Thứ Tư, 10 tháng 8, 2022

 ĐẤU TRANH CHỐNG LUẬN ĐIỆU "QUÂN ĐỘI KHÔNG CẦN THỰC HIỆN MỤC TIÊU ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI"

 

Các thế lực thù địch sử dụng chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, tiến hành nhiều thủ đoạn, nhiều hướng tấn công theo phương châm đánh “mềm, ngầm, sâu” trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và tác động đến mọi đối tượng bằng con đường kích động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” làm suy yếu nội bộ của chúng ta.

Trong đó, các thế lực thù địch thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội, với luận điểm kích động: “Quân đội không cần thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội".  

Đòn đánh nham hiểm nhằm làm suy yếu quân đội từ gốc

Thời gian qua, các thế lực thù địch xác định tiến hành nhiều thủ đoạn tinh vi, trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, theo lộ trình “5 hóa”, trong đó có “vô hiệu hóa quân đội”. Bởi lẽ, các thế lực thù địch đưa ra nhận định rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam đang nắm chắc quân đội, công an nên chưa thể lật đổ được vai trò cầm quyền, vai trò lãnh đạo xã hội”.

Vì thế, chúng xác định âm mưu cơ bản, lâu dài là thực hiện “vô hiệu hóa quân đội” thì phải theo kịch bản, con đường “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam. Khi đó quân đội không còn là lực lượng chính trị tin cậy, tách rời khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thì sẽ không còn công cụ đắc lực để bảo vệ Đảng nên dễ lật đổ chế độ XHCN ở Việt Nam.

Mục đích phản động của luận điệu nêu trên là làm cho cán bộ, chiến sĩ mơ hồ ảo tưởng, rồi dần dần xa rời mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta, không trung thành với mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam là “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Nếu quân nhân nào bị ảo tưởng, nhận thức không đúng về mục tiêu, lý tưởng của Quân đội ta phải phục tùng mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam thì sẽ mất phương hướng chính trị.

Thực hiện thủ đoạn lấy tư tưởng là khâu đột phá, các thế lực thù địch đưa ra những luận điểm rất đa dạng và biến hóa: “Quân đội là trung lập”, “quân đội đứng ngoài chính trị”, “quân đội không cần tham gia chính trị”, “quân đội chỉ cần đề cao tính nhân dân, tính dân tộc”... Bên cạnh đó, chúng còn sử dụng con đường vòng là kích động truyền bá lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, buông thả, thờ ơ với chính trị để làm suy thoái về đạo đức lối sống dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị và phai nhạt về mục tiêu, lý tưởng trong đội ngũ cán bộ, chiến sĩ.

Chưa dừng lại ở đó, các thế lực thù địch, bất mãn chính trị từng đưa ra cái gọi là kiến nghị rằng: Lời thề thứ nhất trong "10 Lời thề danh dự của quân nhân" chỉ cần diễn đạt ngắn gọn lại là “Hy sinh tất cả vì Tổ quốc Việt Nam”, bỏ cụm từ “dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam” và cụm từ “phấn đấu thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”... Chúng cũng đưa ra đề xuất "quân đội chỉ cần thực hiện “công tác chính trị”, chứ không cần thực hiện “công tác đảng” và không cần xác định "Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội"(!).

 Nếu cán bộ, chiến sĩ quân đội không có bản lĩnh chính trị vững vàng, phân biệt rõ đúng, sai mà lại bị kích động và nhận thức không đúng đắn về sự thống nhất giữa mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam với mục tiêu chiến đấu của Quân đội ta thì tác hại rất lớn. Tác hại là không chỉ gây mơ hồ, ảo tưởng về nhận thức tư tưởng chính trị mà sẽ dẫn đến hành động dễ bị lệch lạc trong thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn cách mạng hiện nay. 

Giữ vững mạch sống, “linh hồn” của Quân đội nhân dân Việt Nam

Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, phục vụ. Cội nguồn hàng đầu làm nên sức mạnh, sự trưởng thành và chiến thắng của Quân đội ta trong gần 8 thập niên qua là do sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của QĐND Việt Nam. Vì vậy, việc thấm nhuần và thực hiện mục tiêu, lý tưởng “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” phải được xác định là mạch sống và “linh hồn” của QĐND Việt Nam, là phương châm hành động của mọi cán bộ, chiến sĩ.

Việc cần làm thường xuyên, bất di bất dịch là giữ vững, tăng cường vai trò lãnh đạo và kiên định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, kiên quyết phản bác, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa quân đội” của các thế lực thù địch. Đánh giá của Đảng ta về nguy cơ: “Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta”(1). Vì thế, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta phải tuân thủ triệt để cơ chế, nguyên tắc lãnh đạo lực lượng vũ trang là: “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với QĐND, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh”(2). Bởi vì, có Đảng lãnh đạo mới có đường lối đúng, mới thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng. Đối với LLVT thì còn Đảng là còn tất cả; nếu Đảng ta không còn giữ quyền lãnh đạo xã hội, giữ quyền lãnh đạo LLVT thì sẽ mất chế độ XHCN.

Để vô hiệu hóa âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch làm biến chất về chính trị Quân đội ta, cần tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, nhiều lực lượng xã hội. Trong đó, cần phát huy vai trò chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên của Quân ủy Trung ương, Ban chỉ đạo 35, cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng đối với các cấp ủy đảng trực thuộc, thường xuyên nắm chắc và nhận diện đúng bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch nhằm vô hiệu hóa Quân đội ta về chính trị.

Nâng cao tính khoa học trong tổ chức hoạt động đấu tranh làm thất bại luận điểm sai trái “Quân đội không cần thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” của các thế lực thù địch. Về lý luận, phải chỉ rõ quân đội ra đời gắn liền với sự ra đời của nhà nước do yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp, nên bất cứ quân đội nào cũng mang bản chất và phục vụ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của giai cấp sinh ra.

Công khai bản chất giai cấp công nhân của LLVT cách mạng, V.I.Lênin đề ra nguyên tắc xây dựng Hồng quân và Công an Xô viết là phải đặt dưới sự lãnh đạo, phải thực hiện mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng Bolshevik Nga (Đảng Cộng sản Liên xô). Vận dụng sáng tạo tư tưởng của V.I.Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, ngay từ năm 1930, trong “Chánh cương vắn tắt” của Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã yêu cầu phải “Tổ chức ra quân đội công nông”.

Vì thế, trong suốt quá trình tổ chức xây dựng, lãnh đạo, giáo dục Quân đội ta, Người luôn nhắc nhở: “Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”(3); do đó, “Phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội. Phải tăng cường giáo dục chính trị để nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho toàn quân”(4). Đảng ta đã nhấn mạnh rằng: “Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc”(5).

Các thế lực thù địch sử dụng đòn đánh nguy hiểm làm suy yếu nội bộ Quân đội ta về chính trị thì chúng ta phải có giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, mà trực tiếp là giáo dục sâu sắc về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta. Nội dung giáo dục chính trị nói chung, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta nói riêng ở mỗi đơn vị phải phù hợp với mỗi đối tượng quân nhân, bảo đảm những nội hàm của mục tiêu “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” trong mỗi giai đoạn cụ thể, đặc biệt bám sát tinh thần mới mà Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra.

Bên cạnh đó, cần thực hiện tốt công tác quản lý chính trị nội bộ, ngăn chặn và làm thất bại các hoạt động chiến tranh tâm lý của các thế lực thù địch. Chú trọng công tác dân vận, kết hợp với cấp ủy, chính quyền và các tổ chức chính trị-xã hội ở địa phương nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đấu tranh phản bác, vạch trần các luận điểm sai trái, phản động trên lĩnh vực tư tưởng chính trị.

QĐND Việt Nam nguyện mãi mãi là lực lượng chính trị trung thành với mục tiêu, lý tưởng “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì thế, không có một thế lực thù địch nào có thể làm thay đổi bản chất, mục tiêu chính trị của QĐND Việt Nam-một quân đội "nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng". Trong giai đoạn hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Quân đội ta nỗ lực phấn đấu thực sự là đội quân chiến đấu tinh nhuệ, lực lượng chính trị tin cậy cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, vì "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

QĐND

 

 

 

VẠCH TRẦN TRÒ 'CHẠY TỘI' CHO TRUNG QUỐC Ở BIỂN ĐÔNG 

 

Báo chí chính thống và chuyên gia “thân” Trung Quốc lại tiếp tục đăng tải các bài viết để “chạy tội” cho các hành vi của nước này ở Biển Đông.

Mới đây, tờ South China Morning Post đã đăng bài viết của TS Mark J.Valencia, người đang làm việc cho Viện Nghiên cứu quốc gia của Trung Quốc về Biển Đông, với tựa đề What is driving China’s “assertiveness” in the South China Sea? (tạm dịch: Điều gì khiến Trung Quốc “quyết đoán” ở Biển Đông).

Đổ lỗi

Bài viết có nội dung phản biện lại báo cáo của một cơ quan nghiên cứu chính sách từ Mỹ về tình hình Biển Đông. Bỏ qua các ý kiến phản biện về báo cáo vừa nêu, bài viết của TS Valencia hướng đến việc giải thích những hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông chủ yếu dựa trên những bài học lịch sử và nước này cần đảm bảo khả năng phòng vệ trước các mối nguy - cụ thể là từ Mỹ, do cuộc cạnh tranh quyền lực giữa Washington và Bắc Kinh trong khu vực.

 

Cụ thể, tác giả cho rằng: “Đối với Trung Quốc, từ lịch sử thì Biển Đông có thể là khu vực dễ bị tiếp cận bởi các nước phương Tây, vốn tìm cách kiểm soát và đô hộ Trung Quốc”. Chính vì thế, theo tác giả, Bắc Kinh đang tăng cường năng lực thu thập thông tin, giám sát và do thám (ISR) nhằm mục tiêu vừa nêu, đảm bảo nguy cơ phương Tây “tấn công phủ đầu”. Các ngụy biện này nhằm cho rằng tại Biển Đông, Trung Quốc chỉ đang “phòng thủ” các nguy cơ từ phương Tây.

 

Đây không phải là lần đầu tiên TS Valencia có những bài viết “định hướng” trách nhiệm cho căng thẳng ở Biển Đông. Thực tế, Thanh Niên từng nhiều lần phản ảnh về các bài viết của vị “chuyên gia quốc tế” này.

