị thường xuyên nhằm quán triệt, triển khai nghị quyết của Trung ương mà còn có ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt như một đợt “chỉnh huấn”, “chỉnh Đảng” mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về các văn kiện trình Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng đã nhấn mạnh: “Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, ‘tự chuyển hóa” trong nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”.

Những nhận thức mới và tư duy mới về quốc phòng Việt Nam

  

Tính tất yếu về nhận thức mới và tư duy mới về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới 

Một là, tư duy về quốc phòng, BVTQ trong tình hình mới được kế thừa từ truyền thống lịch sử dân tộc.

Trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc ta, “dựng nước phải đi đôi với giữ nước” đã trở thành bài học, quy luật tất yếu. Với tư tưởng đó, đất nước ta đã thường xuyên chủ động chuẩn bị về mọi mặt cho việc “giữ nước” ngay trong thời bình; coi trọng xây dựng, củng cố quốc phòng; tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện. Thực hiện quan điểm “quốc phú, binh cường”; “ngụ binh ư nông”, “trăm họ là binh”; “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”; “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc, là thượng sách để giữ nước”. Ông cha ta đã tổng kết “thái bình nên gắng sức, non nước vững ngàn thu”. Trong xây dựng quân đội, thực hiện chủ trương “quân cốt tinh, không cốt đông”...

Hai là, tư duy về quốc phòng, BVTQ trong tình hình mới được hình thành trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

 V.I.Lênin chỉ rõ: “Tất cả các lực lượng của nhân dân đều phải được động viên cho cuộc chiến tranh đó. Cả nước phải trở thành một mặt trận cách mạng”; và trong mọi cuộc chiến tranh, “thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường”; “Chính vì chúng ta chủ trương BVTQ, nên chúng ta đòi hỏi phải có một thái độ nghiêm túc đối với vấn đề khả năng quốc phòng và đối với vấn đề chuẩn bị chiến đấu của nước nhà”.Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có rất nhiều bài viết, bài nói, chỉ đạo về sự nghiệp quốc phòng, BVTQ. Trong đó, Người khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”; thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện... “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân biệt đảng phái, tôn giáo... hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh giặc cứu nước. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có súng, gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc”... Các quan điểm nêu trên là biểu hiện cao độ ý chí và sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân (QPTD), chiến tranh nhân dân đã đi suốt chiều dài lịch sử của dân tộc.Kế thừa truyền thống “dựng nước đi đôi với giữ nước”, trong nhận thức lý luận cũng như trong tổ chức thực hiện, Đảng ta luôn trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp quốc phòng, BVTQ, phù hợp với tình hình thực tiễn cũng như yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng.

