Thứ Tư, 10 tháng 8, 2022

TRIỂN KHAI NHANH, ĐỒNG BỘ CÁC CÔNG TRÌNH HẠ TẦNG CHIẾN LƯỢC

 

Sáng 10/8, tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước các công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành giao thông vận tải chủ trì Hội nghị trực tuyến của Ban Chỉ đạo.
Phát biểu ý kiến khai mạc Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, chúng ta đang triển khai 3 đột phá chiến lược, trong đó có đột phá về hạ tầng chiến lược, tập trung hạ tầng giao thông, mang tính liên vùng, liên tỉnh. Những công trình trên 10 nghìn tỷ đồng, theo quy định phải báo cáo các cơ quan thẩm quyền là Bộ Chính trị xin chủ trương, Quốc hội đồng ý cho phép triển khai.
Hiện nay, về mặt vốn đã và đang triển khai tích cực vì chúng ta giảm số dự án đầu tư của cả nước xuống dưới 5.000 dự án, tập trung cho các dự án lớn. Chúng ta huy động nguồn vốn Trung ương, địa phương, huy động từ nguồn trung hạn, nguồn phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, nguồn tăng thu tiết kiệm chi.
Vấn đề là làm sao giải ngân được các nguồn vốn này? Có rất nhiều thủ tục còn rườm rà, nhưng là quy định thì phải chấp hành. Bình thường, chúng ta triển khai 1 năm trên dưới 100 nghìn tỷ đồng. Năm nay do yêu cầu triển khai theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng và có nhiều nguồn vốn như vậy, trong suốt 20 năm qua, chúng ta đã hoàn thành gần 1.100km đường cao tốc bằng tất cả các hình thức đầu tư, trong 5 năm tới phải hoàn thành gấp 2 lần khối lượng này, trong 10 năm tới phải 4 lần.
Trong nhiệm kỳ này, tất cả 3 miền đều triển khai các dự án lớn. Những dự án quy mô dưới 10 nghìn tỷ đồng cũng rất nhiều, chưa kể các dự án BOT. Do đó phải có một cơ quan giúp việc, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, góp phần đề xuất các khó khăn, vướng mắc với các cơ quan có thẩm quyền.
Thủ tướng chỉ đạo, hôm nay ra mắt Ban Chỉ đạo để cần thống nhất về tư tưởng, nhận thức, hành động, quyết tâm phải cao, nỗ lực phải lớn, hành động quyết liệt, tinh thần không hình thức, mà phải hiệu quả, thực chất, phát huy tối đa tinh thần trách nhiệm của Trung ương và địa phương, tất cả vì dân vì nước.
Nếu chúng ta triển khai chậm các công trình thì sẽ lãng phí nguồn lực, hiệu quả thấp trong khi nhân dân đang mong đợi, yêu cầu thì bức thiết. Chúng ta cần thực hiện các đột phá chiến lược đã đề ra. Chính sách tài khóa mở rộng, trong đó có đầu tư công, các công trình hạ tầng chiến lược. Thủ tướng đề nghị quán triệt nhận thức này để làm việc với tinh thần trách nhiệm cao nhất, hiệu quả cao nhất.
Có thể là hình ảnh về 3 người, mọi người đang đứng và văn bản
36
1 bình luận
9 lượt chia sẻ
Thích
Bình luận
Chia sẻ

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY 11/8 :


“Các chú hãy ra sức phát huy ưu điểm, sữa chữa nhược điểm, khó không nản, thắng không kiêu, cùng với đơn vị bạn và nhân dân quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp bảo vệ miền Bắc, ủng hộ cách mạng giải phóng miền Nam tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà”.
Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Thư gửi cán bộ và chiến sĩ Hải quân”, Báo Nhân dân đăng số 4147, ngày 11 tháng 8 năm 1965.
Nhân dịp Kỷ niệm 10 năm Ngày truyền thống của Quân chủng Hải quân, Bác Hồ đã gửi thư chúc mừng và biểu dương thành tích trong xây dựng, chiến đấu và chiến thắng của Hải quân; đồng thời, Người nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ Quân chủng Hải quân cần tiếp tục phát huy truyền thống và thành tích đã đạt được, chủ động khắc phục khó khăn, gian khổ, phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Thấu triệt lời Bác Hồ dạy, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân chủng Hải quân đã phát huy truyền thống “Quyết chiến, quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng ra quân đánh thắng ngay từ trận đầu; bất chấp mưa bom, bão đạn và muôn vàn khó khăn, gian khổ trên những chuyến tàu không số trở đầy hàng hóa, ngày đêm vượt biển chi viện đắc lực cho tiền tuyến lớn miền Nam, dệt nên một huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển, tham gia cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân năm 1975, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam như Bác hằng mong ước. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Quân chủng Hải quân luôn nắm vững tình hình, chủ động tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng có chủ trương, đối sách đúng đắn, phù hợp trong xử lý các vấn đề nhạy cảm xảy ra trên biển; tập trung xây dựng Quân chủng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu, làm nòng cốt bảo vệ vững chắc chủ quyền, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định các vùng biển, đảo và thềm lục địa của Tổ quốc, tiếp tục giữ vững và phát huy truyền thống “Chiến đấu anh dũng, mưu trí sáng tạo, làm chủ vùng biển, quyết chiến, quyết thắng” của Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng.
Có thể là hình ảnh về 1 người và văn bản cho biết 'TƯ TƯỞNG Há CHÍ MINH MÃI MÃI SOI SÁNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM'

ĐỪNG LÀM HOEN Ố MÁU CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐI TRƯỚC !!!