 

Cụ thể, vào tháng 5.2021, ông Valencia có 2 bài viết liên quan vấn đề Biển Đông đăng trên các báo Asia Times và South China Morning Post lần lượt là “South China Sea: Muddying the waters” (tạm dịch: Biển Đông giữa các hành động gây bất ổn), và “US-China race for surveillance supremacy in South China Sea risks a needless clash” (tạm dịch: Cuộc chạy đua Mỹ - Trung về năng lực giám sát Biển Đông có nguy cơ dẫn đến đụng độ không cần thiết). Trước đó, vào tháng 3.2021, ông Valencia đăng bài trên tờ South China Morning Post có tựa “With its support for US strategy, France is playing with fire in the South China Sea” (tạm dịch: Hỗ trợ cho chiến lược của Mỹ, Pháp đang “đùa với lửa” ở Biển Đông). Hay ngày 1.1.2021, ông Valencia viết bài “US and its allies must be wary of provoking South China Sea conflict over freedom of navigation” (tạm dịch: Mỹ và đồng minh cần thận trọng việc kích động xung đột trên Biển Đông về tự do hàng hải) trên tờ South China Morning Post, hay vào tháng 11.2020 có bài “What really drives the South China Sea conflict” (tạm dịch: Nguyên nhân nào dẫn đến nguy cơ xung đột ở Biển Đông) trên Asia Times.

 

Nội dung cơ bản của các bài viết trên vẫn là đổ lỗi rằng các hành động của phương Tây đã khiến Trung Quốc phải phản ứng ở Biển Đông, chứ không phải Trung Quốc chủ động gây căng thẳng.

 

Đến nói một đàng, làm một nẻo

 

Rõ ràng, cạnh tranh quyền lực Mỹ - Trung tại khu vực Thái Bình Dương là thực tế đang diễn ra. Tuy nhiên, hoàn toàn phi lý nếu giải thích các động thái của Trung Quốc ở Biển Đông chỉ mang tính chất “phòng vệ”. Cụ thể, từ năm 2016, các hình ảnh vệ tinh cho thấy Bắc Kinh đã xây dựng xong đường băng dài 3.000 m, nhà chứa máy bay cỡ lớn… ở bãi đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa. Cùng năm 2016, các hình ảnh khác cũng chỉ ra hiện trạng tương tự trên 2 bãi đá Xu Bi và Vành Khăn (quần đảo Trường Sa) mà Bắc Kinh chiếm đóng trái phép.

 

Sau khi hoàn thành các cơ sở hạ tầng, Trung Quốc lại tiến thêm một bước là điều động nhiều loại máy bay quân sự đến khu vực này, dù chưa rõ có đồn trú hay không. Đến năm 2018, ngoài dấu vết máy bay quân sự tại các bãi đá này, những loại vũ khí như hệ thống tên lửa đối hạm YJ-12B, tên lửa đối không HQ-9B cũng đã được triển khai đến các bãi đá ở Trường Sa, theo hình ảnh vệ tinh và phân tích được công bố bởi Sáng kiến Minh bạch hàng hải châu Á (AMTI) thuộc Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS) có trụ sở tại Washington (Mỹ).

 

Thêm vào đó, trong suốt năm 2020 và 2021, Trung Quốc tự ban hành luật hải cảnh mới và luật thông báo an toàn hàng hải để tìm cách kiểm soát một cách phi pháp vùng biển này, nhằm đạt được sự kiểm soát tuyệt đối ở Biển Đông. Bởi Bắc Kinh tự trao quyền kiểm soát, sẵn sàng tấn công nhằm vào các tàu nước ngoài, bao gồm cả tàu cá của các nước trong khu vực. Ngay cả khi chưa có các quy định này, tàu hải cảnh Trung Quốc đã đâm chìm tàu cá Việt Nam đang đánh bắt hợp pháp ở vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa vào năm 2020.

 

Trong tháng 5 vừa qua, tờ Hoàn Cầu thời báo, trực thuộc Nhân dân nhật báo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, ngày 18.5 đăng bài xã luận “China, ASEAN push forward COC talks despite of US’ intervention” (tạm dịch: Trung Quốc, ASEAN thúc đẩy đàm phán COC bất chấp sự can thiệp của Mỹ; COC là viết tắt của Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông - NV).

 

Bài xã luận còn nêu: “Trung Quốc đã và đang nỗ lực không ngừng vì hòa bình và ổn định trong khu vực cũng như thúc đẩy các cuộc đàm phán COC”. Thế nhưng, đúng một ngày sau khi bài xã luận “hữu hảo” được đăng, Trung Quốc bắt đầu tập trận ở Biển Đông như đã thông tin ở trên. Từ đầu năm đến nay, Trung Quốc nhiều lần công bố các cuộc tập trận tại khu vực này.

 

Không những vậy, truyền thông Trung Quốc gần đây còn công bố nhiều thông tin đáng quan ngại ở Biển Đông như: Điều động chiến đấu cơ thế hệ 5 tàng hình J-20 tuần tra; Nâng cao năng lực bay liên tục trong hàng chục tiếng đồng hồ cho phi công điều khiển máy bay tiêm kích; Mở rộng khả năng đổ bộ tấn công ở các đảo và thực thể tại Biển Đông bằng máy bay vận tải và tàu đổ bộ tấn công; Bắn thử tên lửa hành trình tấn công tàu chiến…

 

Các thực tế trên cho thấy hành động của Trung Quốc không phải là phòng vệ nguy cơ từ phương Tây. Hơn thế nữa, vào năm 2016, Tòa trọng tài quốc tế đã có phán quyết bác bỏ tuyên bố chủ quyền mà Trung Quốc đưa ra ở Biển Đông. Vì thế, mọi hành vi leo thang quân sự của Trung Quốc ở vùng biển này đều là phi pháp dù nhằm bất cứ lý do gì.

 

 

KHƠI DẬY Ý CHÍ TỰ LỰC, TỰ CƯỜNG KHÁT VỌNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC PHỒN VINH, HẠNH PHÚC

 

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một học thuyết cách mạng, một hệ thống tư tưởng lý luận, khoa học được trải nghiệm qua thực tiễn cách mạng vĩ đại suốt gần thế kỷ qua của Việt Nam và nhiều nơi trên thế giới, đã được chứng minh sâu sắc, soi sáng cho con đường cách mạng nước ta vượt qua mọi gian nan thử thách để tới thắng lợi vẻ vang. Tư tưởng ấy, ý chí ấy, khát vọng ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh hơn bao giờ hết cần được khơi dậy trong tư tưởng, tình cảm, tinh thần ý chí nghị lực mỗi người cán bộ, đảng viên, nhân dân Việt Nam, tạo sức mạnh vô song xây dựng đất nước hùng cường, giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc trên toàn thế giới trong thời đại văn minh, hiện đại.

 

Ý CHÍ, KHÁT VỌNG TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC

 

Với ý chí, khát vọng lớn lao và tư duy sáng tạo, ngày 5/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước bằng cách “xem người ta làm thế nào để rồi trở về giúp đồng bào mình”. Người đi tìm con đường đúng đắn, phù hợp, không cầu viện, thể hiện ý chí tự lực, tự cường, khát vọng lớn lao, tầm nhìn thời đại. Người ra đi với khát vọng lớn lao: “Tìm tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”. Sau khi đi qua nhiều nước, thâm nhập cuộc sống, đấu tranh của các dân tộc bị chủ nghĩa đế quốc áp bức, Người rút ra kết luận: Trên thế giới hàng tỷ người này, các dân tộc, màu da khác nhau, ngôn ngữ khác nhau nhưng chỉ có hai hạng người đó là kẻ đi áp bức và người bị áp bức. Nguyễn Ái Quốc đứng về phía những người bị áp bức và bênh vực, bảo vệ họ.

 

Đi qua Pháp, Mỹ, Anh, rồi lại trở về Pháp, tại Paris, năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp, tìm hiểu về Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Ngày 18/6/1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, Người gửi Bản yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Versailles ký tên Nguyễn Ái Quốc, đòi những quyền tự quyết dân tộc là sự kiện thức tỉnh tất cả các dân tộc Đông Dương, làm rung động bầu trời đen tối Việt Nam bấy lâu nay.

 

Suốt mấy chục năm hoạt động sôi nổi, đầy gian khổ ở nước ngoài trong sự kham khổ, thiếu thốn, đe dọa ve vãn, lôi kéo, săn lùng, tù đầy của kẻ thù, Nguyễn Ái Quốc luôn sắt son một ý chí: “Cái tôi cần nhất trên đời là đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập. Người nhiều lần khẳng định: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”… Ý chí, khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải thức tỉnh đồng bào, đánh thức toàn dân tự mình mà giải phóng cho ta; tự mình mà thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu.

 

Nguyễn Ái Quốc đọc được toàn văn tác phẩm “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin, Người sung sướng nhận thấy: “Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”. Cùng với đó là kết quả hành trình trải nghiệm sâu sắc của Nguyễn Ái Quốc trong những hoạt động của Quốc tế Cộng sản, của Đảng Cộng sản Pháp, hâm mộ Cách mạng Tháng Mười Nga và nhiều hoạt động chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã quyết định: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: Trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”(1).

 

Ý CHÍ, KHÁT VỌNG GIÀNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC, XÂY DỰNG TỔ QUỐC VĂN MINH, CƯỜNG THỊNH, HẠNH PHÚC

 

Tìm thấy con đường cứu nước sau khi tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng giải phóng dân tộc chỉ có thể là cuộc cách mạng vô sản. Nguyễn Ái Quốc ra sức tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin bằng nhiều cách: Tổ chức bồi dưỡng cán bộ, viết sách, báo… làm cho các tầng lớp nhân dân nhận thức đúng đắn về trách nhiệm tự giải phóng mình.

