Thứ Ba, 4 tháng 4, 2023

Củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng

 TCCS - Mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân luôn là nguồn sức mạnh to lớn, làm nên những thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được đáng ghi nhận, thời gian qua việc tăng cường mối quan hệ này vẫn còn bộc lộ một số hạn chế nhất định. Chính vì vậy, Đại hội XIII của Đảng đã đề ra những nhiệm vụ, giải pháp củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển mới.

Ý nghĩa và tầm quan trọng của mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân

Thứ nhất, là nhân tố quyết định sức mạnh của Đảng và thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”(1); “có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”(2).

Trong mọi giai đoạn lịch sử của cách mạng Việt Nam, Đảng ta đều gắn bó mật thiết với nhân dân, luôn lấy lợi ích của nhân dân làm nền tảng cho những quyết sách, đường lối của mình; đồng hành, chia sẻ cùng nhân dân và vận động, động viên nhân dân trong quá trình thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng. Hầu hết cán bộ, đảng viên luôn gương mẫu, gần dân, hiểu dân và sẵn sàng phấn đấu, hy sinh vì lợi ích của nhân dân; do vậy, nhân dân luôn tin vào Đảng, ủng hộ Đảng, hết lòng vì cách mạng, sẵn sàng đóng góp sức người, sức của, thậm chí cả xương máu, tính mạng của mình cho cách mạng. Đây chính là nguyên nhân tạo thành sức mạnh của Đảng ta, là yếu tố làm nên thắng lợi của cách mạng nước ta trong 93 năm qua. Chính thông qua mối quan hệ mật thiết với nhân dân mà Đảng phát huy được vai trò, trách nhiệm của nhân dân trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền, đặc biệt là trong việc kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên; đồng thời, tập hợp, phát huy được sức mạnh, trí tuệ và lực lượng to lớn của nhân dân, tiếp thu những đột phá, sáng tạo trong nhân dân để tiếp tục quá trình đổi mới có hiệu quả hơn.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với đồng bào dân tộc xã Toàn Sơn, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình_Ảnh: TTXVN

Thứ hai, là nhân tố bảo đảm cho các phong trào cách mạng của nhân dân phát triển mạnh mẽ, phát huy tốt nhất sức mạnh và quyền làm chủ của nhân dân.

Tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân là để Đảng lãnh đạo, định hướng các phong trào cách mạng của nhân dân một cách hiệu quả. Các phong trào cách mạng của nhân dân chỉ phát triển đúng hướng khi đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Với tầm nhìn sâu rộng, lý luận sắc bén, kinh nghiệm thực tế dày dặn và đội ngũ cán bộ, đảng viên được tôi luyện qua nhiều thử thách, Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, định hướng và đưa ra những quyết sách quan trọng cho đất nước và dân tộc. Nhân dân ta có truyền thống yêu nước, kiên cường, bất khuất, cần cù, chịu khó, đoàn kết, đồng cam cộng khổ. Đây là những nhân tố quan trọng để cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đi đến thắng lợi trong các cuộc chiến tranh đầy hy sinh, gian khổ. Thông qua mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, nhân dân được tập hợp, được tổ chức trong những tổ chức cách mạng, nhờ đó mà sức mạnh của nhân dân lại được phát huy, nhân lên gấp bội.

Thứ ba, góp phần quyết định tính đúng đắn của chủ trương, đường lối của Đảng trong phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội trước hết bằng cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách và lãnh đạo, tổ chức thực hiện thông qua các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Một mặt, chủ trương, đường lối của Đảng muốn “đi vào” cuộc sống một cách thuận lợi thì phải lấy lợi ích của nhân dân làm cơ sở và phải bám sát với thực tế cuộc sống; quá trình thực hiện phải vận động được sự tham gia tích cực và ủng hộ nhiệt tình của nhân dân; mặt khác, thông qua cương lĩnh, đường lối của Đảng để thu hút, tập hợp lực lượng nhân dân đi theo Đảng. Một trong những nguyên nhân sâu xa và trực tiếp dẫn tới nguy cơ chệch hướng là bệnh quan liêu, xa dân của đảng cộng sản cầm quyền và một khi mắc phải căn bệnh quan liêu, xa dân thì cương lĩnh, đường lối của Đảng sẽ không phản ánh được nguyện vọng và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.

Thông qua mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân mà nhân dân phản ánh, góp ý, phản biện đường lối, chủ trương, chính sách cho Đảng, Nhà nước; thông qua ý kiến của nhân dân mà Đảng chắt lọc, chọn lọc thông tin để đề ra, hoàn thiện, điều chỉnh chủ trương, đường lối cho phù hợp. Đó là con đường và quá trình hoàn thiện cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách của một đảng cộng sản cầm quyền chân chính.

Thứ tư, là điều kiện bảo đảm cho công tác tuyên truyền, thuyết phục của Đảng đạt hiệu quả cao nhất.

Hiệu quả công tác tuyên truyền phụ thuộc rất lớn vào mối quan hệ gắn bó, sự hiểu biết, tin tưởng giữa chủ thể tuyên truyền và đối tượng tuyên truyền. Đối tượng tuyên truyền là nhân dân khi đã tin vào Đảng, gắn bó mật thiết với Đảng, thì mọi thông tin tuyên truyền sẽ đến với nhân dân một cách nhanh chóng, đầy đủ hơn. Ngược lại, nếu mối quan hệ giữa chủ thể tuyên truyền và đối tượng tuyên truyền không gắn bó chặt chẽ, thiếu sự tin cậy, nếu cán bộ, đảng viên chỉ tuyên truyền lý thuyết suông, giáo điều, tuyên truyền một chiều, nói không đi đôi với làm, không tiên phong, gương mẫu... thì dù có cố gắng bao nhiêu, nhân dân cũng không tin theo.

Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế sâu rộng và bùng nổ thông tin, công nghệ hiện nay, xuất hiện nhiều luồng thông tin rất nhanh và phức tạp, thì lòng tin của nhân dân là một “bộ lọc” tốt nhất để họ chắt lọc, chọn lọc thông tin; qua đó, sẽ làm gia tăng hiệu quả của công tác tuyên truyền trong cuộc đấu tranh với các luận điệu sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Thứ năm, góp phần nâng cao vai trò, uy tín và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Thông qua mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, đội ngũ cán bộ, đảng viên thể hiện vị trí, vai trò, trách nhiệm trước nhân dân, sẵn sàng để nhân dân đánh giá, kiểm tra, giám sát, góp ý; từ đó, tiến hành sàng lọc đảng viên, để nhân dân giới thiệu cho Đảng những nhân tố mới, tiêu biểu. Bên cạnh đó, thông qua mối quan hệ mật thiết với nhân dân để Đảng phát huy vai trò, trách nhiệm của nhân dân trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền, góp phần làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Thứ sáu, tăng cường hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.

Thông qua mối quan hệ mật thiết với nhân dân để Đảng nắm thông tin về đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tổ chức đảng trong việc chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nắm rõ phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, để có thể phát hiện những tiêu cực, tham nhũng trong bộ máy công quyền. Trong thực tế hiện nay, hơn 70% các vụ việc tiêu cực, tham nhũng được phát hiện là do báo chí và người dân cung cấp thông tin. Điều đó cho thấy, nếu Đảng, chính quyền thực sự dựa vào nhân dân, tin nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân thì cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực sẽ đạt được kết quả cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Với Đảng, “Nếu không có nhân dân giúp sức, thì Đảng không làm được việc gì hết”(3). Bởi vậy, “một giây, một phút cũng không thể giảm bớt mối liên hệ giữa ta và dân chúng”(4).

Thứ bảy, là cơ sở để phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.

