Thứ Năm, 6 tháng 4, 2023

 

ĐẤU TRANH TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

TRONG THỜI ĐẠI CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0

 

Thế giới đang bước vào cách mạng Công nghiệp 4.0, cung cấp một cách tiếp cận toàn diện thông qua mạng Internet trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thời đại này đã tạo ra những giá trị chưa từng có, những mâu thuẫn hoàn toàn mới, trong đó đấu tranh chính trị tư tưởng trên không gian mạng đang trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết.

Các thế lực phản động triệt để lợi dụng khả năng kết nối Internet và sức lan tỏa của các trang mạng xã hội để đăng tải thông tin xấu độc, bịa đặt, làm lẫn lộn thật - giả nhằm định hướng dư luận bằng luận điệu sai trái, thù địch; bôi nhọ, xuyên tạc chế độ. Đây là một mặt trận mới nhưng không kém phần căng thẳng, quyết liệt trên trận tuyến chống “Diễn biến hòa bình” của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta.

Thủ đoạn chủ yếu kẻ thù là thông qua 2 trang mạng xã hội chính ở nước ta là Facebook và Youtube để đăng tải, chia sẻ những tin, bài, những hình ảnh trên các báo chí chính thống của ta ở trong nước, sau đó cắt xén, chỉnh sửa thành những nội dung bịa đặt hoặc định hướng sai lệch để đăng tải. Điều này tạo cảm giác nửa tin, nửa ngờ gây hoang mang trong dư luận xã hội. Bên cạnh đó, các đối tượng sử dụng trang Blog để nói xấu, chống phá Đảng, Nhà nước, thông qua mạng xã hội, các bài viết đó được chia sẻ rộng rãi, có khả năng tạo sức lan tỏa lớn.

Để góp phần đấu tranh phòng, chống quan điểm sai trái trên không gian mạng các cơ quan, đơn vị cần tiến hành đồng bộ một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, nâng cao nhận thức, năng lực, trách nhiệm các tổ chức, cá nhân, đặc biệt là các cơ quan chức năng, chuyên trách trong đấu tranh phòng, chống quan điểm sai trái trên không gian mạng;

Hai là, đổi mới, nâng cao chất lượng nội dung, hình thức thông tin chính thống, đảm bảo tính chính xác, phong phú, phổ cập, dễ dàng phổ biến, truyền tải, tuyên truyền đến với đông đảo người đọc, người xem.

Ba là, xây dựng văn hóa đọc cộng đồng, nâng cao bản lĩnh chính trị toàn dân, có khả năng sàng lọc trước thông tin nhạy cảm, ở những thời điểm diễn ra các sự kiện mà các thế lực thù địch có thể lợi dụng để xuyên tạc, chống phá.

Bốn là, thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ luật “An ninh mạng”, vận dụng có hiệu quả các giải pháp công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm nước ngoài, xử lý nghiêm các vi phạm trên không gian mạng.

Trong thời đại công nghiệp 4.0, không gian mạng sẽ đã và đang có những ảnh hưởng sâu rộng đối với đời sống chúng ta. Đấu tranh trên không gian mạng là một “mặt trận” quan trọng, cần có sự vào cuộc quyết liệt của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa./.

ST

Tiếp tục củng cố niềm tin để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Nhìn lại chặng đường lịch sử vẻ vang của cách mạng Việt Nam trong gần 75 năm qua, từ khi có cách mạng tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, chúng ta chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử gắn với vận mệnh của dân tộc, trong đó vinh dự và tự hào khi một đất nước xuất phát điểm thấp, nền kinh tế lạc hậu kéo dài, hậu quả do chiến tranh để lại nặng nề nhưng với đường lối “Đổi mới”, cách mạng Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với sự phát triển đó, niềm tin của nhân dân với sự lãnh đạo của Đảng ngày càng được củng cố. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chiến đấu bảo vệ biên giới, thực hiện nhiệm vụ quốc tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tình đoàn kết của nhân dân ta, sự ủng hộ của bạn bè tiến bộ vì hòa bình khu vực, thế giới. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã giành được chiến công làm nên thắng lợi Điện Biên Phủ, buộc thực dân Pháp ký Hiệp định Giơnevơ (năm 1954) về lập lại hòa bình ở Đông Dương, buộc Mỹ ký Hiệp định Paris (năm 1973) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, sau đó là bảo vệ biên giới của Tổ quốc. Trải qua gần 75 năm (từ ngày 02/9/1945), nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng có lúc Đảng ta vấp phải những tồn tại nhất định khi lãnh đạo, xây dựng Nhà nước Pháp quyền mới chưa có tiền lệ trong lịch sử thế giới. Nhưng với mục tiêu nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đảng, Nhà nước ta đã khắc phục những tồn tại, khuyết điểm trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, sau gần 35 năm “Đổi mới” (từ năm 1986) và gần 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (từ năm 1991), nhất là vào những năm 90 Thế kỷ trước, khi Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ (năm 1991), tưởng chừng sẽ kéo theo sự sụp đổ của Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nhưng với sự nỗ lực không ngừng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng tự hào, đã vượt qua tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định, An ninh – Quốc phòng được giữ vững, nước ta bước vào nhóm nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, hiện nay đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế gắn với cách mạng 4.0. Diện mạo đất nước và đời sống nhân dân có nhiều thay đổi, quan hệ đối ngoại, vai trò, vị thế trên trường quốc tế được nâng lên, chưa bao giờ hình ảnh, uy tín của Việt Nam được vun đắp, quảng bá hơn ngày hôm nay. Có được những thành tựu trên, là do Đảng ta có đường lối “Đổi mới” đúng đắn, Chính phủ kiến tạo, phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, được đồng bào, kiều bào ta và bạn bè quốc tế đồng tình ủng hộ; đó cũng là sự kế thừa và phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế trong từng giai đoạn lịch sử cách mạng Việt Nam.

Tăng cường công tác phòng chống tham nhũng.

Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng trên tất cả các lĩnh vực, cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quân sự, ngoại giao... Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Trong đó, công tác phòng, chống tham nhũng đóng vai trò hết sức quan trọng, được coi là cuộc “tự cách mạng” triệt để, góp phần làm trong sạch nội bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng được phát hiện, xử lý nghiêm minh, bảo đảm không có vùng cấm, qua đó đã tạo sức răn đe, cảnh tỉnh, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đánh giá cao, đồng tình ủng hộ. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng và hệ thống chính trị từng bước được kiềm chế, ngăn chặn. Đặc biệt, là Trưởng ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, với quyết tâm chính trị rất cao và mẫu mực nêu gương, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo quyết liệt, kiên trì, đồng bộ, bài bản, đi vào chiều sâu, có bước đột phá, gắn phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị. Qua đó, tạo được sự thống nhất cao trong hệ thống chính trị và nhân dân với tinh thần “tiền hô hậu ủng, nhất hô bá ứng, trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc; không chấp nhận những cán bộ, đảng viên ngả nghiêng, dao động. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực vẫn còn những mặt hạn chế cần phải thẳng thắn nhìn nhận và quyết tâm khắc phục bằng được để ngăn chặn hiệu quả cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức suy thoái, biến chất, vi phạm pháp luật và đạo đức, làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ, đồng thời là cái cớ để các thế lực phản động, thù địch lợi dụng chống phá nhằm thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ ta. Việc vô cùng quan trọng là phải tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, có kiến thức, năng lực toàn diện, đặc biệt là có đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không tham vọng quyền lực và tham nhũng, cơ hội, cửa quyền, tư duy nhiệm kỳ. Chú trọng kiểm tra, giám sát cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và cán bộ quy hoạch vào vị trí lãnh đạo, quản lý; cán bộ, công chức, viên chức có biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, nhiều đơn thư phản ánh, tố cáo. Phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các vụ việc, vụ án tham nhũng; ngăn chặn có hiệu quả các hành vi nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp. Công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán phải được tiến hành thường xuyên, toàn diện, công khai, có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng, những vấn đề nổi cộm gây bức xúc trong xã hội. Kịp thời phát hiện, giải quyết từ sớm, ngăn chặn từ đầu, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn. Cuối cùng, như người xưa đã đúc rút: "Có thực mới vực được đạo", chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách chính sách tiền lương, nâng cao thu nhập và có chính sách nhà ở, bảo đảm cuộc sống để cán bộ, công chức, viên chức yên tâm công tác, có ý thức tự giác “không cần tham nhũng”.