 

Ngày 3/2/1930, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam với cương lĩnh chiến lược: đánh đuổi đế quốc, đánh đổ phong kiến, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội. Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trở về Tổ quốc cùng Trung ương Đảng lãnh đạo phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do. Cùng với việc phân tích, nắm vững thời cơ thế giới và trong nước, Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng phát huy vai trò, sức mạnh của nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang, động viên lực lượng của toàn dân. Tháng 8 năm 1945, khi thời cơ cách mạng xuất hiện, Hồ Chí Minh có thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa, Người nêu rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dạy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”(2). Hưởng ứng lời kêu gọi non sông của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả nước một lòng cùng nhau đứng dậy làm cuộc cách mạng Tháng Tám lay trời chuyển đất thành công, lập nên nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á do nhân dân làm chủ. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời là thành quả cuộc đấu tranh kiên cường của cả dân tộc Việt Nam do Đảng Cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Đó là kết quả của ý chí tự lực tự cường, khát vọng độc lập tự do phát triển đất nước của Hồ Chí Minh được cả nước noi theo. Người khát vọng xây dựng đất nước giàu mạnh, độc lập, tự do, hạnh phúc cho tất cả mọi người dân. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ vừa mới ra đời dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thử thách, thế nước như ngàn cân treo sợi tóc. Đó là nạn đói, nạn dốt, giặc ngoại xâm… Chủ tịch Hồ Chí Minh lại một lần nữa thể hiện ý chí, nghị lực, bản lĩnh vượt qua những thử thách quyết liệt để thực hiện khát vọng giữ vững độc lập, tự do, hạnh phúc, phồn vinh dân tộc.

 

“Không có gì quý hơn độc lập tự do”; “Thà hy sinh tất cả chứ quyết không chịu mất nước” là ý chí, khát vọng của Người được hun đúc, bùng dậy từ truyền thống yêu nước hàng nghìn năm cũng như sức mạnh của mọi người dân toàn dân tộc Việt Nam kiên quyết đánh thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo kết hợp chặt chẽ kháng chiến và kiến quốc với ý chí, niềm tin, khát vọng: “Kháng chiến tất thắng, kiến quốc tất thành”.

 

Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng ta, bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã đuổi sạch bóng quân thù, thực hiện khát vọng Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng phồn vinh hạnh phúc. Từ một nước nông nghiệp, lạc hậu, nghèo nàn lại trải qua cuộc chiến tranh kéo dài, đi lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo Đảng và nhân dân ta tự lực, tự cường, cần cù, sáng tạo, tranh thủ sự hỗ trợ giúp đỡ của bạn bè, các nước đã có hình thức, bước đi thích hợp, vượt qua muôn vàn gian khó trở thành nước tiến bộ, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Tiếp theo việc thực hiện những tư tưởng của Người, Đảng và nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới suốt hơn 35 năm qua đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

 

TIẾP TỤC KHƠI DẬY Ý CHÍ TỰ LỰC, TỰ CƯỜNG, KHÁT VỌNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC PHỒN VINH, HẠNH PHÚC

 

Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta bước vào thế kỷ XXI, hội nhập với thế giới hiện đại, thời kỳ công nghệ 4.0 cùng biết bao nhiêu biến động ở trong nước và quốc tế khó lường. Để vượt qua những khó khăn thách thức của thời đại, đưa dân tộc ta phát triển phồn vinh, hạnh phúc, sánh vai với các cường quốc trên thế giới theo tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần tập trung vào những nội dung chính như sau:

 

Một là, tiếp tục đi sâu học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường, thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

 

Cùng với việc tiếp tục học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh một cách toàn diện, đúng đắn, đầy đủ, nghiêm túc, vấn đề đặt ra có tính chiến lược là đặc biệt nhấn mạnh đi sâu, hiểu kỹ, để suy nghĩ, làm theo, tạo cho mình phong cách, lối sống có ý chí, nghị lực, bản lĩnh thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Thấu hiểu ý chí tự lực, tự cường, khát vọng của Hồ Chí Minh về phát triển đất nước trong suốt chặng đường lịch sử đầy bão táp, mỗi cá nhân sẽ tự xây dựng, bồi dưỡng, hình thành củng cố niềm tin vững chắc cho ý chí tự lực, tự cường, khát vọng cho mình góp phần phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Chỉ có học tập, làm theo một cách tự nguyện, tự giác, chân thành, thực tâm với ý chí tự lực, tự cường, khát vọng của Hồ Chí Minh trong mỗi cá nhân có kết quả, mới tạo sức mạnh vô song đưa đất nước ta đi nhanh, đi mạnh, đi vững chắc trong mỗi bước đường tới phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Kiên quyết khắc phục lối học hình thức, bề ngoài, để có chứng chỉ bằng cấp…

 

Hai là, phát huy cao độ ý chí tự lực, tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh hạnh phúc trong bối cảnh hội nhập quốc tế, mở rộng các quan hệ toàn cầu.

 

Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Người lãnh đạo Đảng và nhân dân ta tiến hành thắng lợi các cuộc cách mạng vĩ đại đều gắn với cách mạng thế giới. Nhưng cốt lõi, sức sống tư tưởng của Người lãnh đạo cách mạng Việt Nam vẫn là “tự ta giải phóng cho ta”; là ý chí tự lực, tự cường; là không cầu viện, dựa dẫm vào bên ngoài mà tự lực cánh sinh là chính.

 

Ba là, quyết tâm thực hiện có hiệu quả các nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, biến các mục tiêu thành hiện thực, nâng cao đời sống nhân dân.

 

Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng cũng như các nghị quyết của Quốc hội, của Chính phủ, của các cấp uỷ Đảng đều xác định những phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể đưa nước ta tiến lên xây dựng một Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc; một Việt Nam hùng cường, một nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã luôn là khát vọng mãnh liệt của bao thế hệ lãnh đạo và người dân Việt Nam. Khát vọng ấy đã hiệu triệu, khơi dậy lòng yêu nước, hun đúc tinh thần đoàn kết và sưc smạnh của nhân dân toàn dân tộc, làm nên những thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử trong quá trình bảo vệ và xây dựng phát triển đất nước.

 

Thành tựu hơn 35 năm đổi mới là kết quả đáng tự hào nhưng cũng đặt ra những kỳ vọng, những trách nhiệm, những thách thức lớn lao cùng với những đòi hỏi cụ thể trước mắt, lâu dài đối với mỗi người dân Việt Nam. Vì vậy, khát vọng phát triển Việt Nam giàu mạnh hùng cường lại càng mãnh liệt và sục sôi hơn bao giờ hết.

 

Để biến khát vọng thành hiện thực, chúng ta phải thấm sâu ý chí, khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhận rõ con đường phía trước, thấy được những khó khăn, thách thức, thuận lợi, thời cơ để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chiến lược trong từng giai đoạn 5 năm, 10 năm, 20 năm, 30 năm tiến tới tầm nhìn năm 2045. Đây là sự chỉ đạo của Đảng có ý nghĩa lịch sử, đánh dấu bước phát triển mới của đất nước, định hướng tương lai, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước. Tầm nhìn cũng khẳng định đường lối chiến lược cách mạng, bảo đảm tính kế thừa và phát triển, tính liên tục xã hội ở nước ta; bảo đảm tính khoa học, khả thi và thực tiễn, là tâm huyết, trí tuệ, niềm tin của “ý Đảng, lòng dân”. Chiến lược phát triển tổng thể trong giai đoạn tới là phát triển nhanh, mạnh, bền vững, bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó chú trọng vào bốn trụ cột chính gồm: Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng an ninh là trọng yếu, thường xuyên.

 

 

ĐỂ NGUYÊN TẮC ĐẢNG HOẠT ĐỘNG TRONG KHUÔN KHỔ HIẾN PHÁP VÀ PHÁP LUẬT HIỆU QUẢ TRONG THỰC TẾ

“Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” là một nguyên tắc hoạt động của Đảng, được Đại hội X của Đảng thông qua và đưa vào Điều lệ Đảng. Nguyên tắc này xác định địa vị pháp lý của Đảng cầm quyền và phương thức hoạt động của Đảng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta hiện nay; thể hiện sinh động cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ"; đề phòng và khắc phục tình trạng "bao biện làm thay" hoặc buông lỏng lãnh đạo...

Nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật phản ánh đầy đủ các giá trị văn hóa cao quý của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo. Ảnh minh họa:

 

Ngay sau khi trở thành Đảng cầm quyền tháng 9-1945, Đảng ta đã coi trọng vấn đề tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Năm 1947, mặc dù công cuộc kháng chiến-kiến quốc vô cùng bận rộn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành tâm sức viết tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc", trong đó có phần chỉnh đốn những biểu hiện coi thường pháp luật của cán bộ, đảng viên. Tại Đại hội III của Đảng, Đảng đã thẳng thắn chỉ ra tình trạng: "Có những cấp ủy đảng bao biện làm thay, can thiệp vụn vặt vào công việc của cơ quan Nhà nước... Có những cấp ủy và cán bộ, đảng viên coi thường chính quyền Nhà nước, không nghiêm chỉnh chấp hành chỉ thị, nghị quyết của cơ quan chính quyền cấp trên"(1).

Đến Đại hội IV, Đảng ta tiếp tục khẳng định: "Đảng bắt buộc các tổ chức đảng và đảng viên tôn trọng quyền hạn, trách nhiệm và các chế độ của cơ quan Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và các quyết định của Nhà nước, coi đó là kỷ luật của Đảng”(2). Đặc biệt, Đảng khẳng định việc cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật, quy định của Nhà nước là vi phạm kỷ luật của Đảng.

Tại Đại hội V, Đảng nhấn mạnh: "Vẫn còn một số tổ chức đảng bao biện công việc của cơ quan Nhà nước. Cần nhanh chóng khắc phục tình trạng đó. Các cấp ủy đảng, các cán bộ, đảng viên phải gương mẫu thi hành Hiến pháp và pháp luật, đi đầu trong cuộc đấu tranh tăng cường pháp chế XHCN. Nghiêm cấm các tổ chức đảng tùy tiện đề ra những quy định trái với pháp luật”(3). Đại hội cũng nhấn mạnh, phải tập trung "khắc phục thiên hướng xem nhẹ vai trò của Nhà nước còn khá nặng nề ở nhiều cấp, nhiều ngành"(4).

Đại hội X của Đảng đã thông qua Điều lệ Đảng, trong đó xác định: “Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”(5) là một trong các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng. Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 ghi rõ: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.

Nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật phản ánh đầy đủ các giá trị văn hóa cao quý của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo. Nội dung cơ bản của nguyên tắc ấy là: Vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng được chế định trong Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, hệ thống chính trị và xã hội. Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng phải được thể chế hóa thành Hiến pháp và pháp luật thông qua trình tự lập hiến, lập pháp, qua đó mà thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Nội dung và phương thức hoạt động của Đảng phải phù hợp với Hiến pháp và pháp luật; tổ chức sinh hoạt nội bộ của Đảng phải phù hợp với các thiết chế do Hiến pháp và pháp luật quy định. Đảng lãnh đạo bảo đảm các thiết chế của Nhà nước hoạt động theo đúng vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ. Tổ chức đảng và đảng viên gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, mọi vi phạm phải được xử lý kịp thời và nghiêm minh, công khai trước pháp luật như mọi tổ chức và công dân khác.

Nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật đập tan mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động vu cáo Đảng ta "độc tài, toàn trị", là "ông vua tập thể"; đồng thời cảnh tỉnh, ngăn ngừa những đảng viên có chức, có quyền sa vào "tham nhũng quyền lực". Dù rằng đây là vấn đề thuộc về "khuyết tật bẩm sinh của quyền lực" mà bất kỳ một đảng cầm quyền nào cũng phải tiến hành các biện pháp phòng, chống để bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân.

Thực hiện nguyên tắc “Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” đã đem lại những thành tựu to lớn trong vận hành cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" ở nước ta. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Tuy nhiên, phải thẳng thắn thừa nhận, một bộ phận cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng chưa nhận thức rõ về nguyên tắc này. Một số tổ chức đảng vẫn ra những nghị quyết, chỉ thị trái pháp luật; một số cán bộ, đảng viên nhân danh tổ chức đảng tùy tiện gây áp lực làm ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật. Một số cấp ủy địa phương lạm dụng quyền lãnh đạo, can thiệp sâu vào hoạt động chính quyền, tư pháp. Một bộ phận đảng viên vi phạm pháp luật, nhất là trong lĩnh vực kinh tế với tính chất, mức độ nghiêm trọng. Một số cán bộ, đảng viên lợi dụng chức quyền để tham nhũng, buôn lậu, bao che cho các hoạt động kinh tế bất hợp pháp, để vợ con, người thân trục lợi từ chức vụ, quyền hạn. Đặc biệt là những biểu hiện làm giàu bất chính, ăn chơi xa xỉ, mê tín dị đoan, cờ bạc, rượu chè bê tha... bị quần chúng oán ghét, làm suy giảm niềm tin của người dân vào Đảng.

Tại Hội nghị Trung ương 4, khóa XIII vừa qua, Trung ương Đảng đã thống nhất cao về việc tiến hành đồng bộ và quyết liệt hơn nữa công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh. Cùng với đẩy mạnh thực hiện 4 nhóm nhiệm vụ, giải pháp mà Hội nghị Trung ương 4, khóa XII đã đề ra; Hội nghị Trung ương 4, khóa XIII bổ sung nhấn mạnh thêm 2 nhóm nhiệm vụ, giải pháp là: Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xử lý nghiêm cán bộ sai phạm.

Có thể nói, thực hiện 2 nhiệm vụ, giải pháp mà Hội nghị Trung ương 4, khóa XIII bổ sung, nhấn mạnh là vấn đề quan trọng nhất trong thúc đẩy việc thực hiện nghiêm nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Cùng với vấn đề quan trọng nhất nói trên, chúng ta cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp khác như: Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức trách nhiệm cho cấp ủy các cấp và cán bộ, đảng viên về nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; chú trọng thực hiện nghiêm quy định của Trung ương Đảng về những điều đảng viên không được làm. Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, xây dựng hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện, đồng bộ và hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò người đứng đầu cấp ủy các cấp, chính quyền, cơ quan, đơn vị, cụ thể hóa chi tiết vai trò lãnh đạo và hoạt động của Đảng, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chấp hành Điều lệ Đảng với chấp hành pháp luật của đảng viên. Phát huy vai trò của người đứng đầu cấp ủy và chính quyền các cấp trong thực hiện nguyên tắc.

Trong sinh hoạt Đảng và tiếp xúc cử tri, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng rất nhiều lần nhấn mạnh: Mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng phải thấm nhuần quan điểm "đúng vai, thuộc bài". Điều đó có nghĩa là mọi cá nhân, tổ chức phải hiểu rõ, nắm chắc và hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ đã được Hiến pháp và pháp luật cho phép. Thực tiễn lãnh đạo và cầm quyền của Đảng ta trong hơn 35 năm đổi mới cho thấy, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật không phải là hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng mà là một yêu cầu khách quan, vừa đáp ứng yêu cầu đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, vừa giúp xây dựng Đảng vững mạnh, thật sự xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

 

 PHÒNG, CHỐNG NHỮNG THÔNG TIN XUYÊN TẠC, SAI TRÁI THÙ ĐỊCH TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.

 

   Trong kỷ nguyên số, thời đại công nghiệp 4.0, môi trường không gian mạng (KGM) đang phát triển mạnh mẽ, tạo ra nhiều lợi ích đối với các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, sự phát triển của KGM lại là mảnh đất “mầu mỡ” để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá cách mạng Việt Nam với âm mưu, thủ đoạn ngày cảng tinh vi, nguy hiểm.

 

  Đáng chú ý, thời gian gần đây lợi dụng những ưu thế nổi trội của mạng xã hội so với các phương tiện truyền thông truyền thống, nhất là tính kết nối, tính mở, với đặc trưng tự do, đa dạng, nặc danh, khó kiểm soát…, thậm chí nhiều khi bị xóa nhòa ranh giới giữa thực và ảo, các TLTĐ đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” với cấp độ ngày càng gay gắt, quyết liệt. Chúng tăng cường truyền bá các quan điểm sai trái, tung tin xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với đất nước, phủ nhận truyền thống lịch sử dân tộc và những thành tựu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà đất nước ta, nhân dân ta đã giành được; xuyên tạc, vu khống, bịa đặt, bôi nhọ hình ảnh các đồng chí lãnh đạo cấp cao… hòng gây hỗn loạn về tư tưởng, tạo ra “những khoảng trống” để nhằm mục đích xóa bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa.

 

  Theo các cơ quan chức năng, hằng ngày có hàng nghìn tin, bài chống phá được tung lên KGM, gây nhiễu loạn thông tin, hướng lái công chúng truyền thông hiểu sai lệch, gia tăng sự bất đồng thuận, kích động những tư tưởng bất mãn, phản kháng, chống đối với Đảng, Nhà nước. Những thông tin xấu độc có ảnh hưởng, tác động tiêu cực rất lớn tới xã hội, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm giảm niềm tin của  nhân dân với Đảng, Nhà nước. Sự chống phá này không chỉ ở diện rộng bằng những bài viết dung tục, thù hận, cực đoan một chiều như trước đây, mà nay chúng đã đầu tư xây dựng và sử dụng ngày càng nhiều bài viết đa tầng thông tin, đa quan điểm, với nhiều chiêu trò đánh tráo khái niệm, ngụy tuyên truyền hết sức tinh vi.

 

  Về quy mô hoạt động, chúng có sự cấu kết chặt chẽ giữa các đối tượng phản động lưu vong, số đối tượng chống đối bên ngoài với những phần tử cơ hội, bất mãn chính trị trong nước, được hậu thuẫn, “hà hơi tiếp sức” bằng nhiều nguồn lực bởi các tổ chức phản động, khủng bố, tổ chức phi chính phủ, chính phủ một số nước có quan điểm đối lập…, hình thành mạng lưới chống đối rộng khắp, với chiêu trò “nội công, ngoại kích”, tạo thành nhiều mũi tấn công trên nhiều lĩnh vực.

 

  Nội dung thông tin xuyên tạc, sai trái, thù địch hết sức đa dạng, phức tạp, trên tất cả các lĩnh vực: tư tưởng, chính trị, xây dựng Đảng, kinh tế, văn hóa, xã hội…. Đặc biệt, chúng coi trọng việc phá hoại tư tưởng, coi đó là mũi nhọn, là con đường ngắn nhất dẫn tới sự xói mòn về niềm tin của nhân dân với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa. Chúng tập trung chống phá, xuyên tạc, phủ nhận quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước hiện nay, nhất là đường lối đổi mới của Đảng ta. Chúng đồng nhất đổi mới chính trị với thay đổi chế độ chính trị; phủ nhận, bôi đen những thành tựu,  cường điệu, thổi phồng, khoét sâu vào những mặt hạn chế, những tiêu cực của một bộ phận cán bộ, đảng viên; xuyên tạc các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo…tạo cái nhìn sai lệch về tình hình đất nước; đồng thời phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; chúng cổ xúy “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, phủ nhận bản chất cách mạng và nhân dân của lực lượng vũ trang; chia rẽ Quân đội nhân dân và Công an nhân dân…

 

  Cùng với phát tán dầy đặc và với tần suất lớn những thông tin xấu độc trên KGM, thực hiện chiêu trò “mưa dầm thấm lâu” hết sức thâm độc, chúng còn tráo trở cắt ghép, đan cài, “đổi trắng thay đen” trộn lẫn tinh vi thông tin thật – giả để dẫn dụ độc giả lạc vào ma trận thông tin, từ đó bị hướng lái theo luồng thông tin sai lệch, dẫn dắt dư luận xã hội, ngụy tạo sự khách quan để chống phá hết sức tinh vi, xảo quyệt.

 

  Trước những âm mưu, thủ đoạn vô cùng nguy hiểm của các đối tượng trên, đòi hỏi chúng ta phải luôn tỉnh táo, chủ động, nhận diện đúng và thường xuyên, quyết liệt đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình”, vạch trần những âm mưu, thủ đoạn, những luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, nâng cao “sức đề kháng” khả năng “miễn nhiễm”, trước những thông tin xấu độc. Mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là thế hệ trẻ phải không ngừng tự nghiên cứu, học tập, trau rèn nhận thức, bản lĩnh chính trị, trang bị cho mình những kiến thức, kỹ năng phòng ngừa, phát hiện để làm tốt vai trò tham mưu đúng, trúng, kịp thời, từ sớm, từ xa trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, trong đó khi nói và viết bài hoặc phát ngôn trên diễn đàn, trên mạng xã hội, phải thể hiện rõ bản lĩnh chính trị không được phép phát ngôn mang tính hoài nghi; không a dua, câu view, câu like, chia sẻ với những thông tin không được kiểm chứng, những luồng thông tin xấu độc… Bên cạnh đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu, là "hạt nhân" tại cơ sở để đưa những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước vào cuộc sống; đưa những thông tin chính thống, tích cực, lan tỏa những tấm gương sáng, những cách làm hay, việc làm tốt trong cộng đồng, tỏa sáng niềm tin của nhân dân, vững tin trên con đường dân tộc./.