Trong khói lửa chiến tranh, dưới làn đạn của giặc Mỹ xâm lược, Liệt sỹ, anh hùng LLVTND Vũ Xuân (quê Thái Nguyên) đã viết trong nhật ký của mình: "Bàn giao nguyên vẹn giang sơn Việt Nam cho thế hệ tương lai là trách nhiệm của chúng mình, của thế hệ thanh niên đang sống và chiến đấu chống Mỹ này...”.
Ôi Tổ quốc ơi, Tổ quốc đã có một thế hệ như thế! Đất nước tôi để có được hòa bình, độc lập, tự do như hôm nay là nhờ có một thế hệ như thế. Mỗi chúng ta đang có được cuộc sống bình yên, mỗi sớm mai thức dậy vươn vai hít thở bầu không khí trong lành của trời đất, tự tại sống, tự do nghĩ, an nhiên vui vẻ... là nhờ hồng phúc của chúng ta là con cháu của một thế hệ như thế!
Một thế hệ đã ra đi đầu không ngoảnh lại dẫu biết phía sau là sống, phía trước có thể là cái chết, là địa ngục, nhưng họ vẫn bước đi. Một thế hệ đã hòa mình vào Tổ quốc, "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", nếu được sống cũng chỉ sống khi Tổ quốc được vẹn nguyên! Một thế hệ dám dấn thân, dám hy sinh, dám bước qua cửa tử để mở ra cánh cổng hồi sinh cho Tổ quốc, lấy tính mạng của mình để gieo nên mầm sống cho thế hệ mai sau! Một thế đã chiến đấu, hy sinh không chỉ vì cứu lấy giang sơn, Tổ quốc đang bị xâm lăng, mà còn trách nhiệm trọn vẹn: "Bàn giao nguyên vẹn giang sơn Việt Nam cho thế hệ tương lai". Vâng, là "bàn giao nguyên vẹn giang sơn" đấy! Giang sơn mà họ cứu lấy và bàn giao cho tương lai phải là không được sứt mẻ, không được nham nhở, không được chia cắt.
Vì cái trách nhiệm trọn vẹn đó mà thế hệ cha anh đã đi trọn vẹn con đường chông gai đầy máu và nước mắt. Họ đã lấy máu của mình để vẽ nên màu xanh của núi non, lấy thịt của mình để lấp đầy vết nứt của đất, san lấp những hố sâu trong cơ thể Tổ quốc do đạn bom của giặc cày xới. Lấy xương cốt của mình để nối liền hai miền Bắc - Nam của Tổ quốc. Lấy tinh thần, lý tưởng cao đẹp của mình để xua đuổi bóng ma tội ác, vẽ nên vẻ đẹp, sức sống cho Tổ quốc. Họ đã hiến dâng tất cả sức lực, trí lực, tinh lực, cơ thể mình cho Tổ quốc được nguyên vẹn để bàn giao cho thế hệ chúng ta. Khi trách nhiệm ấy được thực hiện, Tổ quốc, giang sơn thống nhất, độc lập, tự chủ, tự do được bàn giao, thì cha anh chúng ta nhiều người không trở về, họ nằm lại chiến trường, nằm lại trong rừng sâu cô quạnh, nằm dưới đáy sông lạnh buốt, họ mãi mãi sống trong đất Tổ quốc. Nhiều người may mắn sống sót trở về, bước ra từ cuộc chiến lại thân thể không còn nguyên vẹn hình hài, thay vào đó là nham nhở, cháy sạm, thiếu đi một phần, thậm chí một nửa cơ thể. Có nhiều người còn nguyên cơ thể nhưng tâm lý, ý chí, tinh thần lại để lại nơi chiến trường, bị bom đạn của kẻ thù nhấn chìm vào sâu trong đất, họ trở về như trẻ thơ, như hoang dại, quảng đời còn lại vẫn cầm súng chiến đấu trong các trại tâm thần, bệnh viện...
Thế nhưng, những người đã hy sinh vẫn lặng nhìn Tổ quốc, canh giữ giang sơn, soi tỏ, dẫn dắt thế hệ hôm nay xây dựng đất nước. Những người còn sống trở về họ đều vui vẻ sống tiếp, lại hòa vào cùng dân tộc giữ nước, xây dựng Tổ quốc. Tất cả họ, những người đã anh dũng hy sinh và những người sống sót trở về chỉ mong muốn một điều nhẹ nhàng, đơn giản như Liệt sĩ Vũ Xuân đã viết trong nhật ký khi còn chiến đấu: “Tôi muốn một câu nói được vang lên bên tai thế hệ sau là: Đừng làm hoen ố máu của những người đi trước”.
Một thế hệ như thế đấy. Bàn giao nguyên vẹn giang sơn cho chúng ta, chỉ mong chúng ta đừng làm hoen ố máu của những người đi trước. Còn chúng ta, nhận lấy giang sơn từ họ, chúng ta hân hoan, sung sướng, hạnh phúc. Chúng ta cũng cũng đã cố gắng đem hết sức bình sinh của mình cống hiến cho Tổ quốc, xây dựng đất nước, xây dựng xã hội ngày càng tươi đẹp. Nhưng chính trong thế hệ chúng ta, vẫn còn đó sự vô tâm, có người vô tâm đến tàn nhẫn, bất nghĩa, không chỉ làm hoen ố máu của người đi trước, mà đang tâm dẫm lên máu của anh hùng liệt sỹ để mưu cầu lợi ích riêng. Để thỏa mãn khát vọng và dục vọng cá nhân, không ít kẻ đã bẻ cong lịch sử, bẻ cong nòng súng của thế hệ cha anh, tạo cớ cho kẻ thù hoặc cấu kết với kẻ thù để đổi trắng thay đen lịch sử, hòng đổi màu của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Cũng không ít kẻ bế kẻ thù lên bàn thờ cung phụng thay thế hương hồn của anh hùng liệt sỹ. Lại có người bằng nhiều thủ đoạn đê hèn, việc làm phi nghĩa, tìm đủ mọi cách để đặt tên cho bọn tay sai, bán nước mà chẳng mảy may nghĩ đến rất nhiều ngôi mộ của anh hùng liệt sỹ vẫn đang chưa biết tên!
Viết đến đây thì tim như thắt lại. Nhưng nhịp đập của trái tim lại như nhanh hơn, mạnh hơn. Chỉ mong rằng chúng ta sẽ sống xứng đáng với thế hệ cha anh đã ngã xuống, đem hết sức lực, trí tuệ, ý chí, tinh thần chung tay xây xựng đất nước giàu mạnh, cũng sẽ chiến đấu đến cùng để bảo vệ đến cùng màu máu và thanh danh của thế hệ đi trước. Sẽ bàn giao nguyên vẹn giang sơn này cho thế hệ mai sau như cha anh đã bàn giao cho chúng ta.
Muốn làm được điều đó, xin đừng phản bội quá khứ, đừng phản bội lịch sử. Xin đừng xét lại tiếng súng năm xưa! Và phải có trách nhiệm với tương lai như cha anh đã làm tròn trách nhiệm với chúng ta./.
ST/TMA
Có thể là hình ảnh về văn bản

 LỢI ÍCH NHÓM TRONG VIỆC KIỂM SOÁT S.Ú.N.G Đ.Ạ.N TẠI HOA KỲ

Lợi ích nhóm được cho là một trong những rào cản lớn trong việc thắt chặt các quy định về sử dụng s.ú.n.g đ.ạ.n tại Bông Kỳ. Trong đó, Hiệp hội S.ú.n.g trường Quốc gia Mỹ (NRA) là một trong các nhóm lợi ích có ảnh hưởng nhất trên chính trường Mỹ - không chỉ bởi số tiền mà họ sử dụng để hối lộ các chính khách mà còn bởi sự tham gia của 5 triệu thành viên.

NRA phản đối hầu hết các đề xuất tăng cường quy định kiểm soát s.ú.n.g và đứng sau các nỗ lực ở cấp độ Liên bang và Tiểu bang nhằm giảm bớt các hạn chế trong việc sở hữu s.ú.n.g đ.ạ.n.

Tổng ngân sách hàng năm của NRA là khoảng 250 triệu USD, được phân bổ cho các chương trình giáo dục, s.ú.n.g đạn, chương trình hội viên, học bổng, hối lộ các nhà lập pháp và các nỗ lực liên quan. Tuy nhiên, hơn cả các con số đơn thuần đó, NRA đã nổi danh tại Washington như là một thế lực chính trị có thể “tạo dựng" và cũng có thể "hạ bệ” các chính khách quyền lực nhất.