Bảo vệ những giá trị cơ bản của chủ nghĩa Lênin

Lênin đã nâng tầm cao uy tín, vị thế, giá trị và ý nghĩa lý luận-thực tiễn của chủ nghĩa Mác; nêu tấm gương mẫu mực về sự trung thành, đổi mới sáng tạo trong kế thừa, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-hệ tư tưởng của giai cấp vô sản trong điều kiện lịch sử mới.Vì vậy, bảo vệ những giá trị cơ bản của chủ nghĩa Lênin cũng là bảo vệ những giá trị, nền tảng căn cốt của chủ nghĩa Mác. Lênin vận dụng trung thành, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Giống như C.Mác và Ph.Ăng-ghen trong thế kỷ 19, V.I.Lênin xuất hiện trong thế kỷ 20 với tư cách là một nhà bác học vĩ đại nhất trong cách mạng và thực hiện cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong khoa học; là một trong những người có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong thế kỷ 20. Chủ nghĩa Lênin trở thành cấu phần rất quan trọng trong nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam và là kim chỉ nam cho hành động của các đảng cộng sản trên thế giới. Lênin là người kế tục trung thành, bảo vệ và phát triển sáng tạo các học thuyết khoa học, cách mạng của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, đã lãnh đạo Đảng Cộng sản Bolshevik và nhân dân Nga làm cuộc cách mạng long trời lở đất, xóa bỏ chế độ áp bức, bóc lột người; giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, mở ra thời đại mới-thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) và cách mạng vô sản (CMVS) trên phạm vi toàn thế giới. Với việc bảo vệ và phát triển sáng tạo cả 3 bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác trước sự tấn công từ nhiều phía của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị, Lênin đã bổ sung, phát triển toàn diện, đồng bộ cả 3 bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác: Triết học, Kinh tế học chính trị và Chủ nghĩa xã hội khoa học với hệ thống luận điểm mới, sáng tạo; nâng tầm cao thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của cuộc CMVS trong giai đoạn CNTB độc quyền chuyển thành chủ nghĩa đế quốc-đêm trước của CMVS. Sự cống hiến vĩ đại của Lênin đã làm cho chủ nghĩa Mác sống động hơn, trở thành hệ thống lý luận hoàn bị nhất, chắc chắn nhất, trở thành “công cụ nhận thức vĩ đại” để giai cấp công nhân nhận thức và cải tạo thế giới. Với ý nghĩa đó, chủ nghĩa Lênin được coi là sản phẩm phát triển chín muồi của chủ nghĩa Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, là sự hội tụ, kết tinh, liên tục đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững hệ tư tưởng vô sản, khẳng định sự tất thắng của mục tiêu, con đường đi tới CNXH của giai cấp công nhân và nhân loại tiến bộ trong thời đại cách mạng XHCN. Lênin đã nâng tầm cao uy tín, vị thế, giá trị và ý nghĩa lý luận-thực tiễn của chủ nghĩa Mác; nêu tấm gương mẫu mực về sự trung thành, đổi mới sáng tạo trong kế thừa, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-hệ tư tưởng của giai cấp vô sản trong điều kiện lịch sử mới. Lênin coi chủ nghĩa Mác là một hệ thống mở, bởi ông cho rằng lý luận của C.Mác mới chỉ đặt nền móng cho một bộ môn khoa học mà những người cộng sản cần phải phát triển hơn nữa, nếu không muốn trở thành lạc hậu và bị cuộc sống đào thải. Sự thống nhất biện chứng về quan điểm, lập trường thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng giữa chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Lênin đã gắn chặt tên tuổi, cuộc đời, sự nghiệp của các ông với giai cấp công nhân, với hệ tư tưởng của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, bất công; xây dựng chế độ xã hội mới tốt đẹp-xã hội XHCN. Vì lẽ đó, chủ nghĩa Lênin được coi là chủ nghĩa Mác trong thời đại mới-thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH và CMVS trên phạm vi toàn thế giới. Chủ nghĩa Mác đã được tiếp nối bằng sức sống đầy sinh khí của chủ nghĩa Lênin trên cơ sở thống nhất biện chứng giữa lập trường, quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản (CNCS). Vì vậy, chủ nghĩa Lênin chính thức trở thành chủ nghĩa Mác-Lênin - nguồn năng lượng dồi dào, động lực mới tạo nên sức mạnh vô địch và là cấu phần rất quan trọng trong nền tảng tư tưởng của các đảng cộng sản. Trong chiều sâu của sợi dây chuyền ấy, người có công kết nối, xây dựng, tạo nên tượng đài dân tộc Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh trong lòng nhân dân thế giới là Nguyễn Tất Thành-Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh. Với linh hồn sống động của chủ nghĩa Mác là phép biện chứng duy vật và giá trị nhân văn sâu sắc, Lênin đã giải quyết thỏa đáng mối quan hệ biện chứng giữa trung thành và sáng tạo, bảo vệ và phát triển, lý luận và thực tiễn, đưa chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của các đảng cộng sản. Quan điểm của Lênin về cách mạng XHCN có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, vạch ra con đường đi tới với triển vọng thắng lợi của CMVS ở một số nước, thậm chí ở một nước, đồng thời nhấn mạnh vai trò chủ động, tích cực sáng tạo của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh chống mọi loại kẻ thù. Để cách mạng thắng lợi hoàn toàn, Lênin yêu cầu phải bảo đảm quyền lãnh đạo tuyệt đối của giai cấp công nhân, đứng đầu là bộ tham mưu chiến đấu có tổ chức và là tổ chức cao nhất là Đảng Cộng sản. Cùng với đó, phải xây dựng khối liên minh công nông và khối đại đoàn kết giữa các dân tộc vững chắc; kiên quyết thực hiện chuyên chính vô sản; ra sức đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội; làm cho CNXH ngày càng nhiều hơn, dân chủ nhiều hơn. Chìa khóa để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng XHCN là sự giác ngộ và làm chủ vận mệnh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đặc biệt là việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của Đảng và sử dụng hiệu quả tầng lớp trí thức XHCN. Kiên định, kiên quyết bảo vệ những giá trị khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin Lý luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác cũng như lý tưởng và sức sống mãnh liệt của Cách mạng Tháng Mười Nga là những giá trị vĩnh hằng, có sức sống trường tồn cùng nhân loại bởi “cái ngày vĩ đại ấy càng cách xa chúng ta thì ý nghĩa của cuộc CMVS Nga càng trở nên rõ rệt, chúng ta cũng càng suy nghĩ sâu về toàn bộ kinh nghiệm thực tiễn của công tác của chúng ta”(1), thấy rõ hơn giá trị và ý nghĩa hiện thực của Cách mạng Tháng Mười Nga; đặc biệt là những cống hiến vĩ đại của Lênin đối với việc khai mở con đường thực hiện tiến bộ xã hội, đưa các dân tộc thuộc địa thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, trở thành chủ nhân xây dựng cuộc sống mới, sống trong hòa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc. Chúng ta nhận thức sâu sắc rằng, phát triển không phải là một đường thẳng mà có lúc sẽ diễn ra quanh co, phức tạp. Sự ra đời, tồn tại, phát triển và sụp đổ của các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô trong thập kỷ 90 của thế kỷ 20 phần nào đã nói lên sự “dích dắc” đó. Song, không vì thế mà tiến trình lịch sử bị đảo lộn, bị “ngưng đọng”, “thụt lùi”. Theo quy luật tiến hóa của loài người, lịch sử vẫn tiếp tục vận động và phát triển. Những tổn thất từ sự sụp đổ của một số nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô là đáng tiếc nhưng nó chỉ có thể làm chậm bước tiến của nhân loại trên con đường đi lên CNXH. Song, nó cũng nói lên rằng, các thế lực thù địch không thể và không bao giờ xóa bỏ được lý tưởng Cách mạng Tháng Mười Nga cũng như mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH mà Đảng, Bác Hồ và dân tộc ta đã lựa chọn. Điều này đã được Đảng ta khẳng định: “Lịch sử đang trải qua những bước quanh co, phức tạp, song “loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH, vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”(2). Vì vậy, khi nói về ý nghĩa thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Đó là thắng lợi của lý tưởng cộng sản, của Cách mạng Tháng Mười Nga, thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã chỉ ra một chân lý không thể nào bác bỏ, đó là bất cứ một xã hội nào đã tỏ ra lỗi thời, đi ngược lại lợi ích của nhân dân, của dân tộc, cản trở tiến bộ xã hội thì tất yếu sẽ bị thay thế bởi một chế độ xã hội khác cao hơn, tiến bộ hơn; đó là xã hội XHCN-giai đoạn đầu của CNCS. Con đường xóa bỏ sự lạc hậu, lỗi thời, tệ nạn người áp bức, bót lột người là đi theo tấm gương Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Sự sụp đổ của chế độ XHCN theo mô hình Xô viết ở Liên Xô và các nước Đông Âu đem lại cho chúng ta nhiều bài học sâu sắc, cần suy ngẫm, rút kinh nghiệm để chỉ đạo sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay: Bất luận trong điều kiện, hoàn cảnh nào, người cộng sản đều phải kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý tưởng Cách mạng Tháng Mười Nga, con đường cách mạng vô sản, luôn độc lập, tự chủ, năng động, sáng tạo, thường xuyên đổi mới, tỉnh táo đi lên CNXH. Trong đó, đổi mới nhận thức, bổ sung, phát triển lý luận về đường lối đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc phù hợp với thời cuộc hiện nay có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Học tập, tin theo Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta cần đổi mới nhận thức, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam. Làm tốt điều này là thiết thực bảo vệ và góp phần tăng thêm sức sống cho chủ nghĩa Mác-Lênin - nền tảng tư tưởng của Đảng trong điều kiện lịch sử mới. Có thể nói rằng, lý luận về đường lối đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo là một sáng tạo trong vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Không thể vì sự sụp đổ của chế độ XHCN theo mô hình Xô viết ở Liên Xô và Đông Âu mà ai đó đã vội quy kết, coi nó là “sự phá sản”, “sự sụp đổ” của chủ nghĩa Mác-Lênin, của lý luận về CNXH khoa học hay sự thất bại của lý tưởng Cách mạng Tháng Mười Nga. Đó chỉ là sự ngộ nhận và là quan điểm hoàn toàn sai trái, cần loại bỏ. Trái lại, những gì đã diễn ra ở Liên Xô và các nước Đông Âu những năm 90 của thế kỷ 20 là minh chứng khẳng định rằng, trong tình hình hiện nay, bất cứ đảng cộng sản nào và bất cứ ai, nếu coi thường chủ nghĩa Mác-Lênin, đi ngược lại lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga, thì tất yếu sẽ mắc phải sai lầm về chính trị, và mọi sai lầm đều phải trả giá đắt: Đảng Cộng sản mất vai trò lãnh đạo; chế độ XHCN sụp đổ, xã hội sẽ rơi vào rối loạn, nhân dân sẽ đau khổ, lầm than. Đó là kết cục đáng tiếc về sự sai lầm, khinh thường chủ nghĩa Mác-Lênin. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới ra đời cho đến nay, đặc biệt từ Đại hội VII (1991), Đảng đã khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Do vậy, kiên trì, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có tính nguyên tắc số một đối với Đảng ta, vì điều căn cốt này liên quan trực tiếp đến sinh mệnh của Đảng, sự tồn vong của chế độ ta. Một trong những yêu cầu, giải pháp hàng đầu để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu phấn đấu mà Đại hội XIII của Đảng vạch ra là bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới, đặc biệt là nghiên cứu, khai thác những giá trị quý báu của chủ nghĩa Mác-Lênin, toàn bộ di sản mà Người để lại cho nhân loại, đặc biệt là lý luận về xây dựng đảng mác xít kiểu mới, về chính sách kinh tế mới (NEP), về chiến tranh và hòa bình... Qua đó, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn chủ nghĩa Lênin-ngọn nguồn bí mật đã đưa lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác, trở thành người cộng sản đầu tiên của Việt Nam và Người đã mở ra con đường mới cho cách mạng Việt Nam-con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.

Nhận thức đúng về phòng, chống tham nhũng

Tham nhũng là một thuộc tính trong xã hội có giai cấp. Chống tham nhũng, vì thế, là cuộc đấu tranh lâu dài, cam go và vô cùng phức tạp. Ở nước ta, tham nhũng được xác định là một trong những nguy cơ hàng đầu đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ. Chính vì vậy, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là cuộc đấu tranh của toàn Đảng, toàn dân. Mục tiêu của cuộc đấu tranh lâu dài, cam go, phức tạp này là vì nhân dân. Chấn chỉnh nhận thức lệch lạc, suy diễn tiêu cực. Trên không gian mạng, những đối tượng có tư tưởng thù địch, chống đối đã suy diễn rằng, cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay thực chất là “cuộc thanh trừng nội bộ”, là “các phe phái trong Đảng đấu đá lẫn nhau”... Những cụm từ như “bê bối”, “đụng đến đâu sai đến đó”, “tham nhũng cả hệ thống”, “càng chống, tham nhũng càng nhiều”... được họ sử dụng để chứng minh cho kiểu suy diễn sai lệch, tiêu cực nói trên.Một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức... nảy sinh tư tưởng làm việc cầm chừng, sợ sai, sợ trách nhiệm, không dám đột phá, sáng tạo... Những biểu hiện tư tưởng, luồng thông tin tiêu cực ấy ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường văn hóa, trận địa tư tưởng chính trị trong Đảng, nhất là tổ chức đảng các cấp ở những bộ, ngành, địa phương... có cán bộ chủ chốt tham nhũng, tiêu cực vừa bị bắt tạm giam. Những dao động, xáo trộn về tâm lý, tình cảm... trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức của hệ thống ấy là trạng thái tâm lý bình thường. Tuy nhiên, nếu để nó diễn biến theo chiều hướng cực đoan, tiêu cực, làm nảy sinh tư tưởng chán nản, bi quan, thậm chí là bất mãn, có những phát ngôn thiếu tinh thần xây dựng, để các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước... thì đó là điều không thể chấp nhận. Trong cán bộ, đảng viên và hệ thống chính trị, những biểu hiện đó cũng chính là mầm mống của suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm những điều đảng viên không được làm, cần được chấn chỉnh, khắc phục kịp thời. Tính nhân đạo, nhân văn của đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực Nguyên nhân của lối suy diễn tiêu cực nêu trên trước hết là do nhận thức của một số cá nhân chưa đúng, bị tác động bởi những luận điệu sai trái do các thế lực thù địch và phần tử phản động rêu rao, xuyên tạc. Những biểu hiện này không phải đến bây giờ mới diễn ra mà nó tồn tại âm ỉ, là một mặt trái của đời sống xã hội, khi có tình huống tác động lại bùng lên cục bộ.Chống tham nhũng là cuộc đấu tranh lâu dài, cam go, phức tạp. Trong xã hội có giai cấp, không một quốc gia, dân tộc nào có thể triệt tiêu hoàn toàn tham nhũng. Vai trò của đảng cầm quyền và hiệu lực, hiệu quả của hệ thống pháp luật chỉ có thể ngăn chặn, xử lý, hạn chế đến mức thấp nhất các hành vi tham nhũng. Hiện nay ở nước ta, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng chính là để làm trong sạch bộ máy, để hệ thống chính trị phục vụ ngày một tốt hơn quyền và lợi ích của nhân dân. Chính vì vậy, việc điều tra, xử lý các tổ chức, cá nhân có hành vi tham nhũng không có mục đích nào khác ngoài việc để cán bộ, đảng viên và cả hệ thống chính trị xứng đáng hơn với niềm tin và sự phó thác của nhân dân. Như vậy, để Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh thì việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong Đảng và hệ thống chính trị phải làm thường xuyên, kiên trì, kiên quyết. Là cán bộ, đảng viên, chúng ta không vui sướng, hả hê khi đồng chí, đồng đội mình suy thoái, biến chất, nhưng cũng không thể thờ ơ, bàng quan, vô cảm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; càng không thể chỉ thấy hiện tượng mà quên bản chất, dẫn đến nảy sinh tư tưởng sợ sai, sợ trách nhiệm... Để thúc đẩy phát triển, phải gắn chặt giữa đoàn kết và đấu tranh, giữa xây và chống với tinh thần lấy xây để chống. Trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, khi Đảng, Nhà nước ta ngày càng siết chặt kỷ luật, kỷ cương, những thành phần “sâu mọt” trong nội bộ tổ chức đảng và hệ thống chính trị sẽ tiếp tục được lôi ra ánh sáng công lý. Với nhận thức, bản lĩnh của cán bộ, đảng viên, chúng ta phải đi sâu vào bản chất, đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc, quyền lợi của nhân dân lên trên hết để thấy rõ tính nhân đạo, nhân văn của Đảng. Những luận điệu cho rằng, Đảng, Nhà nước “thanh trừng nội bộ”, “tranh giành quyền lực”, “đấu đá phe cánh”... thực chất là những luận điệu phản động, hại dân, hại nước. Cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức trong hệ thống chính trị cần nêu cao bản lĩnh, nhận thức thấu đáo bản chất vấn đề để củng cố trận địa tư tưởng chính trị, trau dồi phẩm chất đạo đức, xây dựng và tăng cường lòng tin trong nhân dân đối với công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đấu tranh phòng, chống tham nhũng.