Ba là, tình hình thế giới, khu vực, trong nước tác động đến quốc phòng, BVTQ

Trước hết, về tình hình thế giới và khu vực: Trong những năm tới, dự báo môi trường chính trị, an ninh thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó dự báo. Các nước điều chỉnh chiến lược và phương thức phát triển nhằm thích ứng với tình hình mới. Tăng ngân sách quốc phòng, chạy đua vũ trang ngày càng quyết liệt và trở thành xu thế phổ biến. Đặc biệt, một số nước đẩy mạnh hiện đại hóa quân đội, tăng cường năng lực quân sự với những thế hệ vũ khí mới.Bên cạnh đó, chủ nghĩa dân túy, dân tộc cực đoan, thực dụng, cường quyền nước lớn trong quan hệ quốc tế gia tăng; tranh chấp chủ quyền lãnh thổ giữa các quốc gia; sự can dự, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn với các không gian chiến lược mới (như: không gian mạng, không gian vũ trụ, lòng đất, lòng biển...); các loại hình tác chiến mới đặt ra những thách thức mới đối với hòa bình, ổn định trên thế giới, khu vực và độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước, nhất là những nước nhỏ đang phát triển. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghiệp số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, trong đó có cả lĩnh vực quốc phòng, tạo ra cả thời cơ, thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc. Sự xuất hiện của các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự hiện đại đã làm thay đổi cơ bản tổ chức quân đội, hình thái, phương thức tiến hành chiến tranh. Đặc biệt, sự ra đời của chiến tranh mạng đã tác động sâu sắc đến quốc phòng, an ninh  thế giới, khu vực và mỗi quốc gia. Các yếu tố an ninh phi truyền thống, khủng bố tiếp diễn phức tạp; xuất hiện nhiều hình thái chiến tranh mới, làm thay đổi môi trường chiến lược và gần đây là phong trào “bất tuân dân sự” có nhiều diễn biến phức tạp. Khu vực châu Á-Thái Bình Dương, bao gồm Đông Nam Á, có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo diễn ra ngày càng gay gắt hơn. Hòa bình, ổn định, tự do an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước những thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột. Đặc biệt, nghiên cứu các cuộc chiến tranh gần đây trên thế giới cho thấy, mục đích, hình thái chiến tranh, phương thức tiến hành chiến tranh ngày nay đã có nhiều nội dung phát triển mới. Về mục đích chiến tranh đã có thay đổi từ giành dân, chiếm đất, khuất phục, nay chuyển sang lật đổ chính quyền đương nhiệm và chế độ chính trị hiện tại là chủ yếu. Chiến tranh ngày nay vì lợi ích quốc gia, dân tộc không phải chỉ do mâu thuẫn giai cấp, mà nó có thể là do cạnh tranh giữa các nước lớn về siêu cường quân sự; cũng có trường hợp để giải quyết mâu thuẫn bên trong mà đẩy mâu thuẫn đó ra ngoài biên giới. Về không gian chiến tranh cũng mở rộng hơn, trên tất cả các môi trường: Trên không, trên bộ, trên biển, không gian mạng, phổ điện từ, vũ trụ. Ranh giới giữa tiền tuyến và hậu phương không phân biệt rõ ràng, do vũ khí có khả năng đánh xa và khả năng cơ động được nâng cao, nhất là khả năng cơ động đường không. Thời gian chuẩn bị chiến tranh thường dài, thời gian thực hành chiến tranh thường ngắn, nhưng hậu quả chiến tranh rất nặng nề, tổn thất vô cùng lớn về vật chất, tinh thần...Lực lượng tham gia chiến tranh không phải là một nước, mà chủ yếu tập hợp lực lượng đồng minh, hình thành lực lượng liên quân. Ví dụ như cuộc chiến tranh Iraq năm 2003; chiến dịch quân sự của NATO ở Libya; can thiệp của Mỹ và liên quân vào cuộc chiến Syria bắt đầu từ đầu năm 2011. Vũ khí, phương tiện chiến tranh chủ yếu sử dụng vũ khí công nghệ cao, vũ khí thông minh, tác chiến điện tử mạnh. Phương thức tiến hành chiến tranh thường là: Tạo cớ để phát động chiến tranh; coi trọng tác chiến “phi đối xứng” (là tác chiến giữa hai bên có sự chênh lệch lớn về tiềm lực quân sự, vũ khí, trang bị công nghệ hiện đại, lực lượng) và tác chiến “phi tiếp xúc” (đánh trả gián tiếp, bên tiến công có thể phá hủy các mục tiêu trên lãnh thổ đối phương mà không cần xâm phạm không phận và lãnh thổ của bên bị tiến công); kết hợp chặt chẽ tiến công từ bên ngoài với bạo loạn lật đổ từ bên trong. Các cuộc chiến tranh gần đây thường vận dụng hình thái chiến tranh ủy nhiệm và hình thái chiến tranh bạo loạn lật đổ quy mô lớn kết hợp can thiệp quân sự nước ngoài. Cùng với các đặc điểm, hình thái chiến tranh đề cập ở trên, thực tế đã xuất hiện phong trào “bất tuân dân sự” nhằm thay đổi chế độ, lật đổ chế độ, như: “Cách mạng cam” ở Ukraine; “Mùa xuân Ả Rập” ở các nước Trung Đông và Bắc Phi những năm đầu thế kỷ 21...