Thông qua mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân để nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, để các tổ chức này thể hiện được vai trò, trách nhiệm và sự tín nhiệm của mình trước nhân dân; đồng thời, để nhân dân thể hiện được ý chí, chính kiến của mình, thể hiện được quyền làm chủ và vai trò giám sát, phản biện chính sách của mình trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Thực trạng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân hiện nay

Đại hội XIII của Đảng đã đánh giá: “Công tác dân vận được chú trọng và tiếp tục đổi mới; quan điểm “dân là gốc”, là chủ thể của công cuộc đổi mới được nhận thức và thực hiện ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn; mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được củng cố, tăng cường”(5). Đánh giá trên dựa trên những căn cứ cụ thể sau:

Một là, thời gian qua đã có sự chuyển biến tích cực trong nhận thức về trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng và hệ thống chính trị đối với công tác dân vận. Đảng lãnh đạo cả hệ thống chính trị “coi trọng việc lắng nghe, nắm tình hình và giải quyết những nguyện vọng, kiến nghị hợp pháp, chính đáng, những vấn đề bức xúc của nhân dân”(6); chăm lo thực sự đến mọi mặt đời sống của các tầng lớp nhân dân. Công tác an sinh xã hội ngày càng được chăm lo, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được nâng cao... Nước ta từ một nước nghèo đã trở thành một nước có thu nhập trung bình thấp và xác định khát vọng trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045. Quy mô và tiềm lực của nền kinh tế tiếp tục tăng lên. Trên cơ sở đó, Đảng, Nhà nước ta có điều kiện để thực hiện việc chăm lo, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân - yếu tố hết sức quan trọng góp phần củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.

Hai là, Đảng đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết, văn bản để phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trên cơ sở chủ trương của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã thể chế hóa thành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để phát huy quyền làm chủ của nhân dân; đã xây dựng, ban hành nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Hệ thống tổ chức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội được kiện toàn, củng cố, đổi mới phương thức hoạt động; giữ vai trò nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở; đã có nhiều hình thức vận động nhân dân tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, thúc đẩy các hoạt động đối ngoại nhân dân và công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài.

Ba là, Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực rất quyết liệt, với quyết tâm chính trị rất cao; đồng thời, tập trung chỉ đạo tổ chức tốt việc tiếp công dân, đối thoại với công dân và giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân, nhất là tại những địa bàn, lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, những nơi xảy ra điểm nóng, khiếu kiện kéo dài; giải quyết kịp thời những bức xúc, nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của nhân dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Nhận thức sâu sắc tính chất phức tạp và sự nguy hiểm của vấn nạn tham nhũng, lãng phí, thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm, kiên quyết chỉ đạo đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng, chống tham nhũng và suy thoái tư tưởng chính trị. Trung ương đã kiện toàn, tăng cường các cơ quan chức năng đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, nhất là công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án... Việc lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết nhiều vụ án tham nhũng đã có kết quả tích cực, đáng ghi nhận, góp phần răn đe, ngăn chặn tình trạng tham nhũng, lãng phí trong thời gian vừa qua. Các cơ quan hành chính, chính quyền các cấp đã tập trung giải quyết kịp thời, đúng pháp luật nhiều đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Người đứng đầu các ngành, địa phương, đơn vị đã tổ chức tiếp công dân, đối thoại với công dân theo định kỳ có kết quả. 

Tổ chức đảng, cấp ủy các cấp quan tâm lãnh đạo đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, phát huy vai trò của các cơ quan dân cử. Các phương tiện truyền thông đại chúng đã dựa vào nhân dân, đồng hành với nhân dân trong công cuộc đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, góp phần tích cực củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng.

Bốn là, phương thức tiến hành công tác dân vận của Đảng, việc thực hiện của các cấp ủy đã có nhiều đổi mới, bám sát nhu cầu, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Nội dung công tác dân vận đã tập trung giải quyết những vấn đề cụ thể, như xóa đói, giảm nghèo, thực hiện an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là tập trung đầu tư, ưu tiên cho đồng bào các dân tộc ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn...; gắn tuyên truyền, vận động nhân dân với giải quyết quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; gắn việc tập hợp, thu hút các tầng lớp nhân dân với thực hiện các dự án kinh tế - xã hội, củng cố các tổ chức và hoạt động của các đoàn thể nhân dân. Hình thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân khá đa dạng, phong phú, gắn với đặc điểm đối tượng và hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương, cơ quan, đơn vị.

Những kết quả của công tác dân vận thời gian qua đã góp phần quyết định vào việc tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, tạo sự đồng thuận trong xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới.

Bên cạnh những kết quả nêu trên, mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân có nơi, có lúc còn bộc lộ những hạn chế, thiếu sót; cụ thể là:

Thứ nhất, việc theo dõi, đánh giá, dự báo tình hình, nhất là ở những địa bàn phức tạp còn chưa kịp thời, sâu sát; việc nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu thiết thân của nhân dân vẫn chưa thực sự chắc chắn, chưa sâu sát; từ đó, dẫn đến việc đề ra một số chủ trương, chính sách đối với các tầng lớp nhân dân chưa kịp thời, chưa bám sát những biến đổi trong thực tiễn và điều kiện, hoàn cảnh của đất nước. Bên cạnh đó, việc quán triệt, nâng cao nhận thức, tổ chức thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận chưa sâu sắc; chưa dự báo, nắm bắt đầy đủ những diễn biến, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân để có biện pháp xử lý phù hợp, vẫn còn có lúc việc xử lý tình huống bức xúc, “điểm nóng” chưa kịp thời.

Thứ hai, công tác tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân còn một số bất cập. Việc triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận ở một số cấp ủy còn kém hiệu quả. Công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục nhân dân có lúc, có nơi còn giáo điều, xa rời thực tế, lý thuyết suông, chưa sát hợp với trình độ, phong tục, tập quán của người dân.

Thứ ba, việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; công tác tập hợp, phát triển đoàn viên, hội viên; việc xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Phương pháp vận động, tập hợp nhân dân có lúc, có nơi còn chưa phù hợp với từng đối tượng, nhất là đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, thanh niên, đồng bào theo tôn giáo.

Thứ tư, vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân ở một số nơi chưa thường xuyên, hiệu quả còn thấp, nhất là giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa đạt hiệu quả như mong đợi.

Thứ năm, một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, chưa thúc đẩy công tác phối hợp của hệ thống chính trị trong thực hiện công tác dân vận; một số nơi còn chưa coi trọng việc lấy ý kiến nhân dân nên có chính sách chưa đáp ứng được nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân... Thậm chí, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý, còn thiếu gương mẫu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, xa dân, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc của nhân dân. Một số cán bộ có chức, có quyền chẳng những không gương mẫu, mà còn nêu gương xấu trước quần chúng, nói không đi đôi với làm, bố trí thần tốc, đề bạt con cháu, người thân vào các chức vụ quan trọng, nhưng không tương xứng với năng lực, trình độ, uy tín, để xảy ra những vụ việc sai phạm, tham nhũng trong phạm vi lãnh đạo, quản lý... Những biểu hiện, tình trạng này làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, ảnh hưởng tiêu cực đến mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.

Thứ sáu, công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết có lúc, có nơi còn chưa được quan tâm đúng mức. Một số chính sách chưa đáp ứng nguyện vọng, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, một số bức xúc kéo dài chưa được giải quyết kịp thời; quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi còn mang tính hình thức hoặc bị vi phạm,... gây tâm lý dồn nén, tích tụ bức xúc trong nhân dân; một bộ phận nhân dân bị các thế lực thù địch, đối tượng cực đoan lợi dụng kích động, gây ra nhiều vụ việc phức tạp, tạo “điểm nóng” về an ninh, trật tự.