Không thể phủ nhận tính đảng trong nền báo chí cách mạng

Tính đảng trong thông tin báo chí là hiển nhiên Trong giao tiếp hằng ngày, khi chúng ta nghe lại câu chuyện từ ai đó, thì người kể câu chuyện đều có thái độ rõ ràng, khen hay chê, đồng tình hay phản đối, cho dù thái độ ấy có thể không bộc lộ trực tiếp, nhưng các chi tiết câu chuyện thì bộc lộ rõ ràng chủ định của người kể. Nhà văn sáng tạo tác phẩm cũng vậy, hình tượng nhân vật cùng hệ thống chi tiết trong tác phẩm biểu hiện thái độ, quan điểm của tác giả. Nhưng trong văn học lại có chuyện, khi nhân vật-hình tượng nghệ thuật đã “trưởng thành” thì có thể tự “phát tác” mà nhà văn khó "quản trị" được. Còn trong sáng tạo tác phẩm báo chí, toàn bộ chi tiết, số liệu, nhân vật, kể cả ngôn từ, giọng điệu... đều được nhà báo “quản trị” chặt chẽ. Cái đó người ta gọi là tính khuynh hướng. Tính khuynh hướng hình thành một cách tự nhiên trong phản ánh cuộc sống, trong thông tin thực tế về những gì đã và đang diễn ra. Trong báo chí, phản ánh thực tế bao giờ cũng có những thuộc tính vốn có của nó. Đó là, phản ánh cái khách quan và phản ánh luôn mang tính mục đích, vì lợi ích nào đó; và tất nhiên là người phản ánh, đưa ra thông tin không thể làm hại đến lợi ích của bản thân mình. Phản ánh do đó có tính chọn lọc. Việc chọn lọc này vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật và thể hiện năng lực của chủ thể sáng tạo, tức là “gói được” bức tranh hiện thực trong phạm vi phản ánh và làm nổi bật bản chất sự kiện, vấn đề thông tin. Những thuộc tính vốn có này, xét cho cùng, cũng trả lời câu hỏi: Phản ánh, thông tin để làm gì, vì lợi ích của ai? Vậy nên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn các nhà báo, khi cầm bút, phải tự trả lời được mấy câu hỏi: Viết cái gì? Viết cho ai? Viết để làm gì? Và cuối cùng mới viết như thế nào? Đây là những câu hỏi nằm lòng mà các nhà báo luôn ghi nhớ, bất kỳ anh ta làm việc ở cơ quan báo chí nào. Bản chất hoạt động báo chí là hoạt động truyền thông đại chúng, hướng tới và phục vụ đông đảo công chúng, xã hội và vì lợi ích cộng đồng. Mỗi cộng đồng, xã hội đều do một giai cấp, một chính đảng thống trị/cầm quyền/lãnh đạo; sự vận động, phát triển xã hội ấy chịu sự chi phối quan điểm, chính sách của đảng cầm quyền. Chẳng hạn ở Hoa Kỳ, quan điểm/chính sách thời ông D.Trump làm tổng thống khác với thời ông J.Biden làm tổng thống, thậm chí có chính sách bài trừ nhau, mặc dù đều là do giai cấp tư sản thống trị. Báo chí Hoa Kỳ, về cơ bản thông tin theo định hướng chính sách của đảng cầm quyền thông qua quyết sách của tổng thống. Như vậy, báo chí ý thức tự giác được quá trình thông tin đứng trên lập trường của đảng phái nào, thông tin vì lợi ích giai cấp nào, cái đó người ta gọi là tính giai cấp của báo chí. Khi báo chí nhận thức được rằng, thông tin phục vụ lợi ích của đội tiền phong và đại biểu lợi ích trung thành của giai cấp, của chính đảng-đó gọi là tính đảng. Như vậy, tính đảng là sự biểu hiện tập trung nhất, đậm đặc nhất, tinh túy nhất của tính giai cấp. Đó là nhìn từ phương diện tư tưởng-chính trị. Còn về lợi ích dân sinh, cần phải xem, lợi ích đó có đáp ứng nhu cầu lợi ích cơ bản, cấp bách của đông đảo nhân dân hay không. Vậy nên, dòng thông tin báo chí thể hiện sâu sắc tính đảng, nếu gắn chặt với tính nhân dân, tính dân tộc, thì báo chí sẽ quy tụ và thể hiện được sức mạnh thực tế. Lợi ích căn bản và cấp bách của nhóm xã hội lớn, được báo chí ủng hộ và bảo vệ, đồng thời báo chí sẽ khơi nguồn, hình thành dư luận xã hội. Báo chí cách mạng Việt Nam thể hiện tính đảng, tính nhân dân sâu sắc Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, của toàn thể nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Đảng là lực lượng cầm quyền, lãnh đạo toàn dân xây dựng, phát triển đất nước theo cương lĩnh, đường lối và chính sách được hoạch định. Do đó, báo chí thông tin, tuyên truyền cho toàn dân hiểu và thực hiện, để biến quan điểm, chính sách ấy thành hiện thực cuộc sống; đồng thời, báo chí đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng vì nó làm phương hại đến lợi ích của Đảng, Nhà nước và lợi ích của nhân dân, đất nước. Trên cơ sở nền tảng lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam công khai thừa nhận tính đảng trong báo chí và đã thiết lập các quan điểm nền tảng cho báo chí hoạt động; đồng thời thiết kế một nền báo chí cách mạng mà cơ quan báo chí là cơ quan ngôn luận của tổ chức trong hệ thống chính trị. Đó là quan điểm nhất quán và là nền tảng, sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tiến trình phát triển của báo chí cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay. Báo chí cách mạng Việt Nam là một nền báo chí thể hiện rõ tính đảng, đồng thời mang đậm tính nhân dân, vì Đảng lấy lợi ích nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, phục vụ nhân dân, vì sự phát triển của dân tộc. Đó cũng là nền báo chí thấm đẫm tính nhân văn, vì quyền và lợi ích chính đáng của công dân, vì sự phát triển con người. Đó cũng là nền báo chí thể hiện đạo đức cao cả, vì hệ giá trị dân tộc và chuẩn mực đạo đức cộng đồng, vì lợi ích công. Với nhận thức như thế, làm sao có thể phủ nhận tính đảng của báo chí? Mặc dù không ít quan điểm từ phương Tây cho rằng, báo chí của họ đứng ngoài chính trị, đứng trên giai cấp và không can thiệp vào cuộc đấu tranh tư tưởng, nhưng thực tế thì ngược lại. Thậm chí ở Hoa Kỳ, cơ quan báo chí hay hãng truyền thông nào “thân cận” với đảng phái nào thì định hướng thông tin theo và phục vụ lợi ích chính trị của đảng ấy. Trong cuốn “Một nền báo chí không có tự do của chúng ta-100 năm phê bình truyền thông”, các tác giả đã đấu tranh, chỉ trích nhau và từ đó bộc lộ rõ thêm bản chất nền báo chí Hoa Kỳ. Trong thực tế, rất dễ nhận biết, báo chí Hoa Kỳ và báo chí phương Tây nói chung, khuynh hướng chính trị rất rõ ràng, phục vụ đường lối chính trị của giai cấp thống trị rất quyết liệt. Cần tiếp tục nêu cao tính đảng trong thông tin báo chí Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta đã xác định, phát triển kinh tế-xã hội là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Trong xây dựng Đảng, vấn đề căn cốt là tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của Nhà nước, chống lạm dụng quyền lực, bởi lạm dụng quyền lực thì sẽ tha hóa quyền lực và dẫn đến tha hóa chế độ xã hội. Vậy nên, nêu cao tính đảng của báo chí trước hết là trách nhiệm chính trị của các tổ chức đảng, chính quyền các cấp. Tất cả bộ máy trong hệ thống chính trị không được ngăn cản báo chí thực hiện vai trò giám sát xã hội, trong thực hiện chính sách công, trong thực thi công vụ và trong đấu tranh chống lợi ích nhóm dưới mọi hình thức. Mọi biểu hiện coi nhẹ, buông lỏng hoặc ngăn chặn vấn đề này, đều là suy giảm tính đảng của báo chí cách mạng. Mặt khác, đội ngũ nhà báo cách mạng, trước hết là người đứng đầu cơ quan báo chí, cần không ngừng học hỏi nâng cao trình độ và giác ngộ chính trị, cập nhật kiến thức và kỹ năng làm nghề, kỹ năng quản trị cơ quan báo chí trong tình hình mới. Cùng với đó, cần quan tâm đào tạo, phát triển và có chính sách thích đáng cho đội ngũ nhà báo chính luận, để họ đủ năng lực và chuyên tâm viết những tác phẩm phân tích, bình luận, đánh giá các sự kiện và vấn đề thời sự trên các lĩnh vực đời sống kinh tế-xã hội. Thực tế cho thấy, luồng báo chí thông tin sự kiện trên báo chí chúng ta cập nhật khá tốt, nhưng luồng những tác phẩm phân tích, bình luận, đánh giá các sự kiện và vấn đề thời sự góp phần đấu tranh tư tưởng, hướng dẫn dư luận xã hội cần phải nhanh nhạy, sắc bén, kịp thời, thuyết phục hơn nữa. Khi có chính sách phù hợp, chúng ta sẽ có được đội ngũ nhà báo chính luận ngang tầm, góp phần tiếp tục nêu cao tính đảng hơn nữa của báo chí và qua đó góp phần xây dựng nền báo chí Việt Nam cách mạng, hiện đại, chuyên nghiệp và nhân văn.

Cảnh giác với âm mưu kích động thanh niên của các thế lực thù địch

Thế hệ trẻ là tương lai của đất nước nhưng cũng là thành phần chưa chín chắn về tư tưởng và suy nghĩ. Do đó chính là khe hở cho các thế lực thù địch khoan vào, tiêm vào suy nghĩ tư duy làm lệch lạc đi những nội dung đúng đắn. Có thể thấy, âm mưu lợi dụng “tự do, dân chủ” để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là vấn đề không mới. Tuy nhiên, dịp này, các thế lực phản động tập trung hướng vào kêu gọi, kích động đối tượng thanh niên càng cho thấy dã tâm và sự nham hiểm của chúng. Nếu những người trẻ tuổi thiếu hiểu biết và bản lĩnh sẽ dẫn tới hoài nghi, dao động, phai nhạt lý tưởng, bị kẻ xấu kích động, lôi kéo. Thực tiễn đã chứng minh, Đảng, Nhà nước ta luôn tôn trọng, bảo đảm quyền tự do, dân chủ, chăm lo cho lợi ích, nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc biệt, trong suốt quá trình cách mạng, Đảng, Nhà nước luôn đặt niềm tin và đánh giá cao vai trò, vị trí, sứ mệnh to lớn của thanh niên; xác định thanh niên là rường cột của nước nhà, Đoàn Thanh niên là cánh tay đắc lực, là đội hậu bị tin cậy của Đảng. Cả hệ thống chính trị quan tâm, chăm lo cho thanh niên và tổ chức đoàn, phát huy vai trò xung kích của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tạo điều kiện cho thanh niên có đại diện của mình trong các cơ quan Nhà nước, đồng thời ban hành nhiều chủ trương, chính sách phát huy quyền làm chủ và lắng nghe ý kiến của thanh niên... Cùng với đó, cấp ủy, chính quyền các cấp quan tâm, tin tưởng giao nhiệm vụ, thử thách, cổ vũ, động viên thanh niên và các tổ chức của thanh niên thực hiện những chương trình, dự án, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh... tạo thuận lợi để thanh niên trưởng thành, đảm trách những vị trí ngày càng quan trọng trong hệ thống chính trị. Thực tế trên là rất rõ ràng và không ai có thể phủ nhận. Qua đó càng cho thấy, luận điệu quy chụp “Đảng, Nhà nước chà đạp lên tự do, dân chủ của thanh niên” là hoàn toàn sai trái. Âm mưu xúi giục, kích động thanh niên "đứng lên đòi tự do, dân chủ, chống độc tài” của các thế lực thù địch là hết sức phản động, thâm độc. Do vậy, mỗi người dân nói chung, thanh niên nói riêng cần hết sức cảnh giác, tỉnh táo để không rơi vào cái bẫy nham hiểm của những kẻ dã tâm chống phá đất nước, luôn tìm mọi cách "chọc gậy bánh xe", gây chia rẽ, mất đoàn kết trong nội bộ nước ta.