Đặc biệt, NRA luôn thể hiện sự quyền uy của mình bằng cách lên án "sự cuồng loạn, tin tức giả và hành động gây hoang mang" của những người ủng hộ kiểm soát s.ú.n.g đ.ạ.n đang "tuyệt vọng tìm cách cản trở" đạo luật SHARE-một đạo luật giúp những công dân đang sở hữu vũ khí dễ dàng mua ống giảm thanh hơn.

Các chuyên gia phân tích cho rằng, chừng nào các nhóm ủng hộ việc sử dụng s.ú.n.g đ.ạ.n còn can thiệp vào bầu cử và ngành lập pháp, thì họ vẫn là “bá chủ” trong "thị trường" s.ú.n.g đạn của nước Mỹ./.

 

 TOẢ SÁNG VĂN HOÁ QUÂN DÂN,XỨNG DANH BỘ ĐỘI CỤ HỒ.

----

Hình ảnh cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta luôn có vị trí thật đặc biệt trong lòng nhân dân. Trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, Bộ đội Cụ Hồ sẵn sàng dầm mình trong mưa lũ, giúp dân khắc phục hậu quả thiên tai; trắng đêm canh gác, ngăn chặn “giặc Covid-19” nơi biên cương giá lạnh hay kịp thời vượt biển, hỗ trợ ngư dân gặp nạn giữa cuồng phong, bão tố. Nét đẹp văn hóa và truyền thống riêng có ấy của Bộ đội Cụ Hồ không ngừng được gìn giữ và phát huy, trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác...

 

Khi cái lạnh miền sơn cước bắt đầu tràn về, ngấm vào da thịt, cũng là lúc căn nhà mới xây của vợ chồng anh Thào A Sang, dân tộc Mông, bản Hợp 2, xã Dào San (Phong Thổ, Lai Châu) được khánh thành và đưa vào sử dụng. Gia đình anh là một trong 33 hộ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trên địa bàn, được Bộ CHQS tỉnh Lai Châu, Đoàn Kinh tế-Quốc phòng 356 (Quân khu 2) phối hợp với Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam hỗ trợ xây tặng nhà. Cũng câu chuyện bộ đội hỗ trợ, giúp đỡ hộ nghèo xây dựng nhà ở huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi có hoàn cảnh của chị Phạm Thị Ty, dân tộc Hrê, xã Ba Thành. Chồng chị mất sớm. Mấy chục năm nay, 4 mẹ con chị phải sống chen chúc trong căn nhà vài chục mét vuông đã dột nát. Hai năm nay, sau khi được Bộ tư lệnh Quân khu 5 hỗ trợ kinh phí xây ngôi nhà mới, mẹ con chị Ty không còn nơm nớp lo sợ mỗi khi mưa to, gió lớn.

 

Đúng là “ở đâu dân gặp khó, ở đó có bộ đội”, “quân với dân như cá với nước”, “đi dân nhớ, ở dân thương”. Đi đến bất kỳ nơi đâu, Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa... chúng ta đều thấm thía tình cảm, sự gắn bó máu thịt quân-dân. Và câu chuyện hỗ trợ, giúp đỡ hộ nghèo xây nhà nêu trên chỉ là một trong số hàng nghìn, hàng vạn việc làm thiết thực mà bộ đội đã làm cho nhân dân những năm qua. Bởi còn đó những cán bộ, chiến sĩ trèo đèo, lội suối, luồn rừng, vượt sông để đến những nơi xa xôi, hẻo lánh vùng biên giới, hải đảo, cùng đồng bào các dân tộc thiểu số xây dựng cuộc sống mới. Còn đó những chiến sĩ biên phòng đến từng bản, làng vùng sâu, vùng xa, dạy các em thơ học chữ; những thầy thuốc quân y ân cần khám, chữa bệnh cho dân nghèo ở vùng sâu, vùng xa. Họ còn là những người lính hóa học, công binh quả cảm, đến những nơi sập hầm lò, cháy nổ, nhiều khí độc, bom mìn để khắc phục hậu quả, đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân.

 

Quá trình về với đồng bào, đã xuất hiện hàng nghìn điển hình tiên tiến, những tấm gương hy sinh dũng cảm vì cuộc sống bình yên của nhân dân... Đó là tấm gương hy sinh quên mình cứu dân trong lũ dữ của Thượng úy, Anh hùng LLVT nhân dân Phạm Hữu Huyên, Bộ CHQS tỉnh Quảng Bình; sự hy sinh của 13 cán bộ, chiến sĩ tại Thủy điện Rào Trăng 3 (Thừa Thiên Huế); sự hy sinh của 22 cán bộ, chiến sĩ Đoàn Kinh tế-Quốc phòng 337 (Quân khu 4)... Ngoài ra, còn hàng chục cán bộ, chiến sĩ biên phòng đã anh dũng ngã xuống khi đương đầu với các loại tội phạm nguy hiểm khu vực biên giới.

 

Bộ đội Cụ Hồ-tên gọi bình dị, gần gũi mà cao quý. Phẩm chất đặc biệt đó được xây đắp nên trước hết từ tinh thần chiến đấu dũng cảm, không quản ngại gian khổ, hy sinh của lớp lớp thế hệ cán bộ, chiến sĩ và sự giáo dục, rèn luyện của Đảng, của Bác Hồ kính yêu, cùng sự thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ của nhân dân. Nói đến phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ là nói đến những chuẩn mực giá trị về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phong cách của quân nhân cách mạng. Đó là lý tưởng chiến đấu cao đẹp, yêu nước, yêu chế độ, trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân.

 

Trong bối cảnh hiện nay, trước họa "xâm lăng" của văn hóa ngoại lai, đặc biệt là sự chống phá ngày càng quyết liệt của các thế lực thù địch, nhằm "phi chính trị hóa" quân đội, việc giữ vững, phát huy phẩm chất cao quý, nét đẹp văn hóa Bộ đội Cụ Hồ, làm cho tấm gương ấy tiếp tục tỏa sáng trong lòng nhân dân, trở thành niềm tin yêu, kiêu hãnh, niềm vinh dự, tự hào, sự ngưỡng mộ của nhân dân và bạn bè quốc tế là trách nhiệm chính trị của mỗi cán bộ, chiến sĩ chúng ta.

 

 THEO GƯƠNG BÁC: PHÊ BÌNH VÀ TỰ PHÊ BÌNH CHỚ CÓ “TRƯỚC MẶT KHÔNG NÓI, SOI MÓI SAU LƯNG”

Trong công tác xây dựng Đảng, công tác cán bộ thì tự phê bình và phê bình có ý nghĩa hết sức quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm coi trọng: “Phê bình và tự phê bình là vũ khí cần thiết và sắc bén, nó giúp chúng ta sửa chữa sai lầm và phát triển ưu điểm”. Người xác định đây là biện pháp quan trọng để tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng: “Ta có hai cách để thực hiện thống nhất tư tưởng, đoàn kết nội bộ là phê bình và tự phê bình”. Đặc biệt, cần chú ý đến công tác phê bình vì tác dụng của phê bình rất lớn, nhưng làm sao để phê bình đúng, có hiệu quả thật sự là vấn đề rất đáng quan tâm. Yêu cầu đặt ra là việc phê bình phải thật sự chân thành, có phương pháp đúng, hợp lý, hợp tình.