 

 

 NHẬN DIỆN ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ TỰ DO TÔN GIÁO 

 

Một số người Việt chống cộng ở hải ngoại có quan điểm chống đối chính quyền Việt Nam, đã dựa vào chính sách chung của chính quyền Mỹ, rất coi trọng các quyền tự do, mà trong đó, quyền tự do tôn giáo gần như được xem là hàng đầu, để từ đó tạo những ảnh hưởng, tác động vào các sinh hoạt chính trị trong cộng đồng người Việt Nam. Năm 1988, khi đặt chân lên đất Thái Lan, ngay trong trại tị nạn dành cho người vượt biên, tôi đã rất ngạc nhiên vì trong môi trường đầy khó khăn, thiếu thốn và hoang mang vì tương lai bấp bênh, vô định, thế nhưng các hoạt động về tôn giáo đã diễn ra sôi nổi mang đầy màu sắc chính trị.

 

Các Ban trị sự, Hội đồng liên tôn các tôn giáo đã tập hợp các tín hữu, con chiên, đạo hữu của mình thành những đoàn thể để hoạt động không thuần túy về tôn giáo, mà còn nhằm xuyên tạc, chỉ trích chính quyền Việt Nam. Nhiều tài liệu, sách báo, thông tin từ hải ngoại được ấn hành, đưa vào trại tị nạn phát tặng miễn phí, kích động chống Việt Nam như báo Đường Sống (Mỹ), báo Quê Mẹ (Pháp) hay các tổ chức như BPSOS (Boat people SOS - Ủy ban cứu trợ người vượt biển).

 

Khi định cư ở Mỹ từ tháng 2/1991, tôi nhận thấy nhiều cơ sở tôn giáo được mở mang, phát triển và hoạt động rất năng động. Nhiều nhà thờ, nhà chùa mới được thành lập từ những vận động, đóng góp chủ yếu từ các cá nhân. Gắn liền với những kỷ niệm từ quê nhà, không ít nhà thờ, ngôi chùa lấy tên trùng với những nơi thờ tự quen thuộc như Giáo xứ Tân Sa Châu, Giáo xứ Tân Bùi Chu, Phát Diệm, Chùa Dược Sư, Chùa Vĩnh Nghiêm… Chính những cơ sở tôn giáo này cũng tự biến thành nơi hội họp, sinh hoạt chính trị vì các nhân sự, thậm chí các nhà lãnh đạo tôn giáo ở hải ngoại ít nhiều cũng nhuốm mùi chính trị cực đoan.

 

Ý niệm về “đấu tranh tôn giáo” với “đấu tranh cho dân chủ, tự do” đã trở thành phương tiện, là công cụ cho các cá nhân, tổ chức chống cộng cực đoan khai thác triệt để nhằm lợi dụng lòng tin của người dân còn mơ hồ, hay có định kiến với chính quyền Việt Nam. Các lãnh đạo cộng đồng, tổ chức chống cộng thường xuyên theo dõi các biến động xã hội trong nước không ngừng biến các hiện tượng được chú ý thành các “vấn đề tôn giáo” nghiêm trọng. Thí dụ, vụ án của linh mục Nguyễn Văn Lý, ngày 30/3/2007, tại Thừa Thiên Huế, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã mở phiên tòa công khai xét xử Nguyễn Văn Lý và đồng bọn về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” quy định tại khoản 1, điều 88 - Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại phiên tòa cho thấy thái độ bất hợp tác của ông Lý khi luôn tỏ ra chống đối, thậm chí đạp vào vành móng ngựa, hô hào, gây ồn ào. Ông Lý đã bị một nhân viên an ninh bịt miệng để giữ trật tự, và một bức ảnh ghi lại khoảnh khắc này đã được báo chí phương Tây, giới truyền thông chống cộng khai thác thành sự kiện “đàn áp, bịt miệng tự do tôn giáo”.

Khi sự kiện xảy ra, tôi và các đồng nghiệp của tuần báo Việt Weekly đã về Việt Nam, xin phép chính quyền về tận xã Thủy Biều, TP. Huế để tìm hiểu sự việc. Tại họ đạo Nguyệt Biều, đoàn báo chí từ hải ngoại của chúng tôi được tự do phỏng vấn các giáo dân tại địa phương về sinh hoạt tôn giáo tại đây. Các giáo dân kể chuyện cha Lý đã có công sửa đường, làm nhà vệ sinh công cộng, cấp con giống, cây trồng, mở lớp dạy máy tính, dạy ngoại ngữ miễn phí để đánh lừa, dụ dỗ niềm tin của một bộ phận giáo dân. Vụ án điển hình này cho thấy sự cấu kết của các tổ chức chính trị ở hải ngoại với các nhân vật chống đối đội lốt tôn giáo. Thông qua việc móc nối, vận động để xin tiền từ các tổ chức, cá nhân ở hải ngoại, ông Lý đã tham gia làm cố vấn vào “Ủy ban tự do tôn giáo cho Việt Nam” năm 2000, kích động giáo dân ký đơn đòi đất vốn của Giáo hội Thiên Chúa giáo đã giao cho hợp tác xã quản lý từ năm 1975, gây mâu thuẫn giữa người dân và chính quyền.

 

Đoàn phóng viên báo Việt Weekly cũng có mặt tại Hà Nội để tham dự buổi họp báo của Đại sứ Mỹ ở Việt Nam là ông Michael Marine, khi được hỏi về bức hình “bịt miệng cha Lý” ở phiên tòa, ngài đại sứ cũng nêu rõ là hành động gây rối trật tự ở tòa án, nếu ở Mỹ cũng sẽ bị ngăn chặn bằng vũ lực. Tuy nhiên, theo góc nhìn của nhà ngoại giao Mỹ, thì chính quyền Việt Nam cũng cần phải có động thái trao cho các công dân của mình “không gian rộng rãi hơn để biểu đạt ý kiến của mình”.

 

Những vụ án mang màu sắc tôn giáo liên quan đến vấn đề tranh chấp đất hay bất động sản, qua quan sát của tôi, hầu hết đều có sự tác động của các thế lực chính trị hải ngoại kích động, xúi giục. Cái gọi là “Yểm trợ đấu tranh tôn giáo” ở hải ngoại được tiến hành rất bài bản. Họ tập hợp nhau tại các địa điểm công cộng như công viên, khu chợ, bãi đậu xe, trung tâm thương mại, nơi có đông đảo người dân gốc Việt sinh sống để tổ chức các buổi “thắp nến cầu nguyện” hay “tuyệt thực cho tự do, nhân quyền”. Các tổ chức chống cộng này cho rằng các vụ tranh chấp đất đai ở những địa phương có cộng đồng người Công giáo sinh sống nhằm mục tiêu “thu hẹp tài sản của Giáo hội Công giáo, chia cắt nơi cư trú của đồng bào giáo dân, hòng làm suy yếu sự phát triển của Công giáo nói riêng”. Đây là những luận điệu xuyên tạc vô cùng ngớ ngẩn. Vì quyền làm chủ đất đai nào là của người Công giáo? Chính quyền địa phương mỗi nơi đều có quy định theo pháp luật để tiến hành thay đổi môi trường sống, sự phát triển của đô thị theo nhu cầu thực tế. Thế nhưng việc chuyển đổi quỹ đất này đã bị thổi phồng thành những vụ án “đàn áp tôn giáo” gây nên nhiều ngộ nhận cho người ở hải ngoại thiếu thông tin về sự việc.

Mặt khác các đối tượng chống cộng luôn phao tin rằng, người Cộng sản là “vô thần,” người Cộng sản coi “tôn giáo là thuốc phiện”, một khi tôn giáo ở Việt Nam lớn mạnh, sẽ trở thành những lực lượng đối kháng có thể đè bẹp chế độ! Vì vậy chính quyền Cộng sản Việt Nam phải áp dụng các cách đàn áp tinh vi, làm suy yếu tôn giáo. Từ đây họ đã đánh vào tâm lý chung của những gia đình di cư năm 1954, các quan chức chế độ Việt Nam cộng hòa luôn có ánh nhìn hoài nghi về chính sách tôn giáo của chính quyền Việt Nam. Chính những cơ quan “truyền thông đen”, mang danh nghĩa là “truyền thông quốc tế” như BBC, RFA, VOA,.. mà nhân sự của các “đài Việt ngữ” phần lớn đều là những người làm truyền thông thiếu khách quan, thiếu thiện chí trong việc đưa tin, thổi phồng về vấn đề tự do tôn giáo ở Việt Nam. Nhiều phóng sự, hội luận của các kênh này luôn khai thác các nhân vật đối lập, hay “bất đồng chính kiến” để gây hoang mang cho người dân ở hải ngoại, bằng những thủ thuật kích động nhưng lại tỏ ra khách quan, đa chiều.

 

Đồng thời nhu cầu về tâm linh, thể hiện tình yêu nước đã nhuốm màu sắc chính trị với chiều hướng cực đoan. Ở vùng nam California, tôi đã từng ghi nhận, phỏng vấn nhiều tu sĩ, các cha, các nhà sư từ trong nước đi sang Mỹ theo diện thăm thân hay du lịch, nhưng khi tìm hiểu, đi sâu vào vấn đề, mới rõ là họ được một số cá nhân, hoặc tổ chức chính trị ở hải ngoại mời đi Mỹ để “gây quỹ từ thiện” hay “xin quyên góp xây dựng nhà thờ, xây chùa” ở Việt Nam. Mỗi buổi họp mặt này, những bài than khổ về sự khó khăn trong sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam đều được các vị nêu lên theo ánh nhìn thiếu thiện chí, gợi niềm thương cảm trong cộng đồng. Nếu không trực tiếp về Việt Nam để tìm hiểu rõ sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam, nhiều bà con ta cứ ngỡ ở Việt Nam không được đi lễ, không được đi chùa vì các cơ sở tôn giáo này do “Nhà nước quản lý”!

 

Điều đáng quan ngại hơn nữa, đó chính là sự hà hơi, tiếp tay của các vị “dân cử người Mỹ gốc Việt” trong các dịp tranh cử các vị trí như nghị viên thành phố, thị trưởng thành phố, nghị sĩ tiểu bang hay liên bang. Câu chuyện “đấu tranh cho tự do tôn giáo, quyền con người” tiếp tục được họ đưa ra để vận động tranh cử. Điển hình như các thành phố có đông người Việt cư trú như Westminster, Garden Grove, Fountain Valley, Santa Ana… (miền nam California), hay San Jose (miền bắc California), các chính trị gia đã tận dụng chiêu bài tranh cử không gì khác hơn là “chống cộng và đấu tranh cho tự do tôn giáo ở Việt Nam”. Đây là những khẩu hiệu, chiêu bài dễ hô hào, dễ tạo sự quan tâm của cử tri.