Sức mạnh toàn dân trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực

 

 

Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã và đang tìm mọi cách xuyên tạc, chống phá cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Việt Nam. Một trong những nội dung chúng thường dùng là gây mất đoàn kết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, nhân dân với Đảng, Nhà nước để phủ nhận thành công, kích động nhân dân chống lại chủ trương, giải pháp phòng, chống tham nhũng mà chúng ta đang đẩy mạnh với nhiều kết quả tích cực. Chúng đòi Việt Nam phải đa nguyên, đa đảng vì cho rằng nếu còn chế độ độc đảng thì sẽ không chống tham nhũng, tiêu cực được và vu cáo: Đảng chỉ lo củng cố quyền lực, tham nhũng, tiêu cực, không quan tâm đến cuộc sống của nhân dân, nhân dân không biết gì, không được tham gia gì vào việc chống tham nhũng, tiêu cực…

Đây là sự chống phá trắng trợn, thậm độc, nhưng đều đã bị thất bại trước sự kiên quyết, kiên trì đấu tranh phản bác có hiệu quả của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Thực tiễn ở Việt Nam những năm qua đã chứng minh rõ điều đó, nhất là về việc phát huy sức mạnh của nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tế các cuộc cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản cho thấy vai trò rất to lớn của quần chúng nhân dân cũng như sự cần thiết phải huy động được sự ủng hộ, đóng góp của quần chúng nhân dân vào sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Lênin đã nhắc nhở những người cộng sản rằng: đối với Đảng Cộng sản “…thì một trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ nhất là sự tự cắt đứt liên hệ với quần chúng”. Với cách mạng Việt Nam, Hồ Chủ tịch cũng chỉ rõ sức mạnh to lớn của nhân dân: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Người luôn yêu cầu phải huy động được cao nhất, hiệu quả nhất sức mạnh của nhân dân vào sự nghiệp cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra một trong những bài học thành công của cách mạng Việt Nam, là: “Tập trung khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, niềm tự hào, ý chí tự cường, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội và khát vọng phát triển đất nước của toàn dân tộc. Xây dựng các cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước của mọi người dân Việt Nam”. Thực tiễn cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực những năm qua của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta cũng đã chứng minh rất rõ vai trò to lớn của nhân dân trong nhiệm vụ quan trọng này.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thấy rõ vai trò và trách nhiệm của quần chúng nhân dân trong phòng, chống tham nhũng. Ngay từ năm 1946, Người đã xác định: “Quan liêu, tham ô, lãng phí là tội ác. Phải tẩy sạch nó để thực hiện cần, kiệm, liêm chính…”. Người còn chỉ rõ: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của chính phủ”.