Các thế lực thù địch, phản động, chống phá, cơ hội chính trị cho rằng, phê bình của Đảng Cộng sản là đấu đá nội bộ… Ngay một số cán bộ, đảng viên của Đảng vốn đã từng có thời gian tham gia vào hoạt động tự phê bình và phê bình của Đảng, khi đang công tác, có chức, có quyền thì không có ý kiến phê phán gì, nhưng đến khi về nghỉ hưu, hoặc bản thân có sai lầm khuyết điểm, bị xử lý kỷ luật (dù việc xử lý của tổ chức là rất chính xác, rõ ràng, công khai, có lý, có tình), nhưng họ vẫn quay sang phê phán, đổ lỗi cho khách quan, cho đồng chí, cho tập thể, nói xấu tổ chức, nói xấu công tác tự phê bình và phê bình của Đảng.

Cùng với việc xác định rõ tác dụng, yêu cầu của phê bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất chú trọng đưa ra phương pháp phê bình đúng đắn, chính xác. Người dạy: “Phê bình là cốt giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, cho nên thái độ của người phê bình phải thành khẩn, nghiêm trang… Tuyệt đối không nên có ý mỉa mai, bới móc, báo thù. Không nên phê bình lấy lệ. Càng không nên “trước mắt không nói, soi mói sau lưng”.

Trên thực tế, những hạn chế, khuyết điểm, những căn bệnh xấu xuất hiện trong phê bình mà Bác Hồ đã chỉ ra trên đây cũng đã xuất hiện nhiều lần ở nơi này, nơi kia, lúc này, lúc khác. Tình trạng trong sinh hoạt thì im hơi, lặng tiếng, nhưng sau khi họp, trong câu chuyện bàn trà, thậm thụt sau lưng thì nói xấu, tố cáo nhau đủ thứ chuyện. Hay họp hành công khai thì nâng nhau lên đủ thứ tử tế, nhưng khi đằng sau thì lại tìm mọi cách để dìm nhau xuống. Nổi lên là hiện tượng dĩ hòa vi quý, trong sinh hoạt tập thể, công khai, trước mặt nhau thì cái gì cũng tốt, nhưng đến khi vỡ chuyện, bị xử lý kỷ luật thì giậu đổ bìm leo, tố cáo nhau, đổ lỗi cho nhau đủ thứ.

Muốn công tác phê bình có hiệu quả tốt thì cần phải có những biện pháp tổng hợp, đồng bộ. Trước hết, cần có nhận thức, quan điểm đúng đắn về phê bình. Chỉ có nhận thức, quan điểm đúng về phê bình thì mới có được hành động chuẩn mực, hợp lý, hợp tình trong triển khai phê bình. Ví dụ như phải nhận thức đúng đắn rằng, mục đích của phê bình là để giúp nhau tiến bộ, tăng cường đoàn kết thống nhất, thì từ đó mới có thể có những chủ trương, cách làm đúng và có chất lượng. Nếu nhận thức sai về phê bình sẽ rất dễ dẫn đến phê bình sai mục đích, cách làm không phù hợp, nội bộ mất đoàn kết, phản tác dụng.

Để làm tốt công tác phê bình, đòi hỏi phải có các quy định cụ thể, chặt chẽ nhằm phát huy cao nhất tác dụng của công tác phê bình. Lưu ý sự cần thiết của những hướng dẫn chi tiết, cách làm cụ thể, thống nhất để mọi tổ chức và cá nhân cùng thực hiện tốt công tác phê bình, không vi phạm sai sót trong phê bình. Ngay từ năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Vạch khuyết điểm để sửa chữa, cũng phải nêu ưu điểm để phát huy. Muốn tự phê bình và phê bình có kết quả, cán bộ các cấp, nhất là cấp cao phải noi gương tốt”.

Trong công tác phê bình cần xác định rõ vai trò quan trọng của tổ chức cơ sở đảng, xây dựng tổ chức cơ sở đảng thật sự vững mạnh, trở thành môi trường trong sáng, lành mạnh, tạo thuận lợi cho từng cán bộ, đảng viên thực hiện tốt công tác phê bình. Môi trường không phù hợp, không lành mạnh sẽ dẫn đến việc phê bình thiếu dân chủ, không thực chất, hoặc áp đặt, cứng nhắc, làm cho cán bộ, đảng viên không dám phê bình hoặc phê bình hời hợt, hình thức, kém hiệu quả.

Cũng cần quan tâm tạo thuận lợi để quần chúng nhân dân tham gia phê bình cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Uy tín của người lãnh đạo là ở chỗ mạnh dạn thực hiện tự phê bình và phê bình, biết học hỏi quần chúng, sửa chữa khuyết điểm… chứ không phải ở chỗ giấu giếm khuyết điểm và e sợ quần chúng phê bình”. Chính Người cũng đã đưa ra mối quan hệ gắn bó giữa nhân dân với bộ đội trong công tác phê bình, chỉ rõ nhân dân có quyền góp ý, phê bình với bộ đội: “Tôi là người dân, tôi cũng có quyền phê bình, góp ý với bộ đội chứ. Bộ đội cách mạng là bộ đội của dân cơ mà”.

Yêu cầu rất quan trọng đặt ra của công tác phê bình và tự phê bình là cần thiết phải nêu cao trách nhiệm và tính tự giác của từng cán bộ, đảng viên. Chỉ có trên cơ sở xác định rõ trách nhiệm và tình cảm của mỗi cá nhân thì mới có thể có tinh thần tự nguyện, kiên quyết và cách làm phù hợp để từ đó đạt hiệu quả cao nhất trong hoạt động phê bình và tự phê bình.

Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, Quân đội nhân dân Việt Nam chúng ta không ngừng rèn luyện phấn đấu, tăng cường phê bình và tự phê bình để thực hiện đúng chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư, Bí thư Quân ủy Trung ương: “Đảng bộ Quân đội phải làm gương, làm mẫu về mọi mặt. Trong toàn quân không có cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm kỷ luật, kỷ cương của Đảng, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân”./.                                                                                 

  NHẬN DIỆN ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ TỰ DO TÔN GIÁO 

 

Một số người Việt chống cộng ở hải ngoại có quan điểm chống đối chính quyền Việt Nam, đã dựa vào chính sách chung của chính quyền Mỹ, rất coi trọng các quyền tự do, mà trong đó, quyền tự do tôn giáo gần như được xem là hàng đầu, để từ đó tạo những ảnh hưởng, tác động vào các sinh hoạt chính trị trong cộng đồng người Việt Nam. Năm 1988, khi đặt chân lên đất Thái Lan, ngay trong trại tị nạn dành cho người vượt biên, tôi đã rất ngạc nhiên vì trong môi trường đầy khó khăn, thiếu thốn và hoang mang vì tương lai bấp bênh, vô định, thế nhưng các hoạt động về tôn giáo đã diễn ra sôi nổi mang đầy màu sắc chính trị.