Thứ Tư, 5 tháng 4, 2023

HÀNH TRÌNH THEO CHÂN BÁC HỒ

   

Ngày 05 tháng 4

       

“Gốc có vững, cây mới bền”


Cách đây 93 năm, ngày 5-4-1930, sau khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, từ Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc đã gửi thư đến “đồng chí Zao” (là bí danh của Bùi Công Trừng) và các học sinh Việt Nam đang học ở Liên Xô.


Bức thư báo tin “Trong nước bây giờ đã có đảng thống nhất, vững vàng không còn những tệ chia rẽ như trước nữa”, đồng thời cho biết vào dịp Đại hội Quốc tế Lao động sắp tổ chức ở Liên Xô sẽ có một số đại biểu công nhân ở trong nước sang dự. Do đó đồng chí Zao được phân công tổ chức anh em học sinh Việt Nam giúp đỡ các đại biểu trong nước sang để “làm sao cho anh em đại biểu hăng hái và yêu mến Xô-Nga, lại có cảm tình với anh em lao động các nước” và “không để các đại biểu cảm thấy sự phân biệt giữa trí thức và người lao động”.


Ngày 5-4-1948, Bác Hồ viết 12 điều răn yêu cầu mọi người phải nhớ và thực hành khi tiếp xúc với dân. Để cổ động, Bác viết bài thơ:


                       “Mười hai điều trên

                          Ai chả làm được

                        Hễ người yêu nước

                    Nhất quyết không quên

                       Tập thành thói quen

                      Muôn người như một

                          Quân tốt, dân tốt

                          Muôn sự đều nên

                  Gốc có vững, cây mới bền

        Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.


Ngày 5-4-1958, Bác dự lễ tốt nghiệp khóa 10 của Trường Sĩ quan Lục quân Việt Nam ra đời từ sau Cách mạng Tháng 8-1945 và mang tên anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn. Khóa 10 cũng là khóa đầu tiên được đào tạo chính quy ở trong nước vì trong thời gian c.hiến t.ranh trường đã di chuyển ra ngoài nước. Huấn thị với lãnh đạo và học viên nhà trường, Bác nói: “Cần mạnh dạn áp dụng những điều đã học, nhưng phải thiết thực, thích hợp với hoàn cảnh; cần nâng cao tinh thần cảnh giác, tính tổ chức kỷ luật, thái độ khiêm tốn, nhất là phải tăng cường đoàn kết”.


Sau sự kiện Không quân nhân dân Việt Nam lần đầu xuất kích đánh to và thắng lớn không lực Hoa Kỳ trong các ngày 3, 4 và 5-4-1965, Bác gửi thư khen ngợi: “Các chú đã chiến đấu dũng cảm, đã t.iêu d.iệt máy bay Mỹ. Các chú đã thực hiện được khẩu hiệu “Đã đánh là thắng”. Như thế là xứng đáng với truyền thống của quân và dân ta... Chúc các chú lập nhiều chiến công hơn nữa”.


Cùng ngày, trả lời phỏng vấn nhà báo Yoshi Takano của báo “Akahata” của Đảng Cộng sản Nhật, Bác đã đưa ra giải pháp: để chấm dứt chiến tranh thì Mỹ không can thiệp vào miền Nam và chấm dứt n.ém b.om miền Bắc, như thế “sẽ tạo điều kiện đi đến một hội nghị như kiểu Hội nghị Giơnevơ năm 1954. Đó là cách giải quyết hợp tình hợp lý, có lợi cho hòa bình, có lợi cho nhân dân Mỹ”.


Trong bức điện cảm ơn gửi cùng ngày tới Quốc trưởng Campuchia N.Xihanuc, Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định: “Trước sức mạnh đoàn kết của các dân tộc Việt Nam, Khơme và Lào biểu hiện rõ rệt trong Hội nghị Nhân dân Đông Dương vừa qua do Ngài triệu tập, mọi â.m m.ưu x.âm l.ược và gây chiến của đế quốc Mỹ đối với các nước Đông Dương nhất định sẽ thất bại hoàn toàn”.

ST NCS30B 

QUYỀN CỦA NGƯỜI DÂN VỚI NGƯỜI ĐẦY TỚ TRUNG THÀNH CỦA MÌNH

 

Chủ nghĩa Mác - Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến quyền của quần chúng nhân dân với những người lãnh đạo của mình.


Theo quan điểm của Lênin, nhân dân có quyền cử ra cũng như có quyền thay đổi và kiểm tra, hiểu rõ về các hoạt động của những người lãnh đạo. Lênin từng chỉ rõ: “Quần chúng phải có quyền được tự mình cử ra những người lãnh đạo có trách nhiệm. Quần chúng phải có quyền được thay đổi những người lãnh đạo của mình, phải có quyền được hiểu rõ và kiểm tra mỗi một bước nhỏ nhất trong hoạt động của những người đó”.


Là người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định “Đảng là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Tư tưởng ấy xuyên suốt quá trình ra đời, trưởng thành, phát triển, lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng Việt Nam của Đảng cũng như hệ thống chính trị.


Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ Trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ cấp nào và ngành nào – đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Người chỉ rõ: “Chế độ của ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân”. Ngày 24 – 1 – 1947, trong Thư chúc Tết đồng bào và chiến sĩ Nam Bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Ai cũng biết rằng; trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, từ làng xã đến toàn quốc những người chức trách đều do dân cử ra. Dân tin cậy ai thì người ấy trúng cử và bổn phận những người trúng cử là làm đầy tớ công cộng cho dân chứ không phải làm quan phát tài”.


Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: để Đảng, Chính phủ thực hiện tốt nhiệm vụ của mình với nhân dân thì các tổ chức Đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước phải thật sự vì nhân dân phục vụ. Nói chuyện với anh em công chức Thủ đô vào ngày 30 – 11 – 1954, Người nhấn mạnh: “Bất kỳ ở địa vị nào, làm công việc gì, chúng ta đều là đầy tớ của nhân dân. Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy, chúng ta phải đền bù xứng đáng cho nhân dân. Muốn làm như vậy, chúng ta cần phải cố gắng thực hiện Cần, Kiệm, Liêm, Chính”. Tháng 3 – 1947, khi viết về Đời sống mới, Hồ Chủ tịch yêu cầu: “Cán bộ của làng phải là người trong sạch, công bình, thạo việc, có thể làm gương cho dân làng; có thể hy sinh lợi ích riêng cho lợi ích chung”.


Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn Đảng, Chính phủ, cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước phải luôn trung thực với nhân dân, không được giấu giếm nhân dân, phải để nhân dân hưởng quyền được biết về công việc của Đảng, của Chính phủ, quyền kiểm tra giám sát, thụ hưởng theo đúng quy định của Đảng, của Nhà nước, của pháp luật. Đây phải thật sự là việc cần thiết, sự cầu thị của Đảng, Nhà nước với nhân dân. Ngày 10 – 10 – 1954, trong Lời kêu gọi nhân dân Thủ đô giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu nguyện vọng của Chính phủ là rất mong được nhân dân giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của mình, là người đầy tớ trung thành tận tụy của nhân dân.


Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú ý đến quyền của công dân trong việc tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng, chính quyền, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới được thành lập và trong bối cảnh kháng chiến toàn quốc cam go, ác liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thẳng thắn nêu rõ vấn đề người dân có quyền giám sát cán bộ để phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực. Ngày 10 – 1 – 1946, phát biểu trước nông dân và điền chủ tỉnh Hưng Yên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Nước ta thời Pháp thuộc, thực dân Pháp lấy tiền quỹ để đắp đê, nhưng chúng chỉ bỏ vào việc đắp đê rất ít, còn bỏ vào túi chúng. Bây giờ ta được độc lập, công việc đắp đê không phải là việc riêng của Chính phủ mà là của tất cả mọi quốc dân. Dân chúng có quyền kiểm soát việc làm để đề phòng những việc nhũng lạm có thể xảy tới”. Khi bàn về vấn đề Cần kiệm liêm chính, vào khoảng tháng 6 – 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích: “Quan tham vì dân dại. Nếu dân hiểu biết, không chịu đút lót, thì “quan” dù không liêm cũng phải hóa ra LIÊM. Vì vậy, dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ Liêm”.


Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thường xuyên yêu cầu, động viên nhân dân  cần phải thực hiện tốt quyền của mình đối với Đảng, Nhà nước. Người nhắc nhở nhân dân phải thực hiện đồng bộ, hiệu quả mối quan hệ hữu cơ giữa quyền và nghĩa vụ, quyền phải đi liền với nghĩa vụ, trách nhiệm công dân. Trong bài báo Đạo đức công dân đăng trên Báo Nhân Dân ngày 15 – 1 – 1954, Người viết: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ. Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân”. Người chỉ rõ: công dân phải tuân theo pháp luật Nhà nước, kỷ luật lao động, giữ gìn trật tự chung; phải đóng góp (nộp thuế) đúng kỳ, đúng số để xây dựng lợi ích chung. Đồng thời công dân phải hăng hái tham gia công việc chung, bảo vệ tài sản công cộng và bảo vệ Tổ quốc.


Những tư tưởng trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đảng Cộng sản Việt Nam và hệ thống chính trị quán triệt, triển khai thực hiện tích cực, hiệu quả trên thực tế lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Qua đó, Đảng, Nhà nước, các tổ chức, cơ quan, đơn vị cũng như cán bộ, đảng viên đã ngày càng phấn đấu rèn luyện để xứng đáng là người đầy tớ trung thành của nhân dân.


Trong khi đó thì thật là vô lý khi các thế lực thù địch, thế lực xấu trắng trợn chống phá mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân và nhân dân với Đảng của mình. Chúng xuyên tạc rằng Đảng độc tài, bóp nghẹt mọi quyền lợi của người dân; Đảng chỉ lo lợi ích của Đảng, bỏ mặc nhân dân đói khổ; nhân dân bất bình, mất hết niềm tin vào Đảng. Tháng 3 – 2023 vừa qua, một đối tượng xấu lu loa rằng sở dĩ ở Việt Nam chưa đoàn kết được là: “vì những quyết định tự tung tự hứng” của Đảng “mà tình trạng chia rẽ, mất đoàn kết giữa dân và Đảng mở rộng…” và “càng sống lâu, Đảng càng chia rẽ dân tộc và gây ra đổ vỡ, tụt hậu cho đất nước”…


Sự chống phá trên của các thế lực thù địch, thế lực xấu không đánh lừa được ai và chỉ làm cho dư luận hiểu rõ thêm bản chất xấu độc của những thông tin chúng đưa ra, đồng thời củng cố, tăng cường quyết tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam kiên quyết, kiên trì đấu tranh đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc của chúng mà thôi.


Trong tình hình mới của cách mạng nước ta hiện nay, quyền của nhân dân càng được Đảng, Nhà nước quan tâm. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; Nghị quyết Trung ương năm, khóa XIII, đề ra nội dung rất cụ thể: “Xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa tổ chức cơ sở đảng, đảng viên với nhân dân; lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng, cán bộ, đảng viên”.