 

Ngân sách tranh cử như chiếc bánh được chia chác nhau theo từng phần: Giới lãnh đạo cộng đồng chống cộng tổ chức biểu tình, kêu gọi cử tri ký thỉnh nguyện thư đòi quyền con người cho các nhà đối lập trong nước. Còn các cơ quan “truyền thông đen” thì được nhận phần quảng cáo cho những thông điệp chính trị sặc mùi mị dân như “đòi quyền tự do con người cho người dân Việt Nam”. Từ đây đã tạo thành một bộ máy tuyên truyền, xuyên tạc, một “kỹ nghệ chống cộng” mang tính vòng tròn khép kín để thỏa mãn lòng hận thù tồn tại từ trước, nhằm bào mòn tình cảm gắn bó của người dân trong và ngoài nước. Và trên hết, để vừa có danh, vừa có lợi, họ đã bất chấp sự công bằng, lẽ phải và quyền lợi tối thượng của dân tộc là sự ổn định xã hội để phát triển kinh tế, đưa đất nước từ nghèo khó sau chiến tranh, tiến lên một nước có nền hòa bình bền vững, ổn định lâu dài để phát triển.

 

Là người sống trong cộng đồng lâu năm, theo dõi những diễn biến chính trị và sinh hoạt cộng đồng một cách toàn diện, nên tôi đã nhận diện được rõ âm mưu, thủ đoạn chống phá khối đại đoàn kết dân tộc, gây hoang mang chia rẽ tôn giáo của các tổ chức chống cộng lưu vong. Theo tôi, hành động của họ không vì bất cứ lòng trắc ẩn, tình đồng bào nào hết, ngoài việc tạo nên những cái “bánh vẽ” to tướng khiến một bộ phận người trong nước có tinh thần vọng ngoại hiểu sai lệch vấn đề về tự do tôn giáo, hay quyền con người. Cần phải hiểu rằng tự do của mỗi cá thể trong xã hội phải đặt dưới quy định của luật pháp, không thể tùy tiện nhân danh sự tự do để sinh hoạt tôn giáo mang tính chính trị, chống phá chế độ.

Nguồn Tuyên giáo TW

 

CHIÊU TRÒ XUYÊN TẠC CN-MLN VỀ QUYỀN SỞ HỮU

      Để thực hiện âm mưu phá hoại, các thế lực thù địch, phản động đã sử dụng nhiều chiêu trò chống phá Đảng, Nhà nước; xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng và những thành quả cách mạng. Trong số đó, có chiêu trò xuyên tạc Chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền sở hữu. Chúng cho rằng Chủ nghĩa Mác - Lênin "tước bỏ quyền chiếm hữu", do đó không bao giờ dẫn đến giầu có, thịnh vượng. Thực ra, cả lý luận và thực tiễn, cả logic và lịch sử trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều bác bỏ những quan điểm nói trên.

          Về mặt tư tưởng, lý luận, chủ nghĩa Mác - Lênin không dị ứng với giàu có, thịnh vượng như một số người xuyên tạc. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen viết rõ: “Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác”. Chủ nghĩa Mác - Lênin tuyên bố công khai mục đích của phong trào XHCN hiện đại là xây dựng xã hội mới giàu có, thịnh vượng cho đa số nhân dân chứ không phải một xã hội trong đó “sự áp bức và lao động kiệt sức đối với đa số, sự giàu có và hạnh phúc ấm no đối với một số ít người”. Theo Mác, trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản  không tránh khỏi “người này giàu hơn người kia”…

          Từ thực tiễn cách mạng Nga, V.I.Lênin cho rằng, giải pháp chiến lược để từng bước tạo ra năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản chính là thực hiện Chính sách kinh tế mới. Đây là chính sách kinh tế nhiều thành phần - đặc trưng cho toàn bộ thời kỳ quá độ lên CNXH. Theo đó, người cộng sản cũng phải học cách buôn bán, học cách tổ chức lãnh đạo, quản lý, khai thác, phát huy mọi nguồn lực, mọi thành phần kinh tế, xã hội để phát triển sản xuất, xây dựng nền sản xuất lớn công nghiệp hiện đại. Người cộng sản phải biết làm giàu trí tuệ của mình “bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”; phải “dùng cả hai tay mà hứng lấy những cái tốt của nước ngoài”; phải “đưa chủ nghĩa xã hội vào cuộc sống hằng ngày”...

          Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện Việt Nam, Hồ Chí Minh nêu rõ: “xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”; “Xã hội chủ nghĩa là ai cũng được làm việc, được ăn no mặc ấm, được học hành, người già yếu thì được giúp đỡ, các cháu bé thì được săn sóc. Nói tóm lại, xã hội chủ nghĩa là sung sướng ấm no”. Điều mong muốn cuối cùng trong bản Di chúc lịch sử, Người cũng viết: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh...”

          Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh quan niệm CNXH là xã hội giàu có về mọi phương diện và giàu có cho số đông, hơn hẳn CNTB và là sự thay thế hợp quy luật đối với CNTB. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chủ trương xóa áp bức, bóc lột, lạc hậu, bất công, nghèo khổ chứ không hề dị ứng với giàu có, thịnh vượng, không hề chủ trương “xóa giàu”như một

Chiêu trò xuyên tạc Chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền sở hữu

          Để thực hiện âm mưu phá hoại, các thế lực thù địch, phản động đã sử dụng nhiều chiêu trò chống phá Đảng, Nhà nước; xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng và những thành quả cách mạng. Trong số đó, có chiêu trò xuyên tạc Chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền sở hữu. Chúng cho rằng Chủ nghĩa Mác - Lênin "tước bỏ quyền chiếm hữu", do đó không bao giờ dẫn đến giầu có, thịnh vượng. Thực ra, cả lý luận và thực tiễn, cả logic và lịch sử trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều bác bỏ những quan điểm nói trên.

          Về mặt tư tưởng, lý luận, chủ nghĩa Mác - Lênin không dị ứng với giàu có, thịnh vượng như một số người xuyên tạc. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen viết rõ: “Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác”. Chủ nghĩa Mác - Lênin tuyên bố công khai mục đích của phong trào XHCN hiện đại là xây dựng xã hội mới giàu có, thịnh vượng cho đa số nhân dân chứ không phải một xã hội trong đó “sự áp bức và lao động kiệt sức đối với đa số, sự giàu có và hạnh phúc ấm no đối với một số ít người”. Theo Mác, trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản  không tránh khỏi “người này giàu hơn người kia”…

          Từ thực tiễn cách mạng Nga, V.I.Lênin cho rằng, giải pháp chiến lược để từng bước tạo ra năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản chính là thực hiện Chính sách kinh tế mới. Đây là chính sách kinh tế nhiều thành phần - đặc trưng cho toàn bộ thời kỳ quá độ lên CNXH. Theo đó, người cộng sản cũng phải học cách buôn bán, học cách tổ chức lãnh đạo, quản lý, khai thác, phát huy mọi nguồn lực, mọi thành phần kinh tế, xã hội để phát triển sản xuất, xây dựng nền sản xuất lớn công nghiệp hiện đại. Người cộng sản phải biết làm giàu trí tuệ của mình “bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”; phải “dùng cả hai tay mà hứng lấy những cái tốt của nước ngoài”; phải “đưa chủ nghĩa xã hội vào cuộc sống hằng ngày”...

          Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện Việt Nam, Hồ Chí Minh nêu rõ: “xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”; “Xã hội chủ nghĩa là ai cũng được làm việc, được ăn no mặc ấm, được học hành, người già yếu thì được giúp đỡ, các cháu bé thì được săn sóc. Nói tóm lại, xã hội chủ nghĩa là sung sướng ấm no”. Điều mong muốn cuối cùng trong bản Di chúc lịch sử, Người cũng viết: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh...”

 

Luận điệu cũ mèm đòi phi chính trị hoá Quân đội

          Từ nhận định rằng, hiện nay Đảng Cộng sản Việt Nam còn nắm chắc quân đội, chưa thể xóa bỏ được vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, chưa thể xóa bỏ được chế độ xã hội chủ nghĩa, nên các thế lực thù địch với cách mạng nước ta ráo riết thực hiện chiêu bài “quân đội phải duy trì tính trung lập về chính trị”. Họ hy vọng rằng, một khi quân đội đã bị mê hoặc bởi khẩu hiệu đó, đội ngũ cán bộ quân đội đã dao động, mất phương hướng chính trị, họ sẽ ra tay lật đổ Đảng Cộng sản Việt Nam và thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam theo đúng kịch bản “không đánh mà thắng”. Đây thực sự là một luận điệu cũ mèm mà chúng đã thực hiện trong suốt những năm qua.

           Họ đưa ra nhiều luận điểm, như: “quân đội phải duy trì tính trung lập về chính trị”, “quân đội phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không cần trung thành với bất kỳ tổ chức nào”, mà áp dụng cụ thể vào Việt Nam là “không phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam”, v.v.. Đáng tiếc là, không ít người đã vào hùa với chúng, mà không tỉnh táo tự vấn mình rằng: tại sao những đề xuất về “quân đội phải trung lập về chính trị” lại được VOA, BBC, RFA, RFI... cùng những kẻ phản bội Tổ quốc, những người có thâm thù với cách mạng ở hải ngoại tung hô, cổ vũ nhiệt thành đến vậy (?). Khi bị chỉ trích những đề xuất đó là biểu hiện của sự “suy thoái về tư tưởng chính trị”, những người cổ xúy cho tư tưởng này vội “lấp liếm” rằng: “chúng tôi chỉ yêu cầu quân đội trung lập về chính trị, chứ đâu có đòi phi chính trị hóa quân đội”(?). 