 

Các Ban trị sự, Hội đồng liên tôn các tôn giáo đã tập hợp các tín hữu, con chiên, đạo hữu của mình thành những đoàn thể để hoạt động không thuần túy về tôn giáo, mà còn nhằm xuyên tạc, chỉ trích chính quyền Việt Nam. Nhiều tài liệu, sách báo, thông tin từ hải ngoại được ấn hành, đưa vào trại tị nạn phát tặng miễn phí, kích động chống Việt Nam như báo Đường Sống (Mỹ), báo Quê Mẹ (Pháp) hay các tổ chức như BPSOS (Boat people SOS - Ủy ban cứu trợ người vượt biển).

 

Khi định cư ở Mỹ từ tháng 2/1991, tôi nhận thấy nhiều cơ sở tôn giáo được mở mang, phát triển và hoạt động rất năng động. Nhiều nhà thờ, nhà chùa mới được thành lập từ những vận động, đóng góp chủ yếu từ các cá nhân. Gắn liền với những kỷ niệm từ quê nhà, không ít nhà thờ, ngôi chùa lấy tên trùng với những nơi thờ tự quen thuộc như Giáo xứ Tân Sa Châu, Giáo xứ Tân Bùi Chu, Phát Diệm, Chùa Dược Sư, Chùa Vĩnh Nghiêm… Chính những cơ sở tôn giáo này cũng tự biến thành nơi hội họp, sinh hoạt chính trị vì các nhân sự, thậm chí các nhà lãnh đạo tôn giáo ở hải ngoại ít nhiều cũng nhuốm mùi chính trị cực đoan.

 

Ý niệm về “đấu tranh tôn giáo” với “đấu tranh cho dân chủ, tự do” đã trở thành phương tiện, là công cụ cho các cá nhân, tổ chức chống cộng cực đoan khai thác triệt để nhằm lợi dụng lòng tin của người dân còn mơ hồ, hay có định kiến với chính quyền Việt Nam. Các lãnh đạo cộng đồng, tổ chức chống cộng thường xuyên theo dõi các biến động xã hội trong nước không ngừng biến các hiện tượng được chú ý thành các “vấn đề tôn giáo” nghiêm trọng. Thí dụ, vụ án của linh mục Nguyễn Văn Lý, ngày 30/3/2007, tại Thừa Thiên Huế, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã mở phiên tòa công khai xét xử Nguyễn Văn Lý và đồng bọn về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” quy định tại khoản 1, điều 88 - Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại phiên tòa cho thấy thái độ bất hợp tác của ông Lý khi luôn tỏ ra chống đối, thậm chí đạp vào vành móng ngựa, hô hào, gây ồn ào. Ông Lý đã bị một nhân viên an ninh bịt miệng để giữ trật tự, và một bức ảnh ghi lại khoảnh khắc này đã được báo chí phương Tây, giới truyền thông chống cộng khai thác thành sự kiện “đàn áp, bịt miệng tự do tôn giáo”.

Khi sự kiện xảy ra, tôi và các đồng nghiệp của tuần báo Việt Weekly đã về Việt Nam, xin phép chính quyền về tận xã Thủy Biều, TP. Huế để tìm hiểu sự việc. Tại họ đạo Nguyệt Biều, đoàn báo chí từ hải ngoại của chúng tôi được tự do phỏng vấn các giáo dân tại địa phương về sinh hoạt tôn giáo tại đây. Các giáo dân kể chuyện cha Lý đã có công sửa đường, làm nhà vệ sinh công cộng, cấp con giống, cây trồng, mở lớp dạy máy tính, dạy ngoại ngữ miễn phí để đánh lừa, dụ dỗ niềm tin của một bộ phận giáo dân. Vụ án điển hình này cho thấy sự cấu kết của các tổ chức chính trị ở hải ngoại với các nhân vật chống đối đội lốt tôn giáo. Thông qua việc móc nối, vận động để xin tiền từ các tổ chức, cá nhân ở hải ngoại, ông Lý đã tham gia làm cố vấn vào “Ủy ban tự do tôn giáo cho Việt Nam” năm 2000, kích động giáo dân ký đơn đòi đất vốn của Giáo hội Thiên Chúa giáo đã giao cho hợp tác xã quản lý từ năm 1975, gây mâu thuẫn giữa người dân và chính quyền.

 

Đoàn phóng viên báo Việt Weekly cũng có mặt tại Hà Nội để tham dự buổi họp báo của Đại sứ Mỹ ở Việt Nam là ông Michael Marine, khi được hỏi về bức hình “bịt miệng cha Lý” ở phiên tòa, ngài đại sứ cũng nêu rõ là hành động gây rối trật tự ở tòa án, nếu ở Mỹ cũng sẽ bị ngăn chặn bằng vũ lực. Tuy nhiên, theo góc nhìn của nhà ngoại giao Mỹ, thì chính quyền Việt Nam cũng cần phải có động thái trao cho các công dân của mình “không gian rộng rãi hơn để biểu đạt ý kiến của mình”.

 

Những vụ án mang màu sắc tôn giáo liên quan đến vấn đề tranh chấp đất hay bất động sản, qua quan sát của tôi, hầu hết đều có sự tác động của các thế lực chính trị hải ngoại kích động, xúi giục. Cái gọi là “Yểm trợ đấu tranh tôn giáo” ở hải ngoại được tiến hành rất bài bản. Họ tập hợp nhau tại các địa điểm công cộng như công viên, khu chợ, bãi đậu xe, trung tâm thương mại, nơi có đông đảo người dân gốc Việt sinh sống để tổ chức các buổi “thắp nến cầu nguyện” hay “tuyệt thực cho tự do, nhân quyền”. Các tổ chức chống cộng này cho rằng các vụ tranh chấp đất đai ở những địa phương có cộng đồng người Công giáo sinh sống nhằm mục tiêu “thu hẹp tài sản của Giáo hội Công giáo, chia cắt nơi cư trú của đồng bào giáo dân, hòng làm suy yếu sự phát triển của Công giáo nói riêng”. Đây là những luận điệu xuyên tạc vô cùng ngớ ngẩn. Vì quyền làm chủ đất đai nào là của người Công giáo? Chính quyền địa phương mỗi nơi đều có quy định theo pháp luật để tiến hành thay đổi môi trường sống, sự phát triển của đô thị theo nhu cầu thực tế. Thế nhưng việc chuyển đổi quỹ đất này đã bị thổi phồng thành những vụ án “đàn áp tôn giáo” gây nên nhiều ngộ nhận cho người ở hải ngoại thiếu thông tin về sự việc.