Thực tế cách mạng Việt Nam thời gian qua cho thấy: những nội dung quan trọng liên quan đến quyền, nghĩa vụ của nhân dân đã luôn được tiến hành tích cực, có hiệu quả từ hai phía, nhân dân tự nguyện, tự giác và Đảng, Nhà nước tạo thuận lợi để nhân dân thực hành tốt quyền và nghĩa vụ của mình. Mỗi người chúng ta hãy tin tưởng, chờ đợi và tích cực cùng “Người đầy tớ trung thành của nhân dân” thực hiện tốt nhất phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

ST NCS30B 

GIÁ TRỊ "LỜI KÊU GỌI THI ĐUA ÁI QUỐC" CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH ĐẾN PHONG TRÀO THI ĐUA YÊU NƯỚC HIỆN NAY

 

Cách đây 75 năm, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang ở giai đoạn gay go, quyết liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc nhằm kêu gọi toàn dân tích cực thi đua diệt giặc đói, giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm… Từ đó đến nay, Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng, động lực để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ra sức thi đua đóng góp sức người sức của vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc. Ngày nay, Lời kêu gọi của người vẫn còn nguyên giá trị trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Thi đua là những cuộc vận động lớn, toàn diện trên các lĩnh vực, các ngành nghề và trong mọi thời điểm. Đó là một trong những biện pháp quan trọng của quá trình vận động cách mạng, nêu cao tinh thần yêu nước của Nhân dân hướng tới mục đích chung. Vì tầm quan trọng của phong trào thi đua ái quốc, nên Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn chăm sóc và định hướng cho phong trào tiến lên không ngừng.


Trong thời điểm đất nước vừa được giải phóng, Nhà nước non trẻ của ta gặp muôn vàn khó khăn, phải đương đầu với nạn đói, nạn dốt và giặc ngoại xâm, để huy động sức người, sức của trong dân, thực hiện nhiệm vụ cách mạng, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi xướng việc tổ chức các phong trào thi đua trên các lĩnh vực đời sống xã hội như phát động chiến dịch tăng gia sản xuất để diệt giặc đói; mở chiến dịch chống nạn mù chữ để diệt giặc dốt và các phong trào “Tuần lễ vàng”, “Nam tiến”; phong trào thực hiện “Đời sống mới”.


Ngày 27/3/1948, theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương ra Chỉ thị “Phát động phong trào thi đua ái quốc”. Ngày 1/6/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 195 thành lập Ban vận động thi đua cứu quốc Trung ương, do đồng chí Tôn Đức Thắng làm Trưởng ban. Ngày 11/6/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc nhân kỷ niệm 1.000 ngày kháng chiến toàn quốc và để kêu gọi Nhân dân hưởng ứng phong trào thi đua ái quốc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương phát động ngày 27/3/1948 theo sáng kiến của Người.


Vẫn cách viết ngắn gọn, rành mạch, xúc tích, ngôn ngữ giản dị, mở đầu Lời kêu gọi, Hồ Chủ tịch viết: “Mục đích thi đua ái quốc là: Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”1. Chỉ ngắn gọn trong 10 từ, nhưng Hồ Chủ tịch đã nêu lên nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân cũng như mục đích của phong trào, đồng thời chỉ rõ thứ tự ưu tiên, đó là diệt giặc đói trước (để cứu mạng sống của dân), diệt giặc dốt (để có tri thức chống được ngoại xâm, nhất là thực dân Pháp).


Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Người như một lời “hịch” để phát động một phong trào quần chúng rộng lớn, nhằm “kháng chiến và kiến quốc thành công”, đồng thời thể hiện quan điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức, lãnh đạo một phong trào cách mạng với ý nghĩa quan trọng. Đó là quan điểm về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng, về đoàn kết toàn dân và việc thực hiện nhiệm vụ chiến lược lâu dài.


Chính Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Người đã cuốn hút, cổ vũ, động viên đồng bào và chiến sĩ cả nước thi đua hăng say lao động, sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống giặc đói; thi đua học tập, xóa nạn mù chữ, chống giặc dốt và dũng cảm ngoan cường trong chiến đấu diệt giặc ngoại xâm.


Theo Người, thi đua ái quốc phải tiến hành một cách toàn diện; bởi nhiệm vụ cách mạng ở bất cứ thời kỳ lịch sử nào cũng được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực để hoàn thành mục tiêu chung.


Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Người kêu gọi “Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ, đều cần phải trở nên một chiến sĩ tranh đấu trên mặt trận: Quân sự, Kinh tế, Chính trị, Văn hóa”2. Điều này xuất phát từ tính chất toàn diện của cuộc kháng chiến. Đồng thời, Người cũng chỉ rõ, thi đua ái quốc là nhiệm vụ cách mạng của mỗi người dân nên phong trào thi đua phải mang tính chất toàn dân. Tính nhân dân của phong trào thi đua được thể hiện ở việc tổ chức cho các tầng lớp nhân dân được quyền và có nghĩa vụ đóng góp vào công việc chung của đất nước, tùy theo sức lực của mình.


Bằng phương pháp vận động quần chúng tham gia các phong trào thi đua ái quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơi dậy sức mạnh tiềm tàng trong mỗi con người Việt Nam, từ trẻ đến già, từ miền xuôi đến miền ngược, ra sức đóng góp công sức của mình cho đất nước. Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng, động lực để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ra sức thi đua đóng góp sức người sức của vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc làm nên những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phong trào thi đua ái quốc đã đóng góp một phần không nhỏ vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam.


Trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước, các phong trào thi đua luôn có vai trò rất quan trọng. Sau năm 1954, các phong trào thi đua đã hướng vào thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của đế quốc Mỹ, vừa xây dựng và tạo cơ sở vật chất chi viện sức người, sức của cho miền Nam. Tiêu biểu là các phong trào thi đua “Một tấc không đi, một ly không rời”, “Dũng sĩ diệt Mỹ” ở miền Nam; phong trào “Mỗi người làm việc bằng hai người vì miền Nam ruột thịt”, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, phất cao ngọn cờ “Gió Đại Phong” trong nông dân, “Sóng Duyên Hải” trong công nhân, “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”..., ở miền Bắc đã góp phần quan trọng vào thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược, xây dựng hậu phương miền Bắc làm chỗ dựa vững chắc cho miền Nam kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi, đã làm nên ngày 30/4/1975 lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước3.


Sau năm 1975, đất nước được hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, các phong trào thi đua cũng không ngừng được phát động. Tiêu biểu là các phong trào “Tất cả vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân”, “Tất cả vì hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, đã góp phần nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, vượt qua mọi thách thức, khó khăn của đất nước sau nhiều năm bị chiến tranh tàn phá, nhất là khó khăn về kinh tế, giữ vững ổn định chính trị, xã hội.


Hiện nay, các cấp, các ngành ở nước ta đang triển khai nhiều phong trào thi đua lớn như: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, phong trào “Cả nước chung tay vì người nghèo, không để ai bị bỏ lại phía sau” với sự tham gia, vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Và còn rất nhiều phong trào thi đua khác đang được triển khai sâu rộng và từng bước ghi dấu ấn trong đời sống xã hội. Các phong trào, các cuộc vận động này rất đa dạng, phong phú, diễn ra ở tất cả các cấp, các ngành, tạo thành phong trào xã hội rộng lớn, khơi dậy lòng yêu nước, sức mạnh tiềm tàng trong mỗi người, mỗi tập thể, tạo nên động lực cho sự nghiệp cách mạng.


Qua các phong trào thi đua đã phát hiện, phổ biến và nhân rộng nhiều tập thể, cá nhân điển hình trong cả nước, tạo nên sức mạnh quần chúng rộng lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Các phong trào thi đua trong lĩnh vực kinh tế đạt được những thành quả quan trọng. Lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô được ổn định. Tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức khá cao. Các đột phá chiến lược và cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt được kết quả bước đầu. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện. Chất lượng tăng trưởng nhiều mặt được cải thiện. Sức cạnh tranh, tiềm lực và quy mô của nền kinh tế được nâng lên. Phong trào thi đua tiêu biểu trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, như: “Dạy tốt, học tốt”, “Thực hiện 12 điều y đức”... đã góp phần phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm an sinh xã hội; đời sống Nhân dân tiếp tục được cải thiện.


Trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh, phong trào “Thi đua quyết thắng”, thi đua “Vì an ninh Tổ quốc” gắn với phong trào “Học tập và thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy công an nhân dân”,… đã góp phần nâng cao trình độ và sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, giữ vững và ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.


Trong lĩnh vực xây dựng Đảng, ra sức thi đua xây dựng chính quyền các cấp và củng cố hệ thống chính trị. Đặc biệt, phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” đã tạo động lực mạnh mẽ, mang lại lợi ích thiết thực cho người dân.


Những thành tựu to lớn của hơn 35 năm đổi mới đất nước có sự đóng góp tích cực, xứng đáng từ các phong trào thi đua yêu nước. Chính các phong trào này đã phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, tạo động lực góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng - an ninh của đất nước…


Bên cạnh những kết quả đạt được, phong trào thi đua yêu trong những năm qua vẫn còn một số hạn chế, nhiều mô hình, gương điển hình tiên tiến ở một số địa phương, cơ quan đơn vị chưa được phát hiện, bồi dưỡng kịp thời và nhân rộng có hiệu quả. Việc tuyên truyền, tổ chức, học tập và áp dụng mô hình mới còn ít được quan tâm. Ở nhiều cơ quan, địa phương phong trào thi đua mang tính hình thức, thiếu hiệu quả đích thực. Công tác khen thưởng chưa bám sát kết quả thi đua, vẫn còn tình trạng khen thưởng tràn lan, thiếu công bằng; có những tiêu chuẩn, hình thức, phương pháp khen thưởng duy trì quá lâu làm mất tính hấp dẫn, không động viên, khích lệ được đông đảo quần chúng tham gia.


Trong thời gian tới, để phong trào thi đua yêu nước thật sự hiệu quả, thiết thực, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ sau:


Một là, tiếp tục quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh; tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng. Mỗi cán bộ, đảng viên cần phát huy tốt vai trò tiên phong, gương mẫu và là hạt nhân nòng cốt trong các phong trào thi đua ở cơ sở, phải coi thi đua không chỉ là đòn bẩy, biện pháp quan trọng để hoàn thành nhiệm vụ mà còn là một tiêu chí đánh giá phẩm chất đạo đức, lòng yêu nước của mỗi con người Việt Nam.


Hai là, các phong trào thi đua cần được tổ chức có mục tiêu thiết thực, phù hợp, gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội của từng bộ, ban, ngành, từng địa phương, cơ quan, đơn vị và phải được tiến hành thường xuyên, liên tục. Phát động phong trào thi đua phải xuất phát từ nguyện vọng chính đáng của Nhân dân, giải quyết những vấn đề mà Nhân dân mong muốn, đem lại lợi ích cho Nhân dân, cho dân tộc. Các phong trào thi đua cần được tổ chức với những hình thức phong phú, hấp dẫn, có chủ đề, tên gọi dễ nhớ, có tiêu chí thi đua cụ thể. Cùng với phong trào thi đua thường xuyên, cần phát động những phong trào thi đua theo đợt, theo chuyên đề, tích cực đổi mới toàn diện, phát huy tinh thần sáng tạo trong tổ chức phong trào thi đua sao cho bổ ích, thiết thực, tránh hình thức.


Ba là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về thi đua, khen thưởng, tạo hành lang pháp lý đồng bộ, hiệu quả và đột phá để đổi mới công tác thi đua, khen thưởng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Bên cạnh đó, cần triển khai thực hiện nghiêm các quy định của Luật Thi đua, khen thưởng, trong đó chú trọng rà soát, sửa đổi và hoàn thiện các văn bản pháp luật hướng dẫn để đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn. Nâng cao chất lượng khen thưởng, bảo đảm chính xác, minh bạch và kịp thời, trong đó chú trọng khen thưởng đối với các tập thể, cá nhân có thành tích đột xuất, nhất là những người trực tiếp lao động, sản xuất.


Bốn là, mỗi đơn vị, địa phương cần bám sát nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách để tổ chức phát động các hình thức thi đua phong phú, hấp dẫn có chủ đề, tên gọi dễ nhớ, có tiêu chí cụ thể, nội dung thiết thực, triển khai có hiệu quả, chống hình thức. Đồng thời, thực hiện nghiêm túc việc đôn đốc, kiểm tra, sơ kết, tổng kết các phong trào thi đua, lựa chọn các tập thể, cá nhân có thành tích tiêu biểu để biểu dương, tôn vinh khen thưởng.


Việc phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến phải được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong đổi mới phương pháp tổ chức chỉ đạo các phong trào thi đua, đảm bảo thực hiện đồng bộ ở bốn khâu: phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến. Mặt khác, cần tăng cường bồi dưỡng kiến thức quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách thi đua, nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.