           Sự ngụy biện đó không đánh lừa được công luận; bởi xét về bản chất, yêu cầu “quân đội phải trung lập về chính trị” chỉ là một phiên bản của quan điểm đòi “phi chính trị hóa quân đội”. Nói đến “trung lập về chính trị”, nghĩa là “đứng giữa các lực lượng chính trị”, “đứng ngoài chính trị”, “không can dự vào chính trị”...; trong khi đó, Quân đội nhân dân Việt Nam đang được xây dựng theo phương hướng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở, nền tảng để xây dựng vững mạnh toàn diện. Hơn nữa, bản thân Quân đội nhân dân Việt Nam đang là lực lượng chính trị, đặt dưới sự lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” của Đảng Cộng sản Việt Nam, tức là đang “không đứng ngoài chính trị”; thì đòi hỏi “quân đội phải trung lập về chính trị” thực chất là đòi “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân Việt Nam.

 

 


THỰC HIỆN TỐT SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI VÙNG DÂN TỘC THỂU SỐ

 

Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về dân tộc, tôn giáo và phòng chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá là cơ sở lý luận, pháp lý rất quan trọng để quân đội tiến hành các nội dung, biện pháp phòng chống phủ hợp, đạt hiệu quả cao, không để các thế lực thù địch, phản động tạo cớ can thiệp. Nắm vững và vận dụng sáng tạo quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phòng chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá

Thực hiện yêu cầu này, phải thường xuyên tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ về công tác dân tộc, tôn giáo, chính sách dân tộc, tôn giáo; tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành tốt quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân tộc, tôn giáo, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng trước âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá.

 Tích cực tham gia phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, giúp dân phòng chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, thực hiện các chính sách xã hội, các phong trào, các cuộc vận động cách mạng của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và của địa phương, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

 Tham gia xây dựng, củng cố hệ thống chính trị; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên vùng dân tộc thiểu số, tôn giáo vững mạnh; thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo đối với quân nhân người dân tộc thiểu số, quân nhân có đạo đang công tác trong Quân đội, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nguồn cán bộ dân tộc thiểu số trong quân đội; lựa chọn cán bộ có năng lực, tâm huyết, kinh nghiệm là người dân tộc thiểu số, tôn giáo tại địa phương làm công tác dân vận.

 

PHỐI HỢP VỚI ĐỊA PHƯƠNG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ĐẤT QUỐC PHÒNG CÓ LIÊN QUAN ĐẾN TÔN GIÁO

 

Quán triệt các văn bản của Bộ Quốc phòng, các đơn vị đã khảo sát  xác định nguồn gốc đất và chủ trì với địa phương thống nhất phần do quốc phòng quản lý, tham gia vận động quần chúng giải quyết khiếu nại, tố cáo và quy định quản lý, giải quyết lấn chiếm đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, công tác tiếp công dân giải quyết khiếu nại, tố cáo về tôn giáo và đất sử dụng vào mục đích quốc phòng liên quan đến tôn giáo đã được lãnh đạo, chỉ huy, các cơ quan, đơn vị quan tâm.

Những khu vực có đơn thư khiếu kiện đòi lại đất đai, cơ sở thờ tự của các tôn giáo đều được cấp ủy, chỉ huy các đơn vị đã quán triệt các quan điểm, chủ trương, nguyên tắc của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đất đai và tôn giáo, phối hợp với các địa phương và các cơ quan chức năng giải quyết phù hợp, ổn định tình hình, giữ vững mối quan hệ đoàn kết quân dân trên địa bàn đóng quân, không để trở thành điểm nóng, không để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá.

Đất quốc phòng chuyển mục đích sử dụng và bàn giao cho địa phương để làm đường giao thông, quy hoạch đô thị, khu dân cư, khu công nghiệp, sân bay, bến cảng phục vụ phát triển kinh tế xã hội, đồng thời đề nghị các địa phương.

 Kết quả giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo về tôn giáo và đất sử dụng vào mục đích quốc phòng liên quan đến tôn giáo đã góp phần ổn định tình hình, giữ vững mối quan hệ đoàn kết quân dân trên địa bàn đóng quân.

 

NHỮNG THÀNH TỰU NỔI BẬT CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG QUÂN ĐỘI

 

Công tác tư t­ưởng lý luận trong quân đội những năm qua có thể khẳng định rằng: Công tác tư tư­ởng, lý luận đã quán triệt sâu sắc đ­ường lối quan điểm của Đảng, các nghị quyết của Trung ư­ơng, Bộ Chính trị, của Đảng uỷ quân sự Trung ­ương, chỉ thị công tác đảng, công tác chính trị của Tổng cục Chính trị vào nhiệm vụ và các mặt hoạt động của quân đội. Công tác tư­ởng lý luận đã luôn luôn đi đúng quan điểm của Đảng, đúng sự chỉ đạo của cấp trên, giữ vững định h­ướng chính trị và nguyên tắc hoạt động.

Các hoạt động công tác tư­ tư­ởng, lý luận đ­ược triển khai toàn diện, đồng bộ; coi trọng chỉ đạo điểm, biết tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm, khâu then chốt, thời điểm quan trọng; thư­ờng xuyên hoàn thiện quy chế hoạt động. Không ngừng đổi mới toàn diện cả nội dung, hình thức, ph­ương pháp và tác phong công tác, chất l­ượng hiệu quả ngày càng tăng lên, có ý nghĩa chính trị xã hội ngày càng sâu sắc.

Công tác tư­ t­ưởng, lý luận đã góp phần củng cố, xây dựng tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy, tổ chức quần chúng ngày càng vững mạnh; phát huy dân chủ, củng cố kỷ luật, xây dựng mối quan hệ nội bộ, quan hệ quân dân ngày càng bền vững, góp phần giải đáp những vấn đề bức xúc nảy sinh ở cơ sở, tạo sự chuyển biến mọi mặt của đơn vị.

Công tác t­ư t­ưởng lý luận đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng an ninh; xây dựng lực l­ợng vũ trang về chính trị, cung cấp nhiều luận cứ khoa học cho việc xây dựng đường lối quốc phòng- an ninh và xây dựng lực l­ợng vũ trang trong thời kỳ mới.

Công tác t­ư t­ưởng lý luận đã chủ động kiên quyết đấu trạnh trên mặt trận t­ư tưởng lý luận chống diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ, âm m­ưu phi chính trị hoá quân đội của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Tích cực đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những biểu hiện suy thoái về đạo đức lối sống, t­ư t­ưởng cá nhân chủ nghĩa; trực tiếp góp phần làm trong sạch chính trị tư­ t­ưởng nội bộ của quân đội.

LỰC LƯỢNG QUÂN ĐỘI THAM GIA PHÒNG CHỐNG ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG VẤN ĐỀ TÔN GIÁO

 

Lực lượng quân đội tham gia phòng chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá, bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, bộ đội Biên phòng... mỗi lực lượng có chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Vì vậy, tổ chức, sử dụng lực lượng hợp lý, khoa học các lực lượng, phát huy đúng khả năng, sở trường, thế mạnh của từng lực lượng sẽ góp phần tạo thành sức mạnh tổng hợp, hình thành thế trận vững chắc ngăn ngừa, đẩy lùi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá.

          Thực hiện yêu cầu này, các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội Biên phòng và bộ đội địa phương hoạt động trên địa bàn phải quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phòng chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá, khả năng về lực lượng, phương tiện và thế mạnh của mình.

          Đây là yêu cầu chỉ đạo nghệ thuật phát huy sức mạnh tổng hợp trong phòng chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá. Hiệu quả Quân đội tham gia phòng chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó phải phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương để phát huy sức mạnh tổng hợp để phòng chống đạt hiệu quả cao.

          Thực hiện yêu cầu này, các đơn vị quân đội hoạt động trên địa bàn phải bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương, tham mưu, đề xuất với cấp ủy, chính quyền, phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành, đoàn thể địa phương tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương.

 

LỢI DỤNG TÔN GIÁO ĐỂ HOẠT ĐỘNG TÀ ĐẠO

 

Để truyền tải các nội dung tuyên truyền đến đối tượng, chúng đã sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, phát thanh và in ấn các văn hóa phẩm bằng ngôn ngữ, chữ viết các dân tộc; dùng lời tuyên truyền "rỉ tai" từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong thông qua các hoạt động thăm thân, "nghiên cứu khoa học", "hoạt động từ thiện"... của những người từ nước ngoài về hoặc những người có uy tín trong dòng họ, các chức sắc tôn giáo.

“Đạo hóa" dân tộc là một trong những thủ đoạn của các thế lực thù địch sử dụng ở nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới. Với một số dân tộc thiểu số Việt Nam chưa theo tôn giáo nào thì việc "đạo hóa" càng có ý nghĩa quyết định đến khả năng lôi kéo, tập hợp nhân dân và hình thành các "khung chính quyền" ngầm núp dưới vỏ bọc tôn giáo, như "khung chính quyền" ngầm của cái gọi là "Tin lành Đề-ga" để đòi ly khai, tự trị ở Tây Nguyên. “Chúng triệt để lợi dụng những khó khăn trong cuộc sống của đồng bào để tổ chức truyền đạo trái pháp luật, đội lốt tôn giáo hoạt động chính trị, móc nối xây dựng cơ sở.

Cùng với việc truyền đạo trái pháp luật đến vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, chúng còn khuyến khích đồng bào các dân tộc duy trì tập tục lạc hậu, phản khoa học, tin, nghe theo các tà đạo; cổ vũ cho lối sống tư sản trong thanh niên, thiếu niên, từng bước làm băng hoại đạo đức, bản sắc văn hóa dân tộc.

Kích động mâu thuẫn giữa người dân tộc thiểu số với người Kinh, kích động chống đối chính quyền nhằm phá hoại chính sách đại đoàn kết của Đảng, Nhà nước ta. Cùng với hoạt động tuyên truyền xuyên tạc, các thế lực thù địch  còn “iợi dụng những tồn tại của lịch sử ra sức kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tư tưởng "ly khai", "tự trị" của các dân tộc trên các địa bàn chiến lược để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phá hoại sự đoàn kết thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

 

 

 Các hoạt động cụ thể của chúng, như nhen nhóm, khuấy động, thổi bùng cái gọi là "quyền tự trị" của các dân tộc, kích động dân tộc Mông ly khai, bạo loạn thành lập "Nhà nước Mông tự trị", người Thượng ở Tây Nguyên ly khai thành lập “ Nhà nước Đê-ga độc lập”, người dân tộc Khmer ly khai thành lập “Nhà nước Khmer Krôm độc lập”; tung các tin thất thiệt về đời sống tâm linh và hiện thực ở các vùng đồng bào DTTS sinh sống để tạo nên hàng loạt các hoạt động như vượt biên trái phép, di dân tự do, hòng làm cho đời sống của đồng bào mất ổn định.