Mặt khác các đối tượng chống cộng luôn phao tin rằng, người Cộng sản là “vô thần,” người Cộng sản coi “tôn giáo là thuốc phiện”, một khi tôn giáo ở Việt Nam lớn mạnh, sẽ trở thành những lực lượng đối kháng có thể đè bẹp chế độ! Vì vậy chính quyền Cộng sản Việt Nam phải áp dụng các cách đàn áp tinh vi, làm suy yếu tôn giáo. Từ đây họ đã đánh vào tâm lý chung của những gia đình di cư năm 1954, các quan chức chế độ Việt Nam cộng hòa luôn có ánh nhìn hoài nghi về chính sách tôn giáo của chính quyền Việt Nam. Chính những cơ quan “truyền thông đen”, mang danh nghĩa là “truyền thông quốc tế” như BBC, RFA, VOA,.. mà nhân sự của các “đài Việt ngữ” phần lớn đều là những người làm truyền thông thiếu khách quan, thiếu thiện chí trong việc đưa tin, thổi phồng về vấn đề tự do tôn giáo ở Việt Nam. Nhiều phóng sự, hội luận của các kênh này luôn khai thác các nhân vật đối lập, hay “bất đồng chính kiến” để gây hoang mang cho người dân ở hải ngoại, bằng những thủ thuật kích động nhưng lại tỏ ra khách quan, đa chiều.

 

Đồng thời nhu cầu về tâm linh, thể hiện tình yêu nước đã nhuốm màu sắc chính trị với chiều hướng cực đoan. Ở vùng nam California, tôi đã từng ghi nhận, phỏng vấn nhiều tu sĩ, các cha, các nhà sư từ trong nước đi sang Mỹ theo diện thăm thân hay du lịch, nhưng khi tìm hiểu, đi sâu vào vấn đề, mới rõ là họ được một số cá nhân, hoặc tổ chức chính trị ở hải ngoại mời đi Mỹ để “gây quỹ từ thiện” hay “xin quyên góp xây dựng nhà thờ, xây chùa” ở Việt Nam. Mỗi buổi họp mặt này, những bài than khổ về sự khó khăn trong sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam đều được các vị nêu lên theo ánh nhìn thiếu thiện chí, gợi niềm thương cảm trong cộng đồng. Nếu không trực tiếp về Việt Nam để tìm hiểu rõ sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam, nhiều bà con ta cứ ngỡ ở Việt Nam không được đi lễ, không được đi chùa vì các cơ sở tôn giáo này do “Nhà nước quản lý”!

 

Điều đáng quan ngại hơn nữa, đó chính là sự hà hơi, tiếp tay của các vị “dân cử người Mỹ gốc Việt” trong các dịp tranh cử các vị trí như nghị viên thành phố, thị trưởng thành phố, nghị sĩ tiểu bang hay liên bang. Câu chuyện “đấu tranh cho tự do tôn giáo, quyền con người” tiếp tục được họ đưa ra để vận động tranh cử. Điển hình như các thành phố có đông người Việt cư trú như Westminster, Garden Grove, Fountain Valley, Santa Ana… (miền nam California), hay San Jose (miền bắc California), các chính trị gia đã tận dụng chiêu bài tranh cử không gì khác hơn là “chống cộng và đấu tranh cho tự do tôn giáo ở Việt Nam”. Đây là những khẩu hiệu, chiêu bài dễ hô hào, dễ tạo sự quan tâm của cử tri.

 

Ngân sách tranh cử như chiếc bánh được chia chác nhau theo từng phần: Giới lãnh đạo cộng đồng chống cộng tổ chức biểu tình, kêu gọi cử tri ký thỉnh nguyện thư đòi quyền con người cho các nhà đối lập trong nước. Còn các cơ quan “truyền thông đen” thì được nhận phần quảng cáo cho những thông điệp chính trị sặc mùi mị dân như “đòi quyền tự do con người cho người dân Việt Nam”. Từ đây đã tạo thành một bộ máy tuyên truyền, xuyên tạc, một “kỹ nghệ chống cộng” mang tính vòng tròn khép kín để thỏa mãn lòng hận thù tồn tại từ trước, nhằm bào mòn tình cảm gắn bó của người dân trong và ngoài nước. Và trên hết, để vừa có danh, vừa có lợi, họ đã bất chấp sự công bằng, lẽ phải và quyền lợi tối thượng của dân tộc là sự ổn định xã hội để phát triển kinh tế, đưa đất nước từ nghèo khó sau chiến tranh, tiến lên một nước có nền hòa bình bền vững, ổn định lâu dài để phát triển.

 

Là người sống trong cộng đồng lâu năm, theo dõi những diễn biến chính trị và sinh hoạt cộng đồng một cách toàn diện, nên tôi đã nhận diện được rõ âm mưu, thủ đoạn chống phá khối đại đoàn kết dân tộc, gây hoang mang chia rẽ tôn giáo của các tổ chức chống cộng lưu vong. Theo tôi, hành động của họ không vì bất cứ lòng trắc ẩn, tình đồng bào nào hết, ngoài việc tạo nên những cái “bánh vẽ” to tướng khiến một bộ phận người trong nước có tinh thần vọng ngoại hiểu sai lệch vấn đề về tự do tôn giáo, hay quyền con người. Cần phải hiểu rằng tự do của mỗi cá thể trong xã hội phải đặt dưới quy định của luật pháp, không thể tùy tiện nhân danh sự tự do để sinh hoạt tôn giáo mang tính chính trị, chống phá chế độ.

Nguồn Tuyên giáo TW

  VAI TRÒ CỦA VIỆC HỌC TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

ĐỐI VỚI CÁN BỘ ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY

Giá trị của lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với vai trò cầm quyền và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, với mỗi cán bộ, đảng viên (CB, ĐV) và nhân dân Việt Nam đã được chứng minh trong thực tiễn.

Trước thực trạng một bộ phận CB, ĐV lười học LLCT, cùng với việc tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của LLCT, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương, giải pháp để khắc phục tình trạng này. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng đã chỉ rõ một trong 9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay là: “Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập LLCT; lười học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”. Nghị quyết cũng chỉ rõ hạn chế: “Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho CB, ĐV về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giảng dạy và học tập nghị quyết của Đảng chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu quả, nội dung và phương pháp giáo dục, truyền đạt chậm đổi mới; chưa tạo được sự thống nhất cao trong nhận thức về tình trạng suy thoái, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" và những hậu quả gây ra”.

Trong Kết luận số 21-KL/TW ngày 25-10-2021 của Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đó là phải tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; phải tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của CB, ĐV về tầm quan trọng của nghiên cứu, học tập LLCT, đề cao trách nhiệm tự học, tự nghiên cứu của cá nhân. Trước đó, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 26-5-2014 về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý, nghị quyết đã khẳng định: Đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý là nhiệm vụ quan trọng của Ðảng.

Đảng ta đã nhiều lần nhấn mạnh quan điểm xuyên suốt, học tập LLCT là nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của CB, ĐV, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT phải luôn bám sát mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ của chiến lược cán bộ và gắn kết chặt chẽ với các khâu trong công tác cán bộ. Bởi thế, đào tạo LLCT phải bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ gắn với quy định của Đảng về công tác quy hoạch, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử, phân cấp quản lý cán bộ... Tránh hiện tượng giao chỉ tiêu, cử cán bộ đi học LLCT theo kiểu “điền vào chỗ trống” khiến người học không có động lực, không thấy đó là nhu cầu thiết thân mà còn gây tốn kém, lãng phí ngân sách, thời gian, công sức. Trên thực tế, một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa quan tâm đúng mức tới việc bồi dưỡng LLCT cho đảng viên, có hiện tượng khoán trắng cho cơ quan tham mưu mà thiếu kiểm tra, giám sát. Việc cụ thể hóa các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng thành chương trình, kế hoạch tổ chức thực hiện ở một số địa phương, đơn vị còn chung chung, chỉ đạo thiếu quyết liệt, còn trông chờ, ỷ lại cấp trên. Tình trạng bớt thời gian, cắt xén nội dung trong quán triệt, truyền tải nghị quyết của Đảng không hiếm. Điều này đã được Đảng ta chỉ ra. Tuy vậy, những giải pháp để khắc phục ở cơ sở hiện nay là chưa triệt để.