Năm là, thực hiện nghiêm túc việc kiểm tra, giám sát, phân công nhiệm vụ, tiến độ triển khai, nhất là các phong trào lớn và mới; kịp thời tổng kết, rút kinh nghiệm, chọn điểm trước khi nhân rộng phong trào. Song song đó, cần gắn các phong trào thi đua với tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; chú trọng phát động các phong trào thi đua thực hiện nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ cấp bách.


Các cơ quan, đơn vị phụ trách thi đua, khen thưởng cần đổi mới tác phong làm việc, cải cách thủ tục theo hướng tinh gọn, áp dụng công nghệ thông tin để hiện đại hóa và tạo thuận lợi cho cơ sở trong công việc. Bên cạnh đó, cần đổi mới công tác khen thưởng, đảm bảo công tác này được thực hiện chính xác, kịp thời, công khai, minh bạch, qua đó tạo động lực tích cực tới công tác thi đua.


Những quan điểm về thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh có tác dụng như những lời hiệu triệu, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc trong mỗi người dân Việt Nam, tạo thành sức mạnh to lớn để dân tộc ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ chiến thắng các kẻ thù xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.


Ngày nay, những quan điểm về thi đua của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã và đang là phương châm, định hướng tư tưởng, hành động, phát huy tinh thần dân tộc, sức mạnh nội tại trong mỗi người dân cũng như toàn xã hội cho mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cho nên, hơn lúc nào hết, chúng ta cần tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước, làm dấy lên những phong trào yêu nước sâu rộng, thường xuyên, coi đó là một phương thức cần thiết nhằm tạo ra một động lực phát triển, đưa Việt Nam sớm trở thành một nước phát triển, có thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

ST


 DÂNG HOA TƯỞNG NHỚ 116 NĂM NGÀY SINH TỔNG BÍ THƯ LÊ DUẨN


Nhân kỷ niệm 116 năm Ngày sinh Tổng Bí thư Lê Duẩn (7/4/1907 - 7/4/2023), sáng 5/4, tỉnh Quảng Trị đã tổ chức Lễ dâng hoa tại Tượng đài Lê Duẩn thuộc Công viên Lê Duẩn, thành phố Đông Hà.


Tại buổi lễ, trong không khí trang nghiêm, đại diện lãnh đạo tỉnh Quảng Trị cùng đông đảo cán bộ, công nhân, viên chức, người dân trên địa bàn đã dâng hoa và dành một phút mặc niệm tưởng nhớ những cống hiến to lớn, thể hiện sự biết ơn sâu sắc đối với Tổng Bí thư Lê Duẩn - người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam, người con ưu tú của quê hương Quảng Trị anh hùng.


Đồng chí Lê Duẩn, tên thật là Lê Văn Nhuận, sinh ngày 7/4/1907 ở làng Bích La, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Xuất thân từ một gia đình lao động, có truyền thống yêu nước, đồng chí sớm giác ngộ cách mạng, hưởng ứng lời kêu gọi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đi theo con đường cách mạng vô sản. Đồng chí Lê Duẩn đã tham gia phong trào yêu nước từ năm 1926, tham gia và hoạt động trong Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên từ năm 1928 và đến năm 1930 trở thành một trong những đảng viên lớp đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương.


Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, trên các cương vị quan trọng của Đảng từ sau khi Đảng ra đời, với 26 năm liên tục ở cương vị Bí thư thứ nhất, Tổng Bí thư của Đảng (1960 - 1986), Tổng Bí thư Lê Duẩn cùng với Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương xác định những đường lối, chính sách của các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động khác, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân giành độc lập, tự do…


Đối với Quảng Trị, Tổng Bí thư Lê Duẩn luôn dành cho quê hương một tình yêu sâu nặng, ân tình; đồng thời luôn động viên, nhắn nhủ đến Đảng bộ và nhân dân phát huy hơn nữa đức tính cần cù, dũng cảm, sức mạnh làm chủ tập thể, nỗ lực góp phần đưa kinh tế - xã hội ngày càng phát triển mạnh hơn…/.

ST


VỮNG VÀNG “TRẬN ĐỊA” TƯ TƯỞNG Ở TRƯỜNG SA


Con tàu rẽ sóng đưa chúng tôi đến Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa. Trước mắt tôi là một Trường Sa xanh, sạch, đẹp theo nhiều nghĩa. Trường Sa hôm nay đã thực sự phát triển, như một đô thị giữa biển khơi. Mỗi hòn đảo được biết bao thế hệ cán bộ, chiến sĩ và nhân dân không quản gian khổ, hy sinh để giữ gìn, vun đắp. Mỗi người thực sự là một “trận địa” tư tưởng vững vàng như cây phong ba, cây bàng vuông nơi đầu sóng, ngọn gió.


Trung sĩ Nguyễn Tiến Dũng - Khẩu đội trưởng ở Đảo Núi Le, là một trong những gương mặt trẻ mà chúng tôi gặp trong hải trình lần này. Tiến Dũng chia sẻ: “Tôi rất tự hào khi được công tác ở đây. Trước khi đến đây, tôi và các đồng đội được huấn luyện, học tập rất kỹ về chuyên ngành. Bên cạnh đó, chúng tôi còn được quán triệt kỹ về những khó khăn mà nơi đảo xa phải vượt qua. Đến khi trải nghiệm thực tế, tôi mới nhận ra rằng sự vất vả ấy còn vượt xa rất nhiều những gì tôi được nghe. Tôi mới ra đảo hơn 3 tháng, thời gian chưa nhiều nhưng cũng đủ để tôi hiểu mình phải làm gì trước nhiệm vụ bảo vệ biển, đảo. Tôi tin rằng mình và các đồng đội sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, xứng đáng với niềm tin của đơn vị và gia đình”.


Trải qua bao mùa mưa, nắng, vượt qua khắc nghiệt của thiên nhiên, Trường Sa vẫn hiển hiện giữa trùng khơi như một biểu tượng về ý chí kiên cường và sức sống mãnh liệt của quân và dân giữa biển khơi. Vượt lên muôn vàn khó khăn, gian khổ, quân và dân huyện đảo Trường Sa vẫn bền bỉ từng ngày vì mục tiêu xây dựng quê hương giàu mạnh. Những tán cây bàng vuông, phong ba, bão táp cùng những chậu hoa, khóm lá luôn xanh ngát một màu. Mỗi cây hoa, chậu cảnh luôn xanh tươi là nhờ đôi bàn tay chăm sóc hàng ngày của cán bộ, chiến sĩ nơi đây. Họ không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn luôn vững vàng về bản lĩnh, xác định tốt về tư tưởng như mỗi cây bàng vuông, cây phong ba trước sóng gió.


Chỉnh sửa quân phục cho bộ đội đang đứng trong đội hình xong, Thiếu tá Nguyễn Văn Tài - Chỉ huy trưởng Đảo Đá Tây B, chia sẻ với chúng tôi: “Các chiến sĩ trẻ ở đây đều xác định tốt tư tưởng và có quyết tâm cao trong huấn luyện, rèn luyện. Trong công việc và cuộc sống hàng ngày, cán bộ, chiến sĩ trên đảo như anh em trong một gia đình. Chúng tôi xác định phương châm “cấp trên làm gương mẫu mực, cấp dưới tích cực làm theo”. Cán bộ các cấp giáo dục chiến sĩ bằng chính hành động, việc làm của mình. Nếu cán bộ không làm gương về sự vượt khó vươn lên thì làm sao giáo dục được chiến sĩ. Có giáo dục tốt thì chiến sĩ mới có niềm tin vào cán bộ để cùng đoàn kết xây dựng đảo vững mạnh về mọi mặt”.


Trường Sa hôm nay không chỉ là pháo đài giữ biển của Tổ quốc mà còn là một đại gia đình của những cán bộ, chiến sĩ và ngư dân can trường ngày đêm bám biển. Mỗi mái ấm giữa trùng khơi tô điểm thêm cho bức tranh Trường Sa ngày càng đẹp và sống động, bức tranh khởi đầu của một vùng kinh tế mới. Đó cũng chính là phên giậu vững chắc giữa biển khơi.


Chị Trần Thị Minh Cúc - hội viên Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thị trấn Trường Sa, tâm sự: “Ở đây, mỗi gia đình cán bộ, hội viên đều thực hiện tốt các quy định của đảo. Từng hội viên thực hiện tốt phong trào thi đua Xây dựng người Phụ nữ Việt Nam thời đại mới, gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Các hộ gia đình tích cực thực hiện cuộc vận động "Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch". Những gì chúng tôi thực hiện đều với mong muốn góp phần xây dựng thị trấn, xây dựng đảo ngày càng tươi đẹp, văn minh và vững mạnh toàn diện".


Thượng tá Nguyễn Công Chính - Chính trị viên Đảo Trường Sa, cho biết: “Thị trấn Trường Sa luôn được vun đắp tình quân - dân bền chặt. Mỗi cán bộ, chiến sĩ và mỗi người dân trên đảo là một cột mốc chủ quyền vững vàng giữa trùng khơi. Ai cũng hiểu rằng nhiệm vụ họ đang đảm nhiệm vừa là trách nhiệm, vừa là vinh dự lớn được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Từ việc nhận thức tốt chức trách, nhiệm vụ mà mỗi cán bộ, chiến sĩ, mỗi người dân đều chung sức, đồng lòng tham gia xây dựng đảo”.


Trường Sa là máu thịt thiêng liêng, nơi mà cả triệu trái tim người dân đất Việt hướng về. Đối với những người lính biển, Trường Sa vừa là trái tim, vừa là động lực tinh thần to lớn để họ suy nghĩ, hành động, chấp nhận gian khó và sẵn sàng hy sinh để bảo vệ./.

ST



PHÒNG CHỐNG PHAI NHẠT LÝ TƯỞNG CÁCH MẠNG TRONG MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

 

Trong giờ phút thiêng liêng được kết nạp vào Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên đều thề trước cờ Đảng và hình ảnh lãnh tụ, suốt đời đấu tranh phấn đấu theo lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, tuyệt đối trung thành và nghiêm chỉnh thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng, giữ gìn kỷ luật Đảng và phẩm chất, đạo đức của người cách mạng. Đó là lời thề danh dự định hướng rèn luyện, hành động của mỗi đảng viên, cán bộ.


Suốt các thời kỳ đấu tranh cách mạng, tuyệt đại đa số đảng viên, cán bộ đã thực hiện trọn vẹn lời thề đó, điều này có ý nghĩa quyết định sức chiến đấu, danh dự và uy tín của Đảng và niềm tin của nhân dân đối với Đảng.


Sự phấn đấu, hy sinh của các đồng chí lãnh đạo Đảng, của hàng nghìn, hàng vạn cán bộ, đảng viên đã cổ vũ, đoàn kết toàn dân tộc: giành thắng lợi trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của lịch sử dân tộc; đi tới toàn thắng trong các cuộc kháng chiến oanh liệt chống thực dân, đế quốc vì hòa bình, độc lập hoàn toàn và thống nhất Tổ quốc; thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đại hội XIII khẳng định: "Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay".


"Đó là kết quả sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự hy sinh quên mình và đóng góp quan trọng của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chúng ta có quyền tự hào về bản chất tốt đẹp, truyền thống anh hùng và lịch sử vẻ vang của Đảng ta - Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đại biểu của dân tộc Việt Nam anh hùng".

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng có những thành công căn bản và quan trọng, bảo đảm không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Song công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn chế, khuyết điểm cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, nhất là một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.


"Trong khi đó, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc".


Đảng đã thẳng thắn chỉ rõ 27 biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" tại Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII (10/2016). Biểu hiện hàng đầu của sự suy thoái đó là: "Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh".


Không chỉ phai nhạt lý tưởng cách mạng, giảm sút niềm tin, mà một bộ phận cán bộ, đảng viên còn có biểu hiện "Xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái" và những biểu hiện sai trái khác. Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: "Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".


Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh, cuộc đấu tranh chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị là căn bản và có ý nghĩa quyết định bảo đảm bản chất cách mạng, sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Suy thoái về tư tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng, xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng là điều nguy hiểm nhất với sự tồn vong của Đảng và chế độ.


Vì vậy, phải đấu tranh chống các thế lực thù địch, phản động, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cuộc đấu tranh đó càng đòi hỏi sự trong sạch trong nội bộ Đảng, phải ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, xa rời con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn.


Cách mạng và dân tộc Việt Nam từ năm 1930 đến nay do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã và đang phát triển trên con đường đúng đắn với những thắng lợi và thành tựu to lớn. Vì sao với hiện thực rõ ràng như vậy vẫn có một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, dao động, giảm sút niềm tin vào lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội? Cần thiết phải làm rõ nguyên nhân.