Cán bộ, công nhân ngành điện hướng dẫn đồng bào sử dụng điện an toàn, tiết kiệm và hiệu quả_Nguồn: evn.com.vn

Giải pháp củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân trong giai đoạn hiện nay

Để củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ của công cuộc đổi mới trong giai đoạn hiện nay, Đại hội XIII của Đảng đã đề ra những giải pháp chủ yếu sau:

Một là, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của các cấp ủy, các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác dân vận trong tình hình mới. Đại hội XIII của Đảng đề ra giải pháp trước tiên là: “Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của các cấp ủy đảng, hệ thống chính trị về công tác dân vận”(7). Trong điều kiện mới, trước yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn đổi mới đất nước, đòi hỏi phải tiếp tục có sự chuyển biến mạnh mẽ, quyết liệt hơn nữa trong nhận thức, hành động của các cấp ủy và cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; từ đó, đề cao hơn nữa vai trò, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và từng người dân để công tác dân vận đạt được mục tiêu và hiệu quả đã đề ra. Trong thời gian qua, nhận thức về công tác dân vận của một số cấp ủy, tổ chức trong hệ thống chính trị chưa đầy đủ; chưa nêu cao trách nhiệm, nâng cao hiệu quả công tác phối hợp của cả hệ thống chính trị trong việc thực hiện công tác dân vận; vẫn còn không ít cán bộ, công chức xem nhẹ vai trò, ý nghĩa của công tác dân vận, dẫn đến tình trạng chưa quan tâm, chú ý đúng mức tới việc vận động, tuyên truyền, thuyết phục, tạo sự đồng tình, ủng hộ của người dân trong quá trình thực hiện công tác quản lý nhà nước.

Để nâng cao nhận thức, trách nhiệm lãnh đạo công tác dân vận của cấp ủy, sự vào cuộc của hệ thống chính trị trong thực hiện công tác dân vận, các cấp ủy cần tập trung thực hiện tổ chức quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân vận một cách hiệu quả. Trung ương cần có những quy định cụ thể đối với các cấp ủy, tổ chức đảng, đưa nội dung công tác dân vận vào trong sinh hoạt đảng hằng tháng.

Hai là, tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”; chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác dân vận. Đại hội XIII của Đảng đề ra giải pháp: “Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”(8); “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”; đồng thời, “Chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác dân vận”(9).

Để tăng cường chất lượng, hiệu quả công tác dân vận, nhất thiết phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận của Đảng, đặc biệt là đội ngũ cán bộ tham mưu chiến lược. Muốn vậy, cần có cơ chế, chính sách đãi ngộ xứng đáng nhằm thu hút người có năng lực, có uy tín, kỹ năng, phương pháp và kinh nghiệm làm công tác dân vận; chú trọng luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, nhất là cán bộ trẻ, có năng lực và được đào tạo bài bản; khắc phục tình trạng đưa cán bộ sắp đến tuổi nghỉ hưu hay phẩm chất, năng lực yếu kém và không có uy tín về làm công tác dân vận. Kiện toàn tổ chức, bộ máy và cán bộ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, đáp ứng yêu cầu về trình độ lý luận, năng lực hoạt động thực tiễn và kỹ năng công tác vận động nhân dân. Các cơ quan tham mưu của Đảng phải nâng cao nhận thức và trách nhiệm trong công tác tham mưu, tư vấn cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy, tổ chức đảng về công tác dân vận; duy trì chế độ thường xuyên báo cáo, thông tin kịp thời, đầy đủ về tình hình các tầng lớp nhân dân và những hạn chế, khuyết điểm trong công tác dân vận của cấp ủy các cấp.

Cùng với việc chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, cũng phải chú trọng xây dựng lực lượng nòng cốt là người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo (già làng, trưởng bản, các chức sắc tôn giáo) làm công tác dân vận ở cơ sở. Họ chính là những “cánh tay nối dài” giữa Đảng, chính quyền với nhân dân.

Ba là, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận của các cơ quan đảng, nhà nước và chính quyền các cấp. Thời gian qua, hiệu quả của một số nghị quyết, chương trình lãnh đạo công tác dân vận còn chưa cao, không ít nội dung chưa đi vào thực tiễn cuộc sống, chưa đáp ứng được nguyện vọng, lợi ích hợp pháp, chính đáng của một bộ phận nhân dân nên đã gây ra những bức xúc, khiếu kiện phức tạp đông người. Bên cạnh đó, việc thể chế hóa, cụ thể hóa một số chủ trương, nghị quyết của Đảng liên quan đến công tác dân vận còn chưa phù hợp, kịp thời, chưa sát với tình hình thực tiễn và bức xúc, kiến nghị chính đáng của nhân dân. Do đó, đổi mới việc ra nghị quyết, chương trình lãnh đạo công tác dân vận, xây dựng quy chế làm việc, bảo đảm sự lãnh đạo chặt chẽ, toàn diện, thường xuyên của Đảng đối với công tác dân vận là một yêu cầu cần thiết; đồng thời, là một trong những giải pháp quan trọng, có ý nghĩa sâu sắc đối với việc đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác dân vận trong tình hình mới.

Chính vì vậy, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh:Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận của các cơ quan đảng, nhà nước và chính quyền các cấp”(10). Cụ thể là, đổi mới việc ban hành nghị quyết, chương trình lãnh đạo công tác dân vận của Đảng, xây dựng quy chế làm việc, bảo đảm sự lãnh đạo chặt chẽ, toàn diện, thường xuyên của Đảng đối với công tác dân vận; đồng thời, tăng cường và đổi mới công tác dân vận của cơ quan nhà nước và chính quyền các cấp; tập trung giải quyết kịp thời, có hiệu quả những kiến nghị, bức xúc và nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của nhân dân.

Bốn là, nâng cao chất lượng công tác giám sát, phản biện xã hội, đóng góp ý kiến của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân; đa dạng hóa các hình thức tổ chức và phương thức tập hợp, vận động, nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp nhân dân.

Sở dĩ Đại hội XIII của Đảng đề ra giải pháp: “Nâng cao chất lượng công tác giám sát, phản biện xã hội, đóng góp ý kiến của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân”(11) là bởi vì, ở không ít địa phương, những năm qua chưa phát huy thật tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong hoạt động giám sát, phản biện xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội ở một số cơ sở giảm sút vai trò, phối hợp thiếu chặt chẽ, không sát dân, không làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân.

Để nâng cao chất lượng công tác giám sát, phản biện xã hội, đóng góp ý kiến của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, các cấp ủy, tổ chức đảng, một mặt, phải tôn trọng tính độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân; mặt khác, tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân phát huy tính chủ động hơn nữa trong hoạt động, để gần dân, sát dân hơn.

Năm là, tích cực đôn đốc, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Đảng về công tác dân vận. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng yêu cầu: “Tích cực đôn đốc, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Đảng về công tác dân vận”(12); bởi thời gian qua, không ít nơi chưa thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện các văn bản của Đảng về công tác dân vận. Một số nơi chưa coi trọng việc lấy ý kiến nhân dân khi ban hành chính sách, pháp luật; hiệu quả công tác tiếp dân, đối thoại, giải quyết đơn, thư khiếu nại còn hạn chế...

Do đó, các tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở phải đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ đạo, đôn đốc, giám sát, kiểm tra việc tổ chức thực hiện để nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận sớm đi vào cuộc sống, có hiệu quả thiết thực. Xây dựng kế hoạch hằng quý, hằng năm về tìm hiểu, nắm bắt tình hình đời sống, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để có chủ trương, biện pháp xử lý đúng đắn, kịp thời. Các cấp ủy lãnh đạo chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cần phối hợp chặt chẽ trong giải quyết các công việc liên quan đến nhân dân và vận động nhân dân thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của công dân. Các cơ quan đảng ở Trung ương thường xuyên phối hợp, kiểm tra, giám sát chặt chẽ quá trình triển khai thực hiện; đồng thời, theo dõi, kiểm tra việc thể chế hóa quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân vận. Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, giải đáp kịp thời những vấn đề mới mà thực tiễn đang đặt ra đối với công tác dân vận của Đảng trong tình hình mới../.