Nhiều cán bộ qua đào tạo LLCT ở các bậc học đã nêu lên một thực trạng, đó là sự trùng lặp nội dung các bậc học, thiếu sự liên thông, tính kế thừa, tính thống nhất giữa các cấp học dẫn đến việc cán bộ phải học nhiều lần một số chuyên đề, học phần. Chương trình đào tạo vẫn còn nặng về lý thuyết, kinh viện mà chưa có bổ sung thấu đáo về tính thực tiễn. Đúng như tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII chỉ ra: “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa có chiều sâu, không theo kịp tình hình thực tế”. Như vậy, phải có nghiên cứu thấu đáo việc đưa chương trình, nội dung vào giảng dạy ở các bậc học. Đây cũng là vấn đề lớn mà Đảng, Nhà nước, hệ thống các cơ sở đào tạo cần quan tâm, tìm ra phương thức hợp lý.

 

 

 

 

NHỮNG LÃNH TỤ VĨ ĐẠI CỦA PHONG TRÀO CÔNG NHÂN VÀ CỘNG SẢN QUỐC TẾ

 

1. V. I. Lênin (1870 - 1924)

Vladimir Ilyich Lenin là một lãnh tụ của phong trào cách mạng vô sản Nga, là người phát triển học thuyết của Các Mác và Phriđơrich Ăngghen. Ông là người sáng lập ra Quốc tế Cộng sản; đồng thời lãnh đạo nhân dân Nga tiến hành Cách mạng tháng Mười Nga, thành lập ra Nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới do Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo (7/11/1917). Ông là trong 100 người có ảnh hưởng nhất đến toàn thế giới. 

 

2. Hồ Chí Minh (1890 - 1969)

Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam, người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, một chiến sĩ xuất sắc, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc.

 Người đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành Cách mạng tháng Tám (1945), thành lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2/9/1945), nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Người được UNESCO vinh danh là "Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam", góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới.

 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đề ra đường lối đúng đắn đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Người sáng lập ra Đảng Mácxít - Lêninnít ở Việt Nam, sáng lập ra Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, sáng lập ra các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và sáng lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Người sáng lập ra chế độ Dân chủ Nhân Dân Việt Nam (nay là chế độ Dân Chủ XHCN Việt Nam), góp phần tăng cường đoàn kết quốc tế. Người là tấm gương sáng của tinh thần tập thể, ý thức tổ chức và đạo đức cách mạng.

3. Fidel Castro (1926 - 2016)

Fidel Castro – vị lãnh tụ huyền thoại của Cách mạng Cuba,Fidel Castro là biểu tượng của tinh thần chiến đấu ngoan cường, là lá cờ đầu của phong trào cách mạng Mỹ La-tinh.

 

Ông là người giải phóng nhân dân Cuba thoát khỏi ách thống trị độc tài của Đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai Baxtia. Ông là người sáng lập nên Đảng CS Cuba, Người sáng lập nên chế độ Dân chủ XHCN và Nhà nước Công nông đầu tiên ở Châu Mỹ. Ông là người bạn thân thiết của nhân dân Việt Nam, Người đã luôn ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta, cũng như cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía bắc chống Trung Quốc và chiến tranh biên giới Tây Nam chống Khmer đỏ Campuchia xâm lược.

Fidel không cho phép dựng tượng ông ở bất cứ đâu và đặt tên đường phố theo tên ông. Ông nói rằng không muốn có một sự tôn sùng cá nhân nào. Tuy nhiên, không ai bảo ai, hình ảnh và lời nói của ông ở khắp mọi nơi, trên đường phố, tên ông được hô vang ở bất cứ sự kiện lớn nào của đất nước. Hầu hết người dân Cuba, dù yêu mến ông hay không, gọi ông với cái tên thân thiết: “Fidel”.

 Tạp chí Time năm 2012 gọi Castro là 1 trong 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất mọi thời đại. Lãnh tụ Cuba Fidel Castro luôn là một nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn, một biểu tượng về một con người kiên cường đấu tranh cho tinh thần độc lập dân tộc và vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của con người. 

Ông thuộc lớp các nhà cách mạng kiệt xuất của thế giới thứ ba từng cống hiến đời mình cho lý tưởng tự do và giải phóng dân tộc như Hồ Chí Minh, Nelson Mandela, Che Guevara… Fidel đã trở thành một người anh hùng, một nguồn cổ vũ tinh thần của những dân tộc nghèo đói và bị áp bức trên thế giới.

St

CÁN BỘ, CHIẾN SỸ QUÂN ĐỘI TỰ HÀO THEO ĐẢNG!

         Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện. Kể từ khi ra đời cho đến nay, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Qua hơn 36 năm đổi mới, Đảng đã lãnh đạo đất nước vượt qua khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế, củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
     Đảng ta xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.
     Đó là kết quả của sự nỗ lực và phấn đấu không ngừng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân./.


Yêu nước ST.

“ĐỒNG BÀO LƯƠNG VÀ GIÁO HÃY ĐOÀN KẾT CHẶT CHẼ, GIÚP ĐỠ LẪN NHAU”

Ngày 10-8-1968, Bác viết “Điện gửi đồng bào xã Đoài” Nghệ An thăm hỏi địa phương vừa bị máy bay Mỹ ném bom tàn sát nhiều người dân, làm chết hai vị giám mục và ba vị linh mục, phá hủy nhà thờ và nhà cửa của dân. Bức điện viết: “Tôi rất động lòng khi được tin ngày 21 tháng 7 vừa qua, máy bay giặc Mỹ lại ném bom, bắn phá xã Đoài... Đồng bào lương và giáo hãy đoàn kết chặt chẽ, giúp đỡ lẫn nhau và chính quyền địa phương tìm cách giúp đỡ đồng bào giải quyết những khó khăn trước mắt để khôi phục lại đời sống bình thường và cùng nhau ra sức chống Mỹ, cứu nước”. Việt Nam là đất nước đa dân tộc, tôn giáo, trong quá trình lãnh đạo đất nước Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc xây dựng khối đoàn kết chặt chẽ giữa các tôn giáo, các dân tộc trong khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân với chính sách tôn giáo nhất quán: “Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân”; công dân có tín ngưỡng, tôn giáo hay không có tín ngưỡng, tôn giáo đều là công dân Việt Nam, có quyền và nghĩa vụ như nhau. Đoàn kết lương - giáo là đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo; đoàn kết giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thực hiện chức năng đội quân công tác, cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn quán triệt và thực hiện nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về công tác dân vận, nhất là trên các địa bàn có đồng bào theo đạo, tham gia xây dựng hệ thống chính trị, tăng cường quốc phòng - an ninh, phát triển kinh tế - xã hội; giúp dân xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Đồng thời, chủ động tuyên truyền, nâng cao ý thức cảnh giác cho các tầng lớp nhân dân, đấu tranh có hiệu quả với mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, nhất là những luận điệu xuyên tạc, mua chuộc, lôi kéo, xúi giục các chức sắc tôn giáo có quan điểm tiêu cực để kích động quần chúng nhân dân tụ tập đông người, biểu tình bất hợp pháp, bạo động… gây mất đoàn kết giữa đồng bào lương - giáo trên địa bàn, củng cố đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo và tình hữu nghị với các nước láng giềng, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Dung NCS30A