Có những người bị chi phối bởi quan điểm sai trái của các thế lực thù địch cho rằng sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là sai lầm dẫn tới sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Sự thật là, đó là sự tan vỡ của một mô hình với những hạn chế và khuyết điểm hoàn toàn có thể điều chỉnh, sửa chữa được.


Chính sự phản bội và nhân danh tư duy chính trị mới đã phủ nhận thành quả vĩ đại của chủ nghĩa xã hội, đưa các nước đó rời bỏ con đường xã hội chủ nghĩa. Việt Nam đã sửa chữa những khuyết điểm của mô hình cũ bằng đường lối đổi mới. Kiên định mục tiêu chủ nghĩa xã hội và đổi mới thành công đã làm cho nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn.

Các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng đã tổng kết điều đó. Đặc biệt, tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam công bố năm 2021 là sự phát triển quan trọng nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Cần phải quán triệt và nhận thức sâu sắc những tổng kết có giá trị khoa học và hiện thực của Đảng trong từng tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đó là điều có vai trò quan trọng để ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị và phai nhạt lý tưởng cách mạng.


Nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Lý luận, tư tưởng đó quyết định bản chất cách mạng, khoa học, bản lĩnh chính trị, sức chiến đấu của Đảng và cũng quyết định ý chí, lý tưởng cách mạng và phẩm chất chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên. Đảng nhiều lần nhấn mạnh, học tập, nghiên cứu nền tảng tư tưởng của Đảng không phải là thuộc lòng câu chữ mà phải nắm vững giá trị mang tính quy luật, phương pháp luận khoa học để vận dụng sáng tạo và không ngừng phát triển.


Bộ Chính trị khóa XII chủ trương tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phê phán, bác bỏ những luận điệu sai trái, phản động của các thế lực thù địch. Qua cuộc đấu tranh đó để toàn Đảng và nhân dân cảnh giác và góp phần nâng cao nhận thức về tư tưởng, lý luận, tăng sức đề kháng trong Đảng và toàn xã hội. Những người phai nhạt lý tưởng, dao động, giảm sút niềm tin, hoặc bị ảnh hưởng từ những luận điệu sai trái, thù địch, cố tình phụ họa, tiếp tay cho kẻ địch, hoặc do trình độ nhận thức hạn chế, bản lĩnh chính trị không vững vàng, ít chịu học tập, rèn luyện, tu dưỡng và cả sự chủ quan, kiêu ngạo, cố tình quay lưng lại với sự thật.


Vì vậy phải chú trọng công tác giáo dục, học tập, nghiên cứu lý luận chính trị một cách căn bản, sâu sắc, có hệ thống. Giáo dục sâu sắc, thiết thực lý luận chính trị có ý nghĩa rất quan trọng củng cố sức mạnh của Đảng về tư tưởng, chính trị, ngăn chặn, đẩy lùi sự phai nhạt lý tưởng cách mạng.


Phòng ngừa sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, giảm sút niềm tin đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên dù ở cương vị nào cũng cần phải tu dưỡng, rèn luyện tính tiên phong, đức hy sinh và phẩm chất đạo đức cách mạng. Hiểu biết sâu sắc đất nước, dân tộc mình, tự hào, tự tôn dân tộc, tự hào về truyền thống vẻ vang của Đảng và dân tộc và không ngừng học tập. Học tập để nâng cao trình độ trí tuệ, hiểu biết lý luận, nhận thức đúng đắn quy luật khách quan và thực tiễn đất nước để hành động tự giác, có hiệu quả.


Lý tưởng, mục tiêu của Đảng rất rõ ràng là độc lập dân tộc và xây dựng Việt Nam trở thành nước xã hội chủ nghĩa hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc. Là cán bộ, đảng viên của Đảng phải tuyệt đối trung thành và phấn đấu vì lý tưởng cao cả đó. Làm sao để trong Đảng không có những đảng viên phai nhạt lý tưởng, càng không thể có đảng viên xa rời tôn chỉ mục đích của Đảng. Hãy luôn luôn ghi nhớ lời thề khi gia nhập Đảng./.

ST

HÀNH TRÌNH THEO CHÂN BÁC H

 Ồ  

Ngày 06 tháng 4


“Chi bộ là một tổ chức lãnh đạo chính trị”.


Cách đây 74 năm, ngày 6-4-1949, trong quá trình chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên Chiến khu Việt Bắc, Bác di chuyển địa điểm làm việc từ Lũng Tầu đến Khâu Lấu, thuộc xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Kể từ đây, Phủ Chủ tịch và các cơ quan của Chính phủ đặt tại Sơn Dương, cùng với các cơ quan của Đảng và Mặt trận... đặt bên Định Hóa (Thái Nguyên) - nơi được mệnh danh là “Thủ đô Kháng chiến”.


Ngày 6-4-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh tham dự cuộc họp Thường vụ Trung ương sau chuyến đi quan trọng thăm Trung Quốc và Liên Xô. Bác hoan nghênh việc triệu tập Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng và khẳng định rằng chúng ta đã thắng trong “cuộc tổng phản công về chính trị”, biểu hiện ở sự đồng lòng dốc sức của nhân dân, thế giới bước đầu thấy cuộc kháng chiến của chúng ta là chính nghĩa. Thắng lợi của “tổng phản công về chính trị” sẽ giúp nhiều cho cuộc “tổng phản công về quân sự” sắp tới. Bác cũng tán thành chủ trương lấy ngày 19-5 hàng năm làm ngày phát động phong trào thi đua yêu nước nhưng căn dặn không được lợi dụng phong trào để gây lãng phí tiền bạc và thì giờ của nhân dân.


Ngày 6-4-1953, trên Báo Nhân Dân, Bác viết bài “Nhân dịp Hội nghị quốc tế bảo vệ quyền lợi thanh niên” nhân sự kiện thanh niên 70 quốc gia họp mặt ở Viên (thủ đô Áo), thảo luận những vấn đề bảo vệ quyền lợi của thanh niên. Bài báo liên hệ: “Thanh niên Việt Nam muốn giữ gìn và bảo vệ quyền lợi của mình phải hăng hái tham gia kháng chiến, ra sức rèn luyện phẩm chất cách mạng, không quản ngại khó khăn gian khổ, h.y s.inh, phải yêu lao động, bảo vệ của công, chống quan liêu, tham ô, lãng phí, yêu Tổ quốc, dũng cảm h.y s.inh vì Tổ quốc. Phải gắn lòng yêu nước nồng nàn với tinh thần quốc tế chân chính, trung thành với nhân dân, với Đảng, với Chính phủ”.


Ngày 6-4-1954, Bác viết bài “Nhiệm vụ của chi bộ ở các cơ quan” đăng trên Báo Nhân Dân, nêu lên những nhiệm vụ phát huy vai trò “chi bộ phải là động lực của mỗi cơ quan” để đẩy mạnh kháng chiến và cải cách ruộng đất thắng lợi. Muốn như vậy thì “mỗi đảng viên phải xung phong gương mẫu trong mọi việc, đồng thời phải thật thà đoàn kết và giúp đỡ anh em ngoài Đảng. Phải thật sự mở rộng dân chủ trong cơ quan. Phải luôn luôn dùng cách thật thà tự phê bình và thẳng thắn phê bình, nhất là phê bình từ dưới lên. Phải kiên quyết chống cái thói “cả vú lấp miệng em” ngăn cản quần chúng phê bình. Một đảng viên ở địa vị càng cao thì càng phải giữ đúng kỷ luật của Đảng, càng phải làm gương dân chủ... Phải nhớ rằng chi bộ là một tổ chức lãnh đạo chính trị, chứ không phải là một tổ chức hành chính”.


Ngày 6-4-1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm tỉnh Bắc Giang. Nói chuyện trước 3 vạn rưỡi đồng bào các dân tộc, Bác động viên nhân dân trong tỉnh phấn đấu, phát huy truyền thống vẻ vang sẵn có để giành thắng lợi trong “cuộc kháng chiến chống một thứ giặc khác: giặc lạc hậu và nghèo nàn”.

ST


HẤP DẪN, ĐẶC SẮC “NGÀY VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM”

 

"Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam 2023" sẽ diễn ra từ ngày 14 đến 19-4 tại Làng Văn hóa Du lịch các dân tộc Việt Nam (Hà Nội) với nhiều hoạt động hấp dẫn, đặc sắc.


"Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam 2023" với sự tham gia của hơn 100 dân tộc từ các tỉnh trong cả nước. Nhiều nội dung sẽ được tổ chức như diễn đàn "Văn hóa các dân tộc Việt Nam - Nguồn lực phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc"; "Triển lãm giới thiệu bộ sưu tập hiện vật về văn hóa các tộc người"; "Tái hiện những lễ hội, phong tục tập quán của các dân tộc và các hoạt động thể thao quần chúng"…


Diễn đàn văn hóa "Văn hóa các dân tộc Việt Nam - Nguồn lực phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc" sẽ diễn ra ngày 15-4, với khoảng 40 tham luận, kèm trưng bày các hình ảnh về sắc màu văn hóa các dân tộc Việt Nam kết hợp với thực hành di sản và nghề thủ công truyền thống như đan lát, dệt, xòe, sạp…


Một số nghệ thuật trình diễn được UNESCO ghi danh và một số di sản văn hóa phi vật thể quốc gia như: Văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên - kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại; Nghệ thuật sân khấu Rô băm của dân tộc Khmer tỉnh Sóc Trăng; Trích đoạn nghi thức truyền thống của dân tộc Mạ tỉnh Lâm Đồng, dân tộc Thái tỉnh Thanh Hóa … cũng được giới thiệu, trình diễn tại diễn đàn này.


"Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam 2023" là hoạt động nằm trong chương trình triển khai thực hiện những nội dung của Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021; Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030; Kỷ niệm 80 năm ra đời "Đề cương văn hóa Việt Nam" và 15 năm thực hiện "Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam".

ST


LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA


Ngày 06 tháng 4


“Về lãnh đạo, cán bộ phải thật sự đoàn kết, nhất trí, phải đi sâu đi sát, phải lãnh đạo thiết thực và toàn diện”.


Lời huấn thị trên được trích trong thông báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nội dung đợt chỉnh huấn cho toàn Đảng, toàn dân do Trung ương phát động, khi Người về thăm và nói chuyện với đồng bào, cán bộ tỉnh Bắc Giang, ngày 06 tháng 4 năm 1961.


Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu đội ngũ cán bộ phải đề cao và thực hành đoàn kết, nhất trí, giữ gìn sự đoàn kết, nhất trí như con ngươi của mắt mình, phải rèn luyện phong cách lãnh đạo sâu sát, tỉ mỉ, gắn bó với cơ sở, gần dân, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, phải thiết thực và toàn diện, tránh phô trương, hình thức. Theo Bác, sau khi nghị quyết đã được ban hành, thì phải tổ chức tốt việc thực hiện nghị quyết, để nghị quyết đi vào cuộc sống. Muốn vậy, đòi hỏi người cán bộ phải sâu sát, tỷ mỉ, phải “đi tận nơi”, “xem tận chỗ”.


Thực hiện lời Bác dạy, hơn 90 năm qua Đảng ta luôn nhận thức sâu sắc ý nghĩa to lớn của việc xây dựng, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, xem đây là vấn đề quan trọng hằng đầu, là nhiệm vụ sống còn của Đảng, của dân tộc. Đặc biệt, trong thời kỳ mới, Đảng luôn quan tâm lãnh đạo công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất, kiên quyết chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Sự nghiệp đổi mới đất nước đã thu được kết quả rất quan trọng, tiếp tục nâng cao vị thế, khẳng định năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Đại bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng đã luôn giữ gìn sự đoàn kết nhất trí, phấn đấu h.y s.inh vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng.


Tuy nhiên, bên cạnh đó còn không ít cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng…


Để tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, giữ gìn sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng, kiên quyết đấu tranh, khắc phục được những hạn chế, yếu kém, mỗi cán bộ, đảng viên trong Đảng nói chung, cán bộ, đảng viên Đảng bộ Quân đội nói riêng, gương mẫu đi đầu thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII, gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bằng những việc làm cụ thể, thiết thực, hiệu quả phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của địa phương, đơn vị, chức trách, nhiệm vụ được giao; có tác phong dân chủ, quần chúng, sâu sát, tỉ mỉ, gần gũi, chân thành lắng nghe tâm tư, nguyện vọng và thành tâm tiếp thu sự phê bình của quần chúng, luôn đề cao tự phê bình và phê bình.