------------------------

Các chú đã thực hiện khẩu hiệu “Đã đánh là thắng”.

 

Sau sự kiện Không quân Nhân dân Việt Nam lần đầu xuất kích đánh to và thắng lớn không lực Hoa Kỳ trong các ngày 3 và 4-4-1965, ngày 5-4-1965, Bác gửi thư khen ngợi: “Các chú đã chiến đấu dũng cảm, đã tiêu diệt máy bay Mỹ. Các chú đã thực hiện khẩu hiệu “Đã đánh là thắng”. Như thế là xứng đáng với truyền thống anh hùng của quân và dân ta... Chúc các chú lập nhiều chiến công hơn nữa”.

Cùng ngày, trả lời phỏng vấn nhà báo Iuxi Takanu của báo “Akahata” của Đảng Cộng sản Nhật Bản, Bác đã đưa ra giải pháp để chấm dứt chiến tranh nếu Mỹ không can thiệp vào miền Nam, chấm dứt ném bom miền Bắc thì “sẽ tạo điều kiện thuận lợi để đi đến một hội nghị như kiểu Hội nghị Giơnevơ năm 1954. Đó là cách giải quyết hợp tình hợp lý, có lợi cho hòa bình và có lợi cho nhân dân Mỹ”. Trong bức điện cảm ơn gửi cùng ngày tới Quốc trưởng Campuchia N.Xihanuc, Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định: “Trước sức mạnh đoàn kết của các dân tộc Việt Nam, Khơme và Lào biểu hiện rõ rệt trong Hội nghị nhân dân Đông Dương vừa qua do Ngài triệu tập, mọi âm mưu xâm lược và gây chiến của đế quốc Mỹ đối với các nước Đông Dương nhất định sẽ bị thất bại hoàn toàn”.

HAIVAN

Một số nhận thức lý luận về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn với tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc qua tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

 TCCS - Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn với tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là quan điểm lý luận lớn của Đảng ta. Trong những tác phẩm công bố gần đây, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã bổ sung, phát triển lý luận về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn với tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng dự Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc với nhân dân thôn Tháp Thượng, xã Song Phượng, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội_Ảnh: TTXVN

Dân chủ là bản chất, mục tiêu và động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta

“Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ(1). Sự lãnh đạo toàn diện của Đảng là điều kiện tiên quyết để bảo đảm nhân dân làm chủ đất nước và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; nhân dân làm chủ đất nước là đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là phương thức, phương tiện quan trọng hàng đầu để Đảng lãnh đạo đất nước và nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”, thực sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kiên trì thực hiện phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”(2). Quyền làm chủ đất nước của nhân dân là bản chất và cốt lõi của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự phản ánh ý chí của nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân được pháp luật thừa nhận, khơi dậy sức sáng tạo của nhân dân, sử dụng hệ thống thể chế để bảo đảm giữ vững lòng dân với tư cách là chủ nhân của đất nước. Đồng chí khẳng định: “bản chất cốt lõi nhất của dân chủ là bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”(3). Đây là một luận điểm phản ánh đặc trưng bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đó là: vì nhân dân, lấy nhân dân làm gốc, làm chủ, làm lực lượng quyết định toàn bộ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Luận điểm này được kế thừa từ truyền thống “lấy dân làm gốc”, coi trọng sức dân trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta; là sự vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong thời đại mới; phản ánh quan điểm xuyên suốt, thống nhất của Đảng ta với tư cách là lực lượng tiên phong, tiên tiến, lãnh đạo đất nước và xã hội trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, Tổng Bí thư chỉ rõ: “Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”(4).

Dân chủ xã hội chủ nghĩa được thể hiện ở chỗ, nhân dân có quyền làm chủ, tham gia giải quyết công việc trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, xã hội,... Chẳng hạn, trong quản lý phát triển xã hội, dân chủ thể hiện rõ nhất ở việc người dân cùng với Nhà nước tham gia giải quyết các vấn đề xã hội, như việc làm, xóa đói, giảm nghèo, an sinh xã hội, phúc lợi công cộng... Người dân chẳng những là đối tượng thụ hưởng chính sách, mà còn là đồng chủ thể với Nhà nước trong xây dựng, hoạch định chính sách và đánh giá việc thực hiện chính sách. Quy chế Dân chủ ở cơ sở khẳng định vai trò của người dân ở cơ sở: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra; đến Đại hội XIII của Đảng bổ sung nội dung “dân giám sát” và “dân thụ hưởng” lợi ích. Người dân được bảo đảm các điều kiện, như bảo đảm dân sinh, dân quyền; nâng cao dân trí; thực hiện dân chủ... Tổng Bí thư thường xuyên nhắc nhở: “Cùng với việc chăm lo đời sống nhân dân, tôn trọng và bảo đảm những quyền công dân đã được Hiến pháp và pháp luật quy định, các cấp ủy đảng, các cơ quan nhà nước cần động viên, tổ chức nhân dân tham gia rộng rãi và thường xuyên vào các công việc quản lý kinh tế, quản lý xã hội... Đối với những chủ trương có quan hệ trực tiếp tới đời sống nhân dân, cấp ủy đảng cần lắng nghe ý kiến nhân dân trước khi quyết định. “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát” phải trở thành khẩu hiệu hành động, thành phương châm công tác vận động quần chúng. Phải thực hiện đúng nguyên tắc: Chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và trình độ của nhân dân... nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân, có ý thức và thái độ đúng đắn với nhân dân, yêu thương, gần gũi, tôn trọng, lắng nghe nhân dân”(5).

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu: “Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội”(6); “tạo mọi điều kiện để nhân dân phát huy quyền làm chủ, tham gia có hiệu quả vào việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội”(7). Điều này có nghĩa là, ở phương diện cá nhân, mỗi con người trong tư cách công dân là một con người chính trị, có quyền tham gia vào đời sống chính trị, có quan điểm, chính kiến rõ ràng, có quyền được thông tin và cơ hội tiếp cận thông tin, quyền bảo lưu ý kiến theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phù hợp với pháp luật của Nhà nước và Điều lệ của Đảng, quy định, quy chế của các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội mà mình tham gia với tư cách là thành viên. Ở phương diện xã hội, đó là quyền tham gia xây dựng, đánh giá đường lối, chính sách, trong xây dựng thể chế và kiểm soát quyền lực. Bên cạnh đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, dân chủ xã hội chủ nghĩa phải gắn với công bằng và bình đẳng xã hội; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội không chỉ là công bằng, bình đẳng trong phân phối lợi ích, mà còn là công bằng, bình đẳng về cơ hội phát triển dành cho tất cả mọi người, không có sự phân biệt. Đây là những đặc trưng làm nên sự khác biệt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam so với các nền “dân chủ tự do” khác. Tổng Bí thư phân tích và chỉ rõ: “Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do” mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân - yếu tố bản chất nhất của dân chủ. Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội... Sự rêu rao bình đẳng về quyền, nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó đã dẫn đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức, trống rỗng mà không thực chất. Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là “tự do”, “dân chủ”, dù có thể thay đổi chính phủ, nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản”(8).