Chiến tranh qua đi, nỗi đau vẫn ở lại

Có một cựu chiến binh già, gần đất xa trời nhưng vẫn phải lui cui thổi bếp lửa, chạy vạy làm việc nhà, lo những bữa ăn và cả những cái áo mặc cho hai đứa con đã vào độ tuổi trưởng thành. Anh con lớn đã vào độ tuổi 30 nhưng tâm hồn lại như con nít và mãi như vậy, anh hay phá làng phá xóm, thẫn thờ như mơ và đi đâu là quên lối về nhà. Người cựu chiến binh phải xích anh vào gốc cây và chỉ tháo ra mỗi khi có người dắt đi bên cạnh… Chị con gái cũng đã ở độ tuổi trưởng thành nhưng chỉ nói những câu vô nghĩa, không thể tự mặc quần áo hay làm những việc vệ sinh đơn giản...

NÂNG CAO CẢNH GIÁC PHÒNG, CHỐNG “PHI CHÍNH TRỊ HÓA” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH!

         Trong giai đoạn hiện nay, âm mưu “Phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch tuy chưa thể làm cho quân đội ta “biến chất”, mất phương hướng và mục tiêu chính trị; chưa thể xóa bỏ được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với quân đội, nhưng sự tồn tại của nó là hết sức nguy hiểm. Bởi vì, âm mưu “Phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch đang có được một số điều kiện để tồn tại, đó là: tình hình chính trị, quân sự phức tạp trên thế giới; những tác động tiêu cực từ điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước, nhất là mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường đã và đang tác động ảnh hưởng tiêu cực đến tiềm lực chính trị, tinh thần của quân đội ta, cũng như tác động đến tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, chiến sĩ.
     Thực trạng tình hình chính trị tư tưởng, nhận thức về “Phi chính trị hóa” quân đội của bộ đội ta bên cạnh những ưu điểm, những mặt tích cực, cần phải khắc phục có hiệu quả những hạn chế, yếu kém. Một bộ phận cán bộ, chiến sĩ ở mức độ khác nhau giảm sút niềm tin vào lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thiếu yên tâm gắn bó với quân đội, chưa nêu cao tinh thần cảnh giác trước những âm mưu thủ đoạn của địch, làm việc cầm chừng, thiếu chí tiến thủ.
Để tiếp tục đấu tranh làm thất bại âm mưu thủ đoạn “Phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch, CB,CS trong Quân đội ta cần thực hiện tốt các giải pháp chủ yếu:
+ Thường xuyên nâng cao bản lĩnh chính trị, củng cố và giữ vững trận địa chính trị tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ.
+ Xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, xây dựng và luyện tập thành thạo các phương án chiến đấu, không để bị bất ngờ trước mọi tình huống.
+ Tăng cường công tác lãnh đạo, quản lý chặt chẽ nội bộ, ngăn chặn và đập tan các hoạt động chiến tranh tâm lý, gián điệp, tình báo của địch.
+ Phối hợp với địa phương và các đơn vị xây dựng địa bàn an toàn, vững mạnh, kịp thời ngăn chặn và giải quyết có hiệu quả những biến động (nếu xảy ra).
     Phòng, chống “phi chính trị hóa” quân đội của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách hàng đầu, là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của dân tộc ta. Kiên định sự lãnh đạo của Đảng, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng, thường xuyên cảnh giác sẵn sàng chiến đấu cao, nâng cao sức mạnh tổng hợp của quân đội, kịp thời xử lý có hiệu quả và đúng đắn các tình huống có thể xảy ra là trực tiếp góp phần đánh bại “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta./.




Yêu nước ST.

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 10 THÁNG 8 NĂM 1968!

     “Đồng bào lương và giáo hãy đoàn kết chặt chẽ, giúp đỡ lẫn nhau”!
     Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Điện gửi đồng bào xã Đoài”, Báo Nhân dân đăng số 5233, ngày 10 tháng 8 năm 1968.
     Đây là giai đoạn đế quốc Mỹ dùng không quân, hải quân bắn phá miền Bắc để cắt đường tiếp tế của hậu phương cho chiến trường miền Nam, chúng đã tàn phá nhiều thành phố, làng quê; ngày 21 tháng 7 năm 1968 máy bay Mỹ bắn phá xã Đoài, tỉnh Nghệ An làm 02 giám mục, 03 linh mục bị thương; một số tu sĩ, đồng bào giáo và lương bị thương và tử vong, nhà thờ bị hư hỏng, hàng trăm nhà dân bị tàn phá. Biết tin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Điện thăm hỏi, động viên nhân dân xã Đoài, tỉnh Nghệ An; trong Điện Bác kêu gọi: “Đồng bào lương và giáo hãy đoàn kết chặt chẽ, giúp đỡ lẫn nhau”.
     Việt Nam là đất nước đa dân tộc, tôn giáo, trong quá trình lãnh đạo đất nước Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc xây dựng khối đoàn kết chặt chẽ giữa các tôn giáo, các dân tộc trong khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân với chính sách tôn giáo nhất quán: “Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân”; công dân có tín ngưỡng, tôn giáo hay không có tín ngưỡng, tôn giáo đều là công dân Việt Nam, có quyền và nghĩa vụ như nhau. Đoàn kết lương - giáo là đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo; đoàn kết giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
     Thực hiện chức năng đội quân công tác, cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn quán triệt và thực hiện nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về công tác dân vận, nhất là trên các địa bàn có đồng bào theo đạo, tham gia xây dựng hệ thống chính trị, tăng cường quốc phòng - an ninh, phát triển kinh tế - xã hội; giúp dân xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. 
     Đồng thời, chủ động tuyên truyền, nâng cao ý thức cảnh giác cho các tầng lớp nhân dân, đấu tranh có hiệu quả với mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, nhất là những luận điệu xuyên tạc, mua chuộc, lôi kéo, xúi giục các chức sắc tôn giáo có quan điểm tiêu cực để kích động quần chúng nhân dân tụ tập đông người, biểu tình bất hợp pháp, bạo động… gây mất đoàn kết giữa đồng bào lương - giáo trên địa bàn, củng cố đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo và tình hữu nghị với các nước láng giềng, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
Môi trường ST.