          Lợi dụng trình độ hiểu biết còn hạn chế, đặc điểm tâm lý và lịch sử hình thành, phát triển của mỗi dân tộc để tìm cách khoét sâu những mâu thuẫn, gây nghi kỵ, hận thù, chia rẽ; lợi dụng khó khăn về kinh tế và những tồn tại, hạn chế khuyết điểm của cán bộ, chính quyền trong quá trình thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước để kích động, để xuyên tạc, chia rẽ nhân dân các dân tộc thiểu số với chính quyền, giữa các dân tộc thiểu số với nhau và giữa đồng bào các dân tộc thiểu số với đồng bào dân tộc Kinh, tạo ra sự đối lập giữa các dân tộc với nhau và với cách mạng. Hoạt động này không chỉ ngăn cản việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về phát triển kinh tế, văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi mà còn trực tiếp phá hoại cơ sở kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, làm cho đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số ngày càng khó khăn để dễ bề không chế họ, phục vụ các mưu đồ chính trị hết sức đen tối, như lợi dụng quần chúng, kích động quần chúng gây bạo loạn chính trị, tạo tiếng vang và thông qua đó kêu gọi các tổ chức quốc tế can thiệp vào Việt Nam.

Tỉnh táo trước luận điệu xuyên tạc kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

 

          Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) được Đảng ta xác định là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối, quan điểm, chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là sự kế thừa và phát triển về tư duy, lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, có tính khái quát cao, là kết tinh trí tuệ và sức sáng tạo của toàn dân tộc, vừa có tính tổng kết lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn, phản ánh ý chí và nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta về phát triển đất nước nhanh và bền vững.

          Tuy nhiên, bất chấp thực tế đó cũng như những thành tựu Việt Nam đã đạt được sau hơn 35 năm đổi mới, các thế lực thù địch vẫn không ngừng tuyên truyền những luận điểm sai trái, xuyên tạc bác bỏ kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam. Thực tế này đòi hỏi cần tỉnh táo nhận diện và kiên quyết đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái về vấn đề này.

          Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN - bước đột phá trong tư duy lý luận của Đảng ta thời kỳ đổi mới, là sự lựa chọn khách quan, phù hợp xu thế vận động chung của nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, đề cập đến mô hình kinh tế này, một số luận điểm cho rằng, kinh tế thị trường và định hướng XHCN như "nước và lửa" không thể kết hợp được với nhau, kinh tế thị trường là của chủ nghĩa tư bản (CNTB), Việt Nam xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN là trái quy luật... Đây đều là sự xuyên tạc vô căn cứ bởi lẽ, thực tế lịch sử cho thấy, kể từ khi xã hội có sự phân chia thành giai cấp và sự xuất hiện của nhà nước thì nền kinh tế ở bất kỳ quốc gia nào cũng đều chịu sự định hướng chính trị của một giai cấp nhất định trong xã hội. Đó là giai cấp nắm trong tay quyền lực nhà nước, thông qua nhà nước, giai cấp cầm quyền sẽ đề ra những chủ trương, chính sách nhằm bảo vệ tối đa cho quyền và lợi ích của mình, trước hết là lợi ích kinh tế. Do đó, điểm khác nhau cơ bản giữa kinh tế thị trường TBCN và kinh tế thị trường định hướng XHCN là ở chỗ chúng được định hướng bởi những nền chính trị của các giai cấp cầm quyền khác nhau và phát triển theo những mục tiêu khác nhau. Nếu kinh tế thị trường TBCN được định hướng bởi nền chính trị, nhà nước của giai cấp tư sản, hướng tới mục tiêu tăng trưởng tối đa nhằm phục vụ tốt nhất cho lợi ích của giai cấp tư sản thì kinh tế thị trường định hướng XHCN được định hướng bởi nền chính trị của giai cấp công nhân - giai cấp có lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể dân tộc. Vì vậy, những đường lối, chính sách phát triển kinh tế mà nhà nước xã hội chủ nghĩa đưa ra trong khi phục vụ, bảo vệ cho lợi ích của giai cấp công nhân cũng đồng thời phục vụ, bảo vệ lợi ích của các giai tầng khác trong xã hội. Bởi thế, một trong những nét đặc trưng mang bản chất của kinh tế thị trường định hướng XHCN là không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội, môi trường để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần, trái lại, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước đi, từng chính sách và suốt quá trình phát triển.

          Lịch sử hình thành và phát triển của xã hội loài người chứng minh: kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của CNTB, đó là thành tựu phát triển cao của nền văn minh nhân loại, không thể và cũng chưa bao giờ là độc quyền của CNTB. Điều đó đồng nghĩa với việc các nước XHCN đều có thể sử dụng mô hình kinh tế này để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển theo mục đích của mình.

          Hiện đang xuất hiện một số luận điểm tập trung chứng minh: khi xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế nghĩa là Việt Nam đang "xoay trục" sang phát triển kinh tế thị trường theo hướng TBCN, định hướng XHCN chỉ là mị dân, hình thức. Đây hoàn toàn là ý kiến xuyên tạc, bịa đặt. Có thể thấy, trong thời kỳ quá độ, Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác; kinh tế tư nhân; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài) phù hợp trình độ không đồng đều của lực lượng sản xuất, nhằm huy động tối đa sức mạnh của mọi thành phần kinh tế, mọi giai tầng xã hội vào phát triển kinh tế, bảo đảm kinh tế phát triển nhanh, bền vững, tốc độ tăng trưởng cao.

          Đảng, Nhà nước ta xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, do đó sẵn sàng tạo mọi điều kiện thuận lợi, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm để tạo đà cho sự phát triển chung của nền kinh tế. Nhờ đó, thành phần kinh tế tư nhân ở Việt Nam đang có những bước phát triển mạnh mẽ. Qua 35 năm đổi mới "kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỷ trọng từ 39-40% GDP; thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, tỷ lệ đóng góp thuế thu nhập doanh nghiệp chiếm khoảng 34,1%,... góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội". Đại hội XIII của Đảng đề ra mục tiêu: phấn đấu đến năm 2030, tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đạt 60 đến 65%.

          Tuy nhiên, coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng không đồng nghĩa với việc chúng ta "tư nhân hóa" nền kinh tế quốc dân, phát triển kinh tế theo con đường tư bản chủ nghĩa. Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhưng kinh tế nhà nước mới là thành phần giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế (trong đó có kinh tế tư nhân) theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn liền với việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Như vậy, bản thân kinh tế tư nhân ở Việt Nam cũng được định hướng hoạt động và phát triển phù hợp chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của Đảng và Nhà nước chứ không phải phát triển một cách tự phát.

          Thực tế cho thấy, dưới sự định hướng theo những nguyên tắc thuộc về bản chất của chủ nghĩa xã hội, phần lớn các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân ở Việt Nam luôn nêu cao việc thực hiện đạo đức kinh doanh, trách nhiệm xã hội và xác định mục tiêu phát triển của mình là góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhằm hiện thực hóa những mục tiêu của CNXH: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Do đó, trong những trường hợp cần thiết, họ có thể chấp nhận hy sinh lợi ích, lợi nhuận trước mắt để bảo vệ cho lợi ích chung của nhân dân. Điều này có thể thấy rất rõ trong thời gian chống dịch COVID-19 vừa qua, hưởng ứng chủ trương chung của Đảng, Nhà nước sẵn sàng hy sinh lợi ích kinh tế trước mắt để bảo vệ tốt nhất sức khỏe và tính mạng cho nhân dân, nhiều doanh nghiệp tư nhân mặc dù sản xuất, kinh doanh cũng đang chịu nhiều thiệt hại, thua lỗ bởi dịch bệnh nhưng vẫn sẵn sàng đóng góp bằng nhiều hình thức khác nhau để phục vụ công tác chống dịch.

          Với chủ trương cổ phần hóa, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước của Đảng và Nhà nước Việt Nam, một số quan điểm cho rằng, chủ trương này thực chất là việc tiến hành "tư nhân hóa" nền kinh tế quốc dân, phát triển kinh tế thị trường theo hướng TBCN. Song thực tế đã chứng minh, chủ trương này ra đời xuất phát từ thực tế một số doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, do đó cần cổ phần hóa, cấu trúc lại nhằm huy động vốn đầu tư từ chủ thể của các thành phần kinh tế khác, qua đó, nâng cao hiệu quả quản lý và hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, góp phần xây dựng thành phần kinh tế nhà nước phát triển vững mạnh, thật sự xứng đáng trở thành nòng cốt, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hóa đều có tốc độ tăng trưởng cao hơn, hoạt động hiệu quả hơn. Chẳng hạn như trường hợp của Vinamilk sau khi cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước, quy mô tài sản liên tục gia tăng, khả năng tự chủ tài chính được cải thiện. Tính đến hết năm 2020, Vinamilk đã xuất khẩu đến 55 quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 2,4 tỷ USD. Hay Sabeco, việc tiến hành cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước, thay đổi toàn diện chiến lược kinh doanh là nhân tố chính giúp Sabeco trở thành một trong những công ty dẫn đầu ngành rượu, bia, nước giải khát tại thị trường Việt Nam và trong khu vực...

          Đặc biệt, trong chủ trương cổ phần hóa, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước cũng có quy định rõ về 13 ngành, lĩnh vực Nhà nước giữ 100% vốn điều lệ; bảy ngành, lĩnh vực, Nhà nước nắm từ 65% vốn điều lệ trở lên. Đây đều là những lĩnh vực then chốt, thiết yếu liên quan trực tiếp đến phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm thực hiện nhiệm vụ chính trị, quốc phòng - an ninh để giữ vững vai trò chủ đạo, định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường của kinh tế nhà nước.

          Những luận điệu phê phán, phủ nhận, xuyên tạc bản chất của mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay của các thế lực thù địch đều nhằm hướng đến một đích đến duy nhất là làm chệch hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường, từ đó làm chệch quỹ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do đó, cần hết sức tỉnh táo nhận diện và kiên quyết đấu tranh, phản bác các quan điểm sai lầm, phi lý và vô căn cứ này; tiếp tục giữ vững niềm tin vào con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn./.

            Nguồn: Tuyên giáo