Với những đặc trưng ưu việt đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một chế độ dân chủ thực sự; phản ánh đầy đủ tính pháp lý, tính chính trị và mang tính nhân dân, tính nhân văn sâu sắc. Đó là nền dân chủ “lấy con người làm trung tâm”, “thực sự vì con người”. Chính vì lẽ đó, Tổng Bí thư khẳng định: “xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam”(9).

Dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ thực sự được bảo đảm trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Lịch sử phát triển của các thể chế chính trị trên thế giới đã cho thấy, dân chủ là một hình thái tổ chức quyền lực của nhà nước trong lịch sử; do đó, dân chủ có quan hệ mật thiết, không thể tách rời với nhà nước - xét về mặt thiết chế, bộ máy.

Trong lịch sử, một khi đã có nhà nước thì dân chủ tất yếu phải thông qua nhà nước mà bộc lộ ra và được thực hiện. Dân chủ phải được thấm nhuần, thẩm thấu trong mọi tổ chức cơ cấu quyền lực và hệ thống thể chế nhà nước cũng như trong môi trường kinh tế - xã hội và các quan hệ xã hội.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ ra vấn đề mấu chốt của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đó là dân chủ phải được xây dựng trên nền tảng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tổng Bí thư đã phân tích về mối quan hệ giữa dân chủ và nhà nước pháp quyền: “Chúng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân... Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”(10)Chính vì vậy, nhiệm vụ trọng tâm trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là: “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền và phải tạo ra sự chuyển biến tích cực, hiệu lực, hiệu quả hơn. Xây dựng Nhà nước về cả lập pháp, hành pháp và tư pháp, gắn với đổi mới hoàn thiện chính quyền các địa phương và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Chú trọng hoàn thiện thể chế và tổ chức thực hiện nghiêm pháp luật theo các nguyên tắc và quy định của Hiến pháp năm 2013”(11). Kế thừa quan điểm mang tính nguyên tắc đó, Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” (Nghị quyết số 27-NQ/TW) đã đề ra mục tiêu: “Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả; nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả...”(12).

Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải tăng cường pháp chế, siết chặt kỷ luật, kỷ cương xã hội. Tăng cường pháp chế và quản lý xã hội bằng pháp luật là nguyên tắc hiến định ở nước ta(13). Thực hành dân chủ gắn liền với tăng cường pháp chế và bảo đảm kỷ cương xã hội là sự cần thiết tất yếu để làm cho xã hội trở nên lành mạnh, có trật tự và kỷ cương, không rơi vào hỗn loạn, tự do, vô chính phủ, góp phần ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Vì vậy, Tổng Bí thư nhiều lần nhấn mạnh, “phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ cương (14), “dân chủ phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. Một đất nước không có kỷ cương thì xã hội rối loạn, mất ổn định, như vậy thì đất nước ấy không xây dựng, phát triển được. Cho nên, dân chủ và kỷ cương phải đi liền với nhau. Dân chủ nhưng phải kỷ cương và kỷ cương trên cơ sở phát huy dân chủ” (15), “cần tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn..., đặc biệt là mối quan hệ mới được bổ sung lần này là mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội(16), “chống các biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức”(17). Quan điểm này được Nghị quyết số 27-NQ/TW nhấn mạnh: “Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế,... giữ vững kỷ luật, kỷ cương, đấu tranh kiên quyết với những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức”(18).

Cán bộ Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh tuyên truyền pháp luật cho đồng bào ở xã Húc Động, huyện Bình Liêu _Nguồn: baovephapluat.vn

Có thể thấy, các bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thể hiện rõ quan điểm nhìn nhận dân chủ về chính trị trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chế độ ủy quyền thông qua bầu cử và các phương thức thực hiện dân chủ, từ dân chủ đại diện đến dân chủ trực tiếp. Nhân dân là chủ thể rộng lớn nhất của Nhà nước và xã hội. Nhân dân ủy quyền cho Nhà nước với tư cách người chủ, là chủ thể gốc của mọi quyền lực, là chủ thể ủy quyền. Nhà nước là chủ thể tiếp nhận và thực thi sự ủy quyền, dùng quyền lực được nhân dân ủy thác để thực hiện quyền lực của nhân dân. Nhân dân làm chủ bằng Nhà nước là cốt lõi của chế độ dân chủ đại diện. Tổng Bí thư nêu rõ, Nhà nước phải thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, là “cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, thay mặt nhân dân quyết định những công việc hệ trọng của đất nước” (19) và nhấn mạnh: “làm tốt công tác nhân sự, bảo đảm phát huy dân chủ và sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng trong công tác cán bộ, cơ bản giới thiệu được những người tiêu biểu về đức, tài, xứng đáng đại diện cho ý chí, nguyện vọng, quyền làm chủ của nhân dân”(20)Bên cạnh cơ chế dân chủ đại diện, người dân còn thực hiện quyền làm chủ trực tiếp thông qua bầu cử những người đại diện cho mình. Tổng Bí thư tin tưởng, việc bầu cử “là cơ hội để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua việc lựa chọn, bầu ra những người tiêu biểu, có đức, có tài, xứng đáng đại diện cho nhân dân tại Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Đây cũng là dịp để tiếp tục xây dựng, củng cố và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”(21).

Có thể nói, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ ra những mắt xích xung yếu để bảo đảm cho một nhà nước dân chủ thực sự phục vụ nhân dân, đó là: tổ chức của Nhà nước, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, cơ cấu tổ chức của các cơ quan nhà nước cũng như việc đào tạo, lựa chọn, bố trí cán bộ, công chức vào các lĩnh vực chuyên môn của quản lý nhà nước... Tất cả mắt xích này cần phải được luật hóa, thể chế hóa, chế định hóa chặt chẽ, để phòng tránh sự biến dạng và tha hóa quyền lực, kiểm soát quyền lực đối với các cơ quan nhà nước và những người làm việc trong các tổ chức, bộ máy công quyền.

Dân chủ phải gắn liền với thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc

Dân chủ thực chất sẽ thúc đẩy đoàn kết thực chất. Dân chủ và đoàn kết để đi tới đồng thuận xã hội là nhân tố động lực thúc đẩy phát triển. Nguyên lý này trong thực tiễn đổi mới và phát triển ở nước ta thường được biểu đạt bởi mệnh đề “Ý Đảng - lòng dân - phép nước”. Sự hòa hợp này tạo nên sức mạnh của dân chủ, trở thành động lực của đổi mới, của phát triển, đồng thời dân chủ là mục tiêu của đổi mới, của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trong quan điểm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đại đoàn kết toàn dân tộc là “sức mạnh to lớn, vô địch để xây dựng Tổ quốc ta ngày càng cường thịnh, Nhân dân ta ngày càng hạnh phúc, Đất nước ta ngày càng phát triển, phồn vinh”(22), là “nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng Việt Nam”(23). Để xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, Tổng Bí thư chỉ rõ: “cần phải thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân. Phải thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở; làm tốt, có hiệu quả phương châm: “dân biết, dân bàn, dân giám sát, dân thụ hưởng””(24). Đảng phải tạo ra môi trường lành mạnh, công bằng, bình đẳng; qua đó, giúp cho tất cả đối tượng có điều kiện, cơ hội phát triển, “không ngừng thúc đẩy sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo”(25). Theo đó, thực hành dân chủ trong Đảng và trong toàn hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở là nền tảng vững chắc để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đoàn kết, thống nhất, trở thành hạt nhân, động lực xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. 

Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, để phát huy và thực hành dân chủ một cách mạnh mẽ, thực chất, khối đại đoàn kết toàn dân tộc cần được xây dựng, củng cố trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng chí khẳng định: “Sức mạnh vô địch của Đảng, Nhà nước và chế độ ta là ở nhân dân. Mọi công việc lớn hay nhỏ có làm được hay không đều là do nhân dân, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và sự phối hợp đồng bộ của cả hệ thống chính trị... Sự ủng hộ, giám sát, giúp đỡ của nhân dân là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc”(26). Điều đó có nghĩa là mọi tầng lớp nhân dân có quyền tham gia, giám sát, phản biện tất cả công việc của Đảng và Nhà nước. Muốn vậy, Tổng Bí thư cho rằng, phải “thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, tích cực tham gia các hoạt động giám sát chính quyền, bảo đảm chính quyền thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”(27). Thực tiễn đã chứng minh, ở bất cứ quốc gia - dân tộc nào, nếu đảng cầm quyền biết tôn trọng và phát huy tốt quyền làm chủ của nhân dân, hay nói cách khác là dân chủ được thực thi, thì ở đó, có sự đồng thuận xã hội cao. Đây chính là biểu hiện đầy đủ nhất của sự đoàn kết dân tộc, đoàn kết xã hội.

Chiến sĩ Tiểu đoàn huấn luyện - cơ động, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu xuống đồng giúp đồng bào thu hoạch lúa_Ảnh: TTXVN

Mặt khác, để phát huy và thực hành dân chủ rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng rất coi trọng vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên là nơi phản ánh tiếng nói của mọi tầng lớp nhân dân; có vị trí, vai trò quan trọng trong hoạt động của hệ thống chính trị, nhất là trong mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Chính vì thế, trên một tầm nhìn vĩ mô về quá trình hoàn thiện và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Tổng Bí thư nhấn mạnh yêu cầu: “Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cần phát huy, làm tốt vai trò nòng cốt để nhân dân làm chủ”(28); “phát huy dân chủ và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện thật tốt các chính sách thuận lòng dân; chăm lo xây dựng, đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; nâng cao hiệu quả giám sát, phản biện xã hội, đổi mới mạnh mẽ phương thức tập hợp các tầng lớp nhân dân, xây dựng lực lượng nòng cốt ở các lĩnh vực, địa bàn trọng yếu. Thực hiện tốt quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị và quy chế dân chủ ở cơ sở; nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác dân vận của các cơ quan nhà nước; làm tốt chính sách dân tộc, tôn giáo. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân; khơi dậy lòng yêu nước, động viên mọi nguồn lực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị...”(29).

Có thể nói, quan điểm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn với tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc là sự kế thừa những tinh hoa trong lịch sử tư tưởng của nhân loại về dân chủ, đoàn kết dân tộc, đoàn kết xã hội cũng như vai trò của quần chúng nhân dân đối với sự phát triển xã hội; đồng thời, là sự vận dụng và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về các vấn đề này trong điều kiện xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thực hiện mục tiêu đưa nước ta đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng tiến bước, sánh vai với các cường quốc năm châu, theo tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của toàn dân tộc ta./.

Lời Bác căn dặn: “Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”

 

Ngày 5-4-1948, Bác Hồ viết 12 điều răn yêu cầu mọi người phải nhớ và thực hành khi tiếp xúc với dân. Để cổ động, Bác viết bài thơ: “Mười hai điều trên/ Ai chả làm được/ Hễ người yêu nước/ Nhất quyết không quên/ Tập thành thói quen/ Muôn người như một/ Quân tốt, dân tốt/ Muôn sự đều nên/ Gốc có vững, cây mới bền/ Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.

                   6 điều không nên:

1. Không nên làm điều gì có thể thiệt đến nương vườn, hoa màu, hoặc làm bẩn, làm hư nhà cửa, đồ đạc của dân.

2. Không nên nǎn nỉ quá hoặc mượn cho bằng được những đồ vật người ta không muốn bán hoặc cho mượn.

3. Không nên đưa gà còn sống vào nhà đồng bào miền ngược.

4. Không bao giờ sai lời hứa.

5. Không nên xúc phạm đến tín ngưỡng phong tục của dân.

6. Không nên làm hoặc nói gì có thể làm cho dân hiểu lầm rằng mình xem khinh họ.

6 điều nên làm:

1. Giúp công việc thực tế hàng ngày cho đồng bào (như việc gặt hái, lấy củi, nước, vá may, v.v.).

2. Tùy khả nǎng mà mua giùm những đồ cần dùng cho những người ở xa chợ búa (như dao, muối, kim, chỉ, bút, giấy, v.v.).

3. Nhân những lúc rảnh, kể cho đồng bào nghe những chuyện vui ngắn, giản dị có ích lợi cho tinh thần kháng chiến mà không lộ bí mật.

4. Dạy dân chữ quốc ngữ và những điều vệ sinh thường thức.

5. Nghiên cứu cho hiểu rõ phong tục mọi nơi, trước là để gây cảm tình và sau để dần dần giải thích cho dân bớt mê tín.

6. Làm cho dân nhận thấy mình là người đứng đắn, chǎm công việc, trọng kỷ luật.

(Sách Hồ Chí Minh Toàn tập, xuất bản lần thứ nhất, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985, t.5, tr.77-79).

HAIVAN

Nâng cao chất lượng phong trào thi đua trong công nhân Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh

 TCCS - Trong các phong trào hành động cách mạng của toàn dân tộc, công nhân là giai cấp đi đầu, có nhiều đóng góp quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước ta “ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” theo ước nguyện của Bác Hồ kính yêu. Trong giai đoạn hiện nay, trước yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, giai cấp công nhân cần tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước trong lao động, sản xuất, để giữ vững, ngày càng xứng đáng với vai trò tiên phong của mình.

Bác Hồ với công nhân xe lửa Gia Lâm_Tranh: Tư liệu

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong trào thi đua của công nhân

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền móng cho phong trào thi đua yêu nước ở Việt Nam. Người cho rằng: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua. Và những người thi đua là những người yêu nước nhất(1). Thi đua là thể hiện tình yêu nước một cách thiết thực và tích cực. Thi đua không chỉ phát huy truyền thống yêu nước quý báu của dân tộc, mà còn tạo ra sức mạnh tinh thần vô song để mọi tầng lớp nhân dân, trong đó có giai cấp công nhân, cống hiến tinh thần và sức lực vì sự phát triển của đất nước.

Gắn kết phong trào thi đua với sự trưởng thành về mọi mặt của giai cấp công nhân

Thi đua là đua tài, đua sức giữa các cá nhân, các tập thể trong quá trình lao động, sản xuất, thôi thúc mỗi cá nhân phát huy hết tiềm năng sáng tạo để đạt kết quả cao hơn. Từ thực tiễn các phong trào thi đua đã xuất hiện những tấm gương “người mới”, “việc mới”, “người tốt”, “việc tốt”, những công nhân ưu tú làm rực rỡ thêm vườn hoa thi đua ái quốc của đất nước.

Thi đua lao động, sản xuất là một biểu hiện của tinh thần làm chủ của giai cấp công nhân; “thi đua là một cách rất tốt, rất thiết thực để làm cho mọi người tiến bộ”(2), vì thi đua là môi trường để phát triển con người. Thực tiễn các phong trào thi đua sẽ tạo điều kiện, bồi dưỡng công nhân trở thành những người có lý tưởng, lao động, sản xuất giỏi, có tác phong làm việc chuyên nghiệp. Phong trào thi đua cũng giúp giai cấp công nhân thực hiện vai trò của mình trong việc lãnh đạo xã hội, xứng đáng là giai cấp tiên phong trong công cuộc đổi mới, phát triển đất nước. Như vậy, thi đua là một phương pháp hiệu quả để giáo dục và rèn luyện ý thức chính trị cho giai cấp công nhân.