Hồ Chủ tịch cũng đề các giải pháp chống tham nhũng, tiêu cực, trong đó có giải pháp thực hiện dân chủ: “Dân chủ là dựa vào lực lượng quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng. Cho nên, phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng mới thành công”. Người còn cho rằng: cũng như các công việc khác của cách mạng, phòng, chống tham nhũng phải có được sự hưởng ứng, tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân, vì: “Quần chúng tham gia càng đông, thành công càng đầy đủ, mau chóng”. ”. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải huy động được sức mạnh của nhân dân bằng các biện pháp tích cực, đồng bộ, trong đó có việc quan trọng là: “làm cho quần chúng khinh ghét tệ tham ô, lãng phí, quan liêu; biến hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tham ô, lãng phí, quan liêu còn chỗ ẩn nấp”. Đồng thời, Người căn dặn quần chúng nhân dân: “Cán bộ phải tôn trọng dân chủ, nhưng đồng bào phải đòi quyền dân chủ nhân dân của mình. Mình làm cách mạng để thực hiện dân chủ, không phải làm cách mạng để thành “Cán chủ”. Phải loại trừ cho nhanh chừng nào tốt chừng ấy các tệ nạn quan liêu, mệnh lệnh, tham ô, lãng phí”. Trong quá trình triển khai công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng rất chú trọng đến vai trò to lớn của nhân dân. Đảng quan tâm đến việc đề ra những chủ trương, chính sách, cơ chế, các giải pháp tích cực, phù hợp trong hoạt động của Đảng cũng như của hệ thống chính trị để nhân dân có thể tham gia hiệu quả nhất vào công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ giải pháp là: “Phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan và đại biểu dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị xã hội, nhân dân và cơ quan truyền thông, báo chí trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; nâng cao hiệu quả phát hiện và xử lý tham nhũng, lãng phí”. Nổi bật trong thời gian qua là Đảng, hệ thống chính trị, các bộ, ban, ngành, địa phương, đoàn thể… đã rất quan tâm vấn đề công khai, dân chủ, tạo thuận lợi để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, có cơ hội tham gia hiệu quả vào công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Chúng ta thực hiện tốt cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Trong làm chủ của nhân dân có quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm tham gia phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Nghị quyết của Đảng ta đã khẳng định phải: “Thường xuyên tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân, phát huy vai trò của nhân dân và thật sự dựa vào dân để xây dựng Đảng”. Tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được tổ chức vào ngày 30 - 6 - 2022 vừa qua, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh một trong những bài học thành công của công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là: “Chúng ta đã phát huy được vai trò vô cùng quan trọng của nhân dân, như lời căn dặn của Bác Hồ: Phải “động viên quần chúng, phải thực hành dân chủ, phải làm cho quần chúng hăng hái tham gia mới chắc chắn thành công!”. Tuy nhiên, việc huy động sức mạnh nhân dân tham gia phòng, chống tham nhũng, tiêu cực vẫn còn nhiều hạn chế. Một số ý kiến phản ánh, đóng góp, phê bình… của nhân dân chưa được quan tâm xem xét, xử lý kịp thời, đúng mức. Ở một số nơi, một số lĩnh vực nhân dân chưa được tạo thuận lợi để thực hiện chức năng biết, bàn, kiểm tra, giám sát. Việc bảo vệ, động viên khen thưởng người dân có thành tích trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực còn nhiều bất cập. Những hạn chế, khuyết điểm trên cùng với các nguyên nhân chủ quan và khách quan khác dẫn đến tham nhũng, tiêu cực ở nước ta vẫn còn phức tạp với nhiều hậu quả khôn lường, như Nghị quyết Đại hội XIII Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”. Chính vì vậy, Đảng tiếp tục xác định phải: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ, triệt để hơn, hiệu quả hơn”. Và để đạt hiệu quả tốt trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Đảng đề ra nhiều giải pháp kiên quyết, tích cực: “Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn dân; thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế, hình sự”. Nghị quyết Đại hội XIII còn chỉ rõ phải có cơ chế, chính sách, quy định cụ thể để khen thưởng, động viên người có thành tích tốt, đồng thời ngăn ngừa, xử lý những sai phạm trong công tác này. Cụ thể là: “bảo vệ, khuyến khích những người làm công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện xử lý tham nhũng cũng như với người tố cáo, tích cực đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, đồng thời xử lý nghiêm những người lợi dụng chống tham nhũng, lãng phí để vu khống, gây mất đoàn kết nội bộ”. Đây chính là cơ sở quan trọng để nhân dân tích cực tham gia, thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Trước hết mỗi người dân cần làm tốt chức trách, công việc, nhiệm vụ của mình ở nơi làm việc, công tác với nhiệm vụ cụ thể được giao. Đồng thời, chấp hành nghiêm chỉnh các quy định, quy trình về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo đúng pháp luật hiện hành, không lợi dụng việc tham gia phòng, chống tham nhũng tiêu cực để làm sai, vu khống, có hại cho Đảng, cho cách mạng, cho đất nước và nhân dân Với quyết tâm cao, giải pháp tích cực, sự lãnh đạo, vào cuộc quyết liệt của Đảng, hệ thống chính trị, sức mạnh toàn dân, nhất định cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Việt Nam sẽ đạt kết quả tốt đẹp.