Giai cấp công nhân giữ vai trò tiên phong trong phong trào thi đua

Dưới ánh sáng soi đường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, từ rất sớm Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam. Trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp công nhân đã chứng tỏ khả năng, bản lĩnh lãnh đạo tiến trình cách mạng Việt Nam; vì vậy, Người nhấn mạnh, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo, đi đầu trong phong trào thi đua yêu nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm, giáo dục, động viên giai cấp công nhân phát huy tính tiên phong trong đấu tranh cách mạng, hăng hái vươn lên đi đầu trong phong trào thi đua lao động, sản xuất và thực hành tiết kiệm. Người chỉ rõ: “Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng, muốn xứng đáng là giai cấp lãnh đạo thì phải gương mẫu trong công tác. Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội, muốn nước nhà mau chóng thống nhất, muốn được tự do sung sướng, mọi người phải khắc phục khó khăn, thi đua tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm”(3); đồng thời, Người đặt ra yêu cầu công nhân phải hăng hái thi đua chế tạo, nâng cao năng suất lao động, thi đua tiết kiệm nguyên, vật liệu, tiết kiệm điện... cho nước nhà.

Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định, trong thời kỳ đất nước vừa dựng xây cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, vừa đấu tranh thống nhất nước nhà, thì nhiệm vụ trước mắt của công nhân là phải lấy xây dựng kinh tế làm mặt trận hàng đầu; muốn vậy, công nhân phải thi đua để phát triển sản xuất, thực hành tiết kiệm, giúp cho nhà máy, xí nghiệp, đất nước đi lên. Biểu hiện rõ nét của thi đua là việc công nhân nỗ lực nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất, tiết kiệm của công, chống lại chủ nghĩa cá nhân dưới mọi hình thức, có tinh thần lao động sáng tạo, có sáng kiến cải tiến kỹ thuật, có phương pháp, phong cách làm việc tiên tiến. Công nhân phải nhận thức rằng, để nêu gương và xứng đáng với sứ mệnh vẻ vang của giai cấp mình, họ phải thường xuyên tự rèn luyện, tự cải tạo mình để giữ vững vai trò tiên phong trong xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở, “muốn lãnh đạo thì phải gương mẫu. Vì vậy cần phải khắc phục khuyết điểm, phát triển ưu điểm sẵn có, hoàn thành nhiệm vụ Đảng và Chính phủ giao cho để xứng đáng là ông chủ, bà chủ, xứng đáng là vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam”(4).

Để thực hiện được vai trò lãnh đạo trong phong trào thi đua, giai cấp công nhân cần đoàn kết với tất cả các đối tượng quần chúng nhân dân khác, như nông dân, trí thức... nhằm đưa thi đua yêu nước trở thành một phong trào rộng lớn trong toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “thi đua phải rộng rãi, phải phổ biến. Có thành tích đột xuất là tốt, nhưng phải kéo tất cả đều thi đua, nếu không thì không có ích lợi mấy”(5). Người định hướng: Giai cấp công nhân phải tổ chức, hướng dẫn các lực lượng xã hội khác thi đua lao động, sản xuất, đồng thời cũng phải học tập kinh nghiệm từ họ. Liên minh công - nông có vai trò quan trọng chiến lược, quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi khối liên minh công nhân và nông dân tích cực thi đua trong lao động, sản xuất; công nhân làm ra máy móc, phân bón... cung cấp cho sản xuất nông nghiệp của nông dân, còn nông dân làm ra lương thực, thực phẩm, bảo đảm nhu cầu sinh hoạt cho công nhân để công nhân yên tâm lao động, sản xuất.

Điều kiện tổ chức phong trào thi đua cho công nhân

Phong trào thi đua muốn đạt hiệu quả thì phải phù hợp với đối tượng và mục đích. Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra nhiều điều kiện tổ chức phong trào thi đua lao động, sản xuất cho công nhân, trong đó phải hướng tới mục tiêu nâng cao cả chất lượng và số lượng. Người cho rằng: “Bất cứ làm gì cũng phải làm mau, nhưng làm mau mà xấu thì không ăn thua gì, vậy phải làm tốt. Nhưng làm tốt mà ít thì không đủ cho nhân dân dùng, vậy phải làm nhiều. Làm nhiều mà đắt, nhân dân không có tiền mua, vậy phải làm rẻ”(6).

Thi đua là để vừa nâng cao năng suất lao động, sản xuất, vừa rèn luyện đức tính cần cù, chăm chỉ và tiết kiệm; vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt thi đua sản xuất gắn liền với tiết kiệm, vì “thi đua sản xuất tốt chưa đủ, tăng gia sản xuất phải đi đôi với tiết kiệm. Nếu không cũng như gió vào nhà trống... Phải tiết kiệm thì giờ, nguyên vật liệu và tiền bạc”(7). Như vậy, tiết kiệm là một biểu hiện của thi đua và cũng là điều kiện cần để phong trào thi đua đi đến thành công. Để tiết kiệm thì công nhân phải hăng hái chống tham ô, lãng phí; do vậy, Người cảnh báo: “Công nhân thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm, nhưng có bọn tham ô lãng phí, nên các cô, các chú tiết kiệm được chừng nào chúng tham ô lãng phí chừng ấy; phải chống tham ô lãng phí cũng như cảnh giác chống địch phá hoại”(8).

Thi đua phải được hiểu theo nghĩa tích cực, theo đó thi đua chính là việc cùng nhau phấn đấu, cố gắng chứ không phải là ganh đua, giấu nghề. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Thi đua có nghĩa là mọi người phát triển tài năng, sáng kiến của mình, học hỏi điều hay lẫn nhau, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm để cùng nhau tiến bộ... Người này thi đua với người khác, tổ này thi đua với tổ khác, nhà máy này thi đua với nhà máy khác”(9). Để thực hiện thi đua tích cực, giúp nhau cùng tiến bộ, công nhân “phải đưa sáng kiến của mình phổ biến cho nhóm, cho xưởng, cho ngành mình cùng theo. Và phải học kinh nghiệm sáng kiến của người khác. Đây là điều kiện cần thiết trong thi đua”(10). Muốn vậy, mọi người phải có tinh thần cầu thị, ham học điều hay, tích cực học hỏi kinh nghiệm từ bạn bè thì thi đua sẽ ngày càng phát huy tác dụng.

Vai trò của tổ chức công đoàn trong phong trào thi đua của công nhân

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nhiệm vụ của Tổng Liên đoàn Lao động là đi sát với toàn thể công nhân, tổ chức và huấn luyện toàn thể công nhân làm cho giai cấp công nhân thành lực lượng vô địch trong sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc”(11). Ngày 18-7-1969, gặp gỡ với đại biểu lãnh đạo Công đoàn Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn cán bộ lãnh đạo công đoàn phải “làm tốt công tác vận động, tổ chức, giáo dục quần chúng công nhân, viên chức làm tròn vai trò tiên phong cách mạng... tự nguyện tự giác giữ kỷ luật lao động..., giữ gìn của công và thực hành tiết kiệm”(12). Những yêu cầu của Người với tổ chức công đoàn cho thấy, Công đoàn Việt Nam phải là chủ thể trong tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát phong trào thi đua cho công nhân.

Bên cạnh vai trò tổ chức, hướng dẫn phong trào thi đua cho công nhân, Công đoàn Việt Nam còn thực hiện nhiệm vụ tổ chức khuyến khích, động viên, giúp đỡ để công nhân nhiệt tình tham gia phong trào. Tại Đại hội Công đoàn toàn quốc lần thứ II năm 1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu: “Phát minh, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật cũng là một vấn đề quan trọng. Phải nhận rằng đại đa số công nhân ta đều cần cù, thông minh và có nhiều sáng kiến hay... Nếu công đoàn biết khuyến khích, áp dụng, cải tiến, và phổ biến rộng rãi những sáng kiến ấy, thì năng suất lao động sẽ nâng cao không ngừng”(13). Để tổ chức công đoàn thực hiện tốt vai trò của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm của đội ngũ cán bộ công đoàn là phải tiên phong, gương mẫu thi đua để công nhân noi theo và muốn nêu gương tốt thì “phải thực hiện bốn cùng với công nhân: cùng ăn, cùng ở, cùng lao động, cùng bàn bạc”(14).