 

BBC, RFA, VOA KỆCH CỠM CA NGỢI Phạm Đoan Trang Cái gọi là “giải thưởng nhân quyền”

 


        Gần đây, sau “sự kiện quốc tế” quỹ Martin Ennals tại Geneva công bố giải thưởng dành cho “những người bảo vệ nhân quyền” năm 2022, các trang truyền thông phiến diện RFA, BBC, VOA “ca ngợi” “nhà báo Phạm Đoan Trang” là “chủ nhân của giải tự do truyền thông năm 2022 do chính phủ hai nước Anh và Canada tài trợ”. Còn ban tổ chức quỹ Martin Ennals mô tả Phạm Đoan Trang là người viết ra những cuốn sách về dân chủ, những bài viết về xã hội dân sự, và sự bất đồng chính kiến ở Việt Nam… Các diễn đàn này không quên nhắc lại rằng trước đó, Phạm Đoan Trang được nhận giải nhân quyền Homo Homini từ tổ chức People In Need hồi năm 2018, từng được tổ chức “Phóng viên không biên giới” (RSF) ở Pháp trao tặng giải “Tự do báo chí” năm 2019. Nay tiếp tục ca ngợi “nhà báo” đang bị cầm tù này được trao giải Martin Ennals năm 2022 được ví như giải Nobel trong lĩnh vực nhân quyền! Cái gọi là giải Martin Ennals (tên của cựu Tổng Thư ký tổ chức Ân xá quốc tế) lập ra vào năm 1993 nhằm “vinh danh” các cá nhân trên thế giới đã “tỏ ra đặc biệt can đảm trong việc bảo vệ và làm tăng tiến nhân quyền”. Đây là giải tự xưng do một số tổ chức dưới danh nghĩa nhân quyền lập nên để tạo tầm ảnh hưởng nhằm gây quỹ trên toàn thế giới mà ban giám khảo chính là thành viên của các tổ chức nhân quyền như HRF, HRW, WOAT… Có thể dễ dàng thấy rõ trong suốt quá trình hoạt động, các giải thưởng này được trao cho những người có hoạt động chống lại lợi ích quốc gia và dân tộc ở quốc gia của họ. Trong đó nhiều người được trao giải đang phải ngồi tù vì lợi dụng tự do, dân chủ, nhân quyền để vi phạm pháp luật, chống phá an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Nói về nhân vật Phạm Đoan Trang, có đúng như thông tin trên các trang BBC, RFA, VOA hay web của tổ chức trao giải công bố “Phạm Thị Đoan Trang là nhà báo hàng đầu và là nhà vận động cho dân chủ ở Việt Nam…”? Thực chất, Phạm Thị Đoan Trang là đối tượng vừa bị tuyên phạt 9 năm tù về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”, rõ ràng là tội phạm vi phạm pháp luật Việt Nam và bị đưa ra ánh sáng trước phiên tòa xét xử diễn ra công khai theo luật pháp định của một quốc gia có chủ quyền và uy tín quốc tế. Đoan Trang cũng không phải là “nhà báo nổi tiếng” như cách quỹ Martin Ennals gọi, mà chỉ từng tham gia viết bài cho một số tờ báo điện tử trong nước và đã bị thôi việc vì thiếu đạo đức, sa ngã trước các cám dỗ, mua chuộc vật chất vì mục đích đen tối dẫn đến con đường hoạt động chống phá, vi phạm pháp luật Việt Nam. Nên việc quỹ Martin Ennals trao giải nhân quyền cho Đoan Trang thể hiện sự lố bịch, kệch cỡm, phi thực tế. Cũng không lạ gì khi các trang BBC, RFA, VOA thi nhau đưa tin “Giải thưởng Martin Ennals 2022 được tặng cho bà Phạm Đoan Trang”, “Tù nhân lương tâm Phạm Đoan Trang được trao giải Martin Ennals”, tranh thủ dẫn lời của một số tổ chức, cá nhân có cái nhìn méo mó, cố tình xuyên tạc sự thật về đối tượng Đoan Trang nhằm nói xấu chống phá Việt Nam.

          Nhiều năm gần đây, những cái gọi là “giải thưởng nhân quyền” thường xuyên được các thế lực thù địch, phản động sử dụng nhiều. Chúng tổ chức nhiều cuộc hội thảo, họp báo, điều trần, ra tuyên bố, ban hành một số báo cáo, nghị quyết, tài liệu vu cáo xuyên tạc tình hình nhân quyền, tự do tôn giáo, tự do báo chí ngôn luận tại Việt Nam. Chúng kêu gọi và được sự hậu thuẫn của các tổ chức phi chính phủ thông qua việc triển khai các dự án để “thúc đẩy”, “cải thiện nhân quyền”, khích lệ bọn phản động lưu vong, số đối tượng chống đối hoạt động chống phá Việt Nam. Nhiều tổ chức như Ủy ban tự do tôn giáo quốc tế của Mỹ, Nghị viện Châu Âu, Tổ chức theo dõi nhân quyền (HRW), Ân xá quốc tế (AL)… trong báo cáo hàng năm, một mặt thừa nhận Việt Nam có chuyển biến tích cực nhưng vẫn cố ý lồng ghép đánh giá tiêu cực méo mó về tình hình nhân quyền Việt Nam. Nhằm mục tiêu tăng cường hoạt động chống phá, các thế lực thù địch, phản động lôi kéo và dựng lên các nhân vật có tư tưởng bất mãn hoặc tham muốn lợi ích vật chất rồi tiến hành trao các giải thưởng tự xưng như giải thưởng nhân quyền, giải “tầm ảnh hưởng”, giải Homo Homini… Chúng vận động một số nghị sĩ cực đoan trong quốc hội, chính phủ một số nước kêu gọi gây quỹ đấu tranh vì nhân quyền, ca ngợi và “bảo vệ” các cá nhân được dựng lên đó. Bên cạnh, chúng lợi dụng triệt để sự suy thoái về đạo đức, lối sống, tệ tham nhũng và vi phạm pháp luật của một số cán bộ, đảng viên để tuyên truyền đả kích vai trò lãnh đạo của Đảng, phá rã niềm tin của quần chúng đối với Đảng, Nhà nước nhằm tác động chuyển hóa nội bộ từ bên trong, thúc đẩy âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ tại Việt Nam. Các tổ chức nhân quyền đã nhận được rất nhiều sự tài trợ từ các tổ chức thủ địch, phản động với nhiều hình thức gây quỹ để trao giải; để “báo đáp lại”, và để hợp thức hóa sự ủng hộ tài chính, kinh phí của các nhà tài trợ, chúng đưa ra các bản “báo cáo”, “phúc trình”, những đánh giá, nhận xét thiếu khách quan, phi thực tiễn, bôi nhọ tình hình nhân quyền, dân chủ, tự do ngôn luận, tự do báo chí tại Việt Nam. Mục đích là để bôi nhọ, khiến các quốc gia, tổ chức hiểu sai về hình ảnh đất nước và con người Việt Nam. Nhưng thực tế sống động về đất nước và con người Việt Nam đã đập tan những luận điệu xuyên tạc chống phá. Việt Nam được bạn bè quốc tế biết đến Việt Nam là dân tộc yêu chuộng hòa bình, đang trên đà phát triển, đạt được những thành tựu, cơ đồ có ý nghĩa lịch sử, có được vị thế và tuy tín quốc tế ngày càng cao sau 35 năm đổi mới, là điểm đến của các nhà đầu tư và đối tác thương mại quốc tế. Vừa qua, trong điều kiện khó khăn nhưng Việt Nam đã sẵn sàng hỗ trợ về nhân lực, thiết bị và chia sẻ kinh nghiệm trong phòng, chống dịch Covid-19 với các nước, được dư luận quốc tế ghi nhận và đánh giá cao về tinh thần và kết quả kiểm soát dịch bệnh…/.