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thăm hỏi đời sống của công nhân lao động các khu công nghiệp tỉnh Bắc Giang_Ảnh: VGP

Thực trạng phong trào thi đua của công nhân Việt Nam hiện nay

Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về phong trào thi đua của công nhân, Công đoàn Việt Nam đã rất quan tâm phát động, tổ chức các phong trào thi đua yêu nước trong công nhân, người lao động với nhiều phong trào hiệu quả, thiết thực, lôi cuốn đông đảo công nhân tham gia. Theo Báo cáo của Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa XI, “Các cấp công đoàn đã cụ thể hóa các phong trào thi đua “Lao động giỏi”, “Lao động sáng tạo”; phong trào thi đua “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”; phong trào “Xanh - Sạch - Đẹp, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động”, phong trào “Văn hóa, thể thao”; động viên, cổ vũ đoàn viên, người lao động đăng ký hoàn thành 77.753 đề tài nghiên cứu khoa học với giá trị làm lợi là 336.777 tỷ đồng; phát huy 1.170.884 sáng kiến với giá trị làm lợi 203.579 tỷ đồng..., góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”(15)

Qua các phong trào thi đua “Lao động giỏi”, “Lao động sáng tạo”, đã xuất hiện nhiều tấm gương sáng trong lao động, sản xuất, cải tiến kỹ thuật, cũng như trong hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ mới. Có nhiều mô hình tốt, nhiều cách làm hay tại các địa phương, các ngành đã xuất hiện, bộc lộ và trở thành điển hình, lan tỏa tới các cấp, các ngành và mọi người lao động. Các phong trào thi đua đó đã góp phần nâng cao cả số lượng và chất lượng sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong sản xuất, kinh doanh.

Để đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, các cấp, các ngành đã có nhiều hình thức tôn vinh, khen thưởng các cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc trong lao động, sản xuất. Những sự ghi nhận đó đã góp phần không nhỏ vào việc nhân rộng các điển hình tiên tiến trong công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Thực tiễn phong trào thi đua trong lao động, sản xuất của công nhân đã chứng tỏ, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, thi đua vẫn rất cần thiết. Đó là động lực để thúc đẩy mỗi người dân nói chung, mỗi công nhân nói riêng biết vượt qua khó khăn, khắc phục những yếu kém, phát huy sở trường, thế mạnh của mình, nêu cao tinh thần trách nhiệm, sáng tạo, đổi mới để đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.

Ngoài những thành tích đã đạt được đáng ghi nhận thì vẫn còn những hạn chế cần khắc phục trong phong trào thi đua của công nhân, cụ thể là: Tại các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế ngoài nhà nước, các phong trào thi đua chưa được triển khai mạnh mẽ, sâu rộng tới mọi đối tượng công nhân, người lao động; việc tìm kiếm, phát hiện các nhân tố mới, các mô hình hay trong lao động, sản xuất chưa được quan tâm thỏa đáng, nên còn để sót nhiều tấm gương lao động, sản xuất giỏi...

Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế trên được xác định là: Một bộ phận công nhân, người lao động chưa chủ động phát huy vai trò của mình trong phong trào thi đua yêu nước. Ngoài ra, hiện nay công nhân đang phải đối mặt với áp lực về thời gian, định mức lao động, trong khi nội dung, hình thức các phong trào thi đua ở nhiều nơi còn đơn điệu, thiếu sức hấp dẫn, chưa phù hợp với đặc thù nghề nghiệp. Vẫn còn có tình trạng cán bộ làm công tác thi đua chưa có kinh nghiệm, thiếu am hiểu về đặc điểm công việc, ngành, nghề... nên chất lượng công tác tham mưu còn hạn chế, dẫn đến kết quả không được như mong đợi.

Một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả phong trào thi đua cho công nhân theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Năm 2022, các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam đã chuyển về  trạng thái “bình thường mới” sau thời gian dài chịu ảnh hưởng của đại dịch COVID-19. Để khắc phục những khó khăn sau đại dịch, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc nâng cao hiệu quả của phong trào thi đua cho công nhân, cấp ủy, chính quyền, tổ chức công đoàn các cấp và bản thân mỗi người công nhân cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:

Một là, nâng cao nhận thức của công nhân về thi đua. Công nhân hiện nay cần được tuyên truyền sâu rộng để nhận thức rõ thi đua là sự đua tài, đua sức giữa các công nhân, giữa các doanh nghiệp trong quá trình lao động, sản xuất. Chính sự thi đua đó đã tạo ra bước đột phá, làm cho năng suất lao động tăng cao hơn so với khi các chủ thể chưa tham gia thi đua. Thi đua không phải là tranh đua, “đấu đá” để tranh giành phần thắng, mà thi đua phải dựa trên nền tảng của sự hợp tác, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ trên mọi mặt. Thi đua chính là sự tự khẳng định mình trước tập thể, thể hiện lòng tự trọng, ý chí vươn lên của mỗi người. Qua phong trào thi đua, mỗi công nhân sẽ có thêm kiến thức, kinh nghiệm để khắc phục những hạn chế và ngày càng hoàn thiện bản thân, đóng góp tốt hơn, nhiều hơn nữa vào kết quả lao động, sản xuất của đơn vị.

Người lao động dầu khí quyết tâm thi đua lao động, sản xuất hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ_Nguồn: PVN

Hai là, chú trọng đổi mới nội dung, hình thức thi đua trong công nhân. Nội dung cần thiết thực, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, như thi đua xây dựng đất nước giàu mạnh; thi đua phát triển kinh tế gắn với bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội; thi đua đi liền với tiết kiệm, chống lãng phí; thi đua trong nghiên cứu khoa học và ứng dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật hiện đại vào phát triển sản xuất... Trong phương pháp thi đua, các chủ thể cần quán triệt bài học của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “dựa vào lực lượng của dân(16). Hình thức thi đua phải phong phú, đa dạng, khơi dậy được sức dân. Điểm cốt lõi là phải coi trọng việc phát huy sáng kiến, tổng kết kinh nghiệm. Một mặt, thi đua mà không có tổng kết thì không có hiệu quả, vì khi tổng kết sẽ vinh danh được những cá nhân, tập thể tiêu biểu để nhân rộng cho công nhân cả nước biết tới và học tập; mặt khác, qua tổng kết còn rút ra được những sáng kiến, bài học kinh nghiệm quý để lưu truyền, trao đổi và phổ biến rộng rãi.

Ba là, hoàn thiện công tác thi đua, khen thưởng. Thi đua luôn gắn liền với việc biểu dương, khen thưởng, vì hình thức động viên, khuyến khích này luôn tạo nguồn động lực tinh thần to lớn để công nhân ngày càng tích cực tham gia các phong trào thi đua. Trong công tác khen thưởng, cần xác định rõ các tiêu chí đánh giá cho phù hợp với từng đối tượng công nhân; việc biểu dương, khen thưởng cần kịp thời, tránh hình thức hoặc tình trạng chậm trễ gây tâm lý ức chế cho người được khen thưởng. Hiện nay, tổ chức công đoàn có rất nhiều giải thưởng, như giải thưởng Nguyễn Đức Cảnh, Tôn Đức Thắng, Nguyễn Đức Thuận... đã phát huy tốt tác dụng; thời gian tới, để tạo thêm động lực cho phong trào thi đua, cũng cần nâng cao giá trị vật chất cho các giải thưởng cao quý đó nhằm thiết thực động viên phong trào, cổ vũ tinh thần hăng hái thi đua của công nhân./.

-----------------------