ST

LẤY CON NGƯỜI LÀM TRUNG TÂM Ở LƯU VỰC MÊ KÔNG

 

Ngày 5-4, tại thủ đô Vientiane của Lào đã diễn ra Hội nghị Cấp cao lần thứ 4 Ủy hội sông Mê Kông quốc tế (gọi tắt: Ủy hội), với chủ đề "Đổi mới và hợp tác nhằm bảo đảm an ninh nguồn nước và sự phát triển bền vững của lưu vực sông Mê Kông".


Tham dự hội nghị có Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính, Thủ tướng Lào Sonexay Siphandone, Thủ tướng Campuchia Hun Sen và Tổng Thư ký Văn phòng Tài nguyên nước Thái Lan Surasri Kidti Monton cùng lãnh đạo và đại diện các đối tác đối thoại, đối tác phát triển, các tổ chức quốc tế, khu vực, các tổ chức xã hội và cộng đồng.


Tại hội nghị, các nước khẳng định cam kết chính trị cao nhất đối với việc thực hiện hiệu quả Hiệp định Mê Kông 1995, ủng hộ vai trò của Ủy hội là diễn đàn hợp tác hàng đầu về nước trong khu vực.


Phát biểu tại hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh phải đổi mới tư duy hợp tác và có những bước đi đột phá. Đề xuất về định hướng hợp tác của Ủy hội trong thời gian tới, Thủ tướng cho rằng cần tái khẳng định cam kết mạnh mẽ nhất, nghiêm túc tuân thủ và thực hiện Hiệp định Mê Kông năm 1995, cũng như Bộ Quy chế sử dụng nước đã được xây dựng, đồng thời tập trung thực hiện tốt các kế hoạch, chiến lược của Ủy hội.


Cùng với đó, mọi chính sách và hành động cần lấy con người làm trung tâm, với cách tiếp cận toàn dân, toàn diện và toàn lưu vực, nhằm bảo đảm sinh kế bền vững của người dân, tăng cường khả năng thích ứng; đồng thời tăng cường hợp tác phòng chống tội phạm xuyên quốc gia ở tiểu vùng sông Mê Kông.


Ngoài ra, cần tăng cường phối hợp giữa Ủy hội và các khuôn khổ hợp tác tiểu vùng khác, trong đó phát huy vai trò là một trung tâm tri thức, cung cấp thông tin, dữ liệu, tư vấn cho các cơ chế hợp tác.


Đồng thời, thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, phát triển các nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng gió và mặt trời, kết nối và nâng cấp lưới điện của vùng; hợp tác giao thông thủy để thúc đẩy giao thương, bảo đảm vận tải an toàn, hiệu quả, không gây hại đến nguồn nước và môi trường sinh thái; tăng cường hợp tác với các đối tác để tranh thủ sự hỗ trợ về nguồn lực tài chính, tri thức, kinh nghiệm và công nghệ hiện đại, gắn kết hoạt động của Ủy hội với nỗ lực thực hiện Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN và các chương trình nghị sự quốc tế lớn khác.


Nhân dịp này, Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định Việt Nam luôn coi trọng hợp tác Mê Kông; đã, đang và sẽ tiếp tục tham gia các hoạt động của Ủy hội một cách chủ động, tích cực, bảo đảm hài hòa lợi ích của nhân dân các nước, lợi ích các quốc gia trong lưu vực, giữa con người và thiên nhiên, giữa thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau...


Kết thúc hội nghị, trưởng đoàn các nước đã thông qua Tuyên bố chung Vientiane, kêu gọi Ủy hội, tất cả các đối tác và các bên liên quan phối hợp tìm ra những giải pháp sáng tạo để ứng phó với những thách thức, đồng thời nắm bắt các cơ hội và tăng cường hợp tác vì một lưu vực sông Mê Kông bền vững và bảo đảm an ninh nguồn nước, đồng thời tuân thủ các nguyên tắc cởi mở, minh bạch, toàn diện, cùng có lợi, bình đẳng, tham vấn, phối hợp, hợp tác, tôn trọng chủ quyền…


Đẩy mạnh hợp tác với Lào


Chiều 5-4, sau khi bế mạc Hội nghị Cấp cao Ủy hội sông Mê Kông, Thủ tướng Phạm Minh Chính có cuộc làm việc với Thủ tướng Lào Sonexay Siphandone.


Hai Thủ tướng nhất trí triển khai Thỏa thuận chiến lược hợp tác Việt Nam - Lào giai đoạn 2021-2030, Hiệp định hợp tác song phương Việt Nam - Lào giai đoạn 2021-2023 và các thỏa thuận cấp cao, kế hoạch hợp tác đã ký; tiếp tục trao đổi đoàn các cấp, các kênh để củng cố quan hệ chính trị tin cậy đặc biệt và bền chặt; phối hợp bảo đảm an ninh, trật tự; tăng cường hợp tác an ninh, quốc phòng; phối hợp phòng chống tội phạm xuyên quốc gia, đặc biệt là tội phạm m.a t.úy.


Hai bên cũng nhất trí tiếp tục nâng tầm hợp tác kinh tế; hỗ trợ nhau xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, gắn với hội nhập quốc tế; quyết tâm giải quyết dứt điểm một số tồn đọng và thúc đẩy các dự án trọng điểm như bến cảng Vũng Áng 1, 2, 3, sân bay Nongkhang, các dự án kết nối giao thông đường bộ, đường sắt theo hướng Đông - Tây…; tiếp tục tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện về thủ tục hành chính, mặt bằng… cho các doanh nghiệp, dự án của Việt Nam tại Lào.


Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định Việt Nam sẵn sàng hỗ trợ Lào đảm nhận các trọng trách quốc tế trong thời gian tới, trong đó có vai trò Chủ tịch ASEAN/AIPA vào năm 2024.


Sáng cùng ngày, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã ăn sáng và làm việc với Thủ tướng Lào Sonexay Siphandone và Thủ tướng Campuchia Samdech Techo Hun Sen.

ST


NHÀ GIÀN DK1: 34 NĂM - CỘT MỐC CHỦ QUYỀN GIỮA BIỂN KHƠI

 

Giữa mênh mông trùng khơi, quanh năm phải đối mặt với thiên nhiên hung dữ, khắc nghiệt, 34 năm qua, các nhà giàn DK1 vẫn vững vàng, hiên ngang, khẳng định chủ quyền thiêng liêng trên thềm lục địa phía Nam của Tổ quốc.


Những con người đang ngày đêm bám trụ trên những pháo đài thép sừng sững giữa sóng nước trùng khơi ấy, đã và đang từng ngày viết lên những trang sử hào hùng, làm nên trang sử ngập tràn cảm xúc và niềm tự hào mỗi khi nhắc đến: Lính nhà giàn.


Cuối tháng 8-1988, Thường vụ Đảng ủy Quân chủng Hải quân đã báo cáo, đề nghị Bộ Chính trị cho chủ trương tổ chức lực lượng ra đóng tại các khu vực bãi cạn trên thềm lục địa phía Nam, làm chỗ dựa cho các hoạt động thăm dò, khai thác và nghiên cứu của các ngành thủy sản, dầu khí, khí tượng thủy văn.


Trên cơ sở đề nghị của Quân chủng Hải quân, Đảng và Nhà nước đã tiến hành chủ trương xây dựng Cụm Kinh tế - Khoa học – Dịch vụ tại khu vực các bãi đá ngầm trên thềm lục địa phía Đông Nam - gọi tắt là DK1. 


Ngày 5-7-1989, Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã chính thức tuyên bố thành lập Cụm kinh tế - khoa học - dịch vụ thuộc sự quản lý hành chính của Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo (nay là tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu).


Việc thành lập Cụm kinh tế - khoa học - dịch vụ tại thềm lục địa phía Đông Nam thể hiện ý chí quyết tâm lớn của Đảng, Nhà nước ta trên con đường phát triển kinh tế biển, từng bước hình thành chiến lược phát triển kinh tế biển phục vụ các mục tiêu xây dựng, phát triển đất nước, khẳng định chủ quyền của Việt Nam ở khu vực này.


Nhiệm vụ của các nhà giàn là điểm tựa của ngư dân đánh bắt hải sản trên biển, thiết lập các đèn biển, tạo điều kiện thuận lợi cho tàu bè qua lại trên các vùng biển phía Nam Tổ quốc từ Trường Sa đến khu vực Côn Đảo.


Ngoài ra, các lực lượng đóng trên các nhà giàn còn có nhiệm vụ quan trọng khác là đảm bảo yêu cầu sẵn sàng chiến đấu bảo vệ các quyền của Việt Nam trên thềm lục địa phía Nam của Tổ quốc. Hải quân nhân dân Việt Nam chính là lực lượng được giao nhiệm vụ đảm nhận trọng trách đóng quân trên những khu nhà giàn nằm chênh vênh bên thềm lục địa này.


Trung tá Bùi Xuân Bổng, cán bộ gắn bó, làm việc tại nhà giàn từ ngày đầu thành lập chia sẻ, những ngày đầu ra công tác tại nhà giàn chỉ thấy trên là trời dưới là biển, xung quanh thì thiếu đủ thứ như nước ngọt, rau xanh, máy phát điện... và chỉ trông chờ vào tiếp tế. Ngay công tác tiếp tế cũng gặp khó khăn khi nhà giàn chưa có cầu thang, mỗi lần chuyển hàng lên giàn rất nguy hiểm.


Giữa biển trời lồng lộng, các cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ tại các nhà giàn luôn vững vàng như những cây phong ba, dù luôn sống trong những ngôi nhà mọc chông chênh giữa biển. Đã có biết bao thế hệ cán bộ, chiến sĩ dành trọn tuổi thanh xuân của mình để xây dựng, gìn giữ những ngôi nhà giàn trở thành những pháo đài thép hiên ngang giữa biển trời. Thậm chí, không ít máu xương của cán bộ, chiến sĩ nhà giàn đã phải đổ xuống để giữ cho lá cờ đỏ sao vàng tung bay hiên ngang giữa biển trời thăm thẳm, như sự khẳng định đanh thép về chủ quyền của Việt Nam trên thềm lục địa phía Nam.


Và trong tâm trí của những người còn sống, hình ảnh những người lính đã hi sinh trên thềm lục địa chắc chắn sẽ chẳng bao giờ có thể phai nhòa.

Đó là sự hy sinh của anh Nguyễn Hữu Quảng, chính trị viên nhà giàn DK1 – Phúc Tần, khi nhà giàn đổ và trôi dạt nhiều ngày trên biển, anh đã nhường chiếc áo phao và miếng lương khô cuối cùng cho đồng đội có sức khỏe yếu nhất, để rồi anh thanh thản ra đi.


Hay hình ảnh liệt sĩ Vũ Quang Chương, Chỉ huy trưởng nhà giàn DK1 – Phúc Nguyên, trước khi nhà giàn bị cơn bão năm 1998 đánh chìm, anh chỉ kịp mở tủ lấy lá cờ Tổ quốc quấn quanh mình, cuốn sổ vàng truyền thống bỏ vào bao bảo quản ôm theo khi cùng giàn chìm xuống biển.


Cũng trong cơn bão cuồng phong này, hai đồng đội của anh là chuẩn úy chuyên nghiệp, nhân viên ra đa Lê Đức Hồng và thiếu úy chuyên nghiệp, nhân viên cơ điện Nguyễn Văn An cũng đã anh dũng hy sinh.


Nhà giàn DK1/6 đổ hoàn toàn lúc 3h ngày 13-12-1998, 6 cán bộ, chiến sĩ còn lại trên nhà giàn này bị hất tung xuống biển, chống chọi với sóng gió trên chiếc phao bè cũ nát. Sau 14 giờ đồng hồ bơi dưới biển, chiều tối cùng ngày sáu chiến sĩ được tàu HQ-606 của Lữ đoàn 171 cứu vớt.


Trực tiếp chứng kiến sự hy sinh của đồng đội trên giàn DK1/3, Trung tá Bùi Xuân Bổng kể lại, ngày 4-12-1990 tôi đang trong đợt công tác tại nhà giàn DK1/3 thì bất ngờ giàn đổ. Anh em trên nhà giàn trôi dạt lênh đênh trên biển từ đêm mùng 4 đến chiều tối 5-12 thì được tàu HQ 711 cứu và vớt được 5 anh em. Ba anh em còn lại của DK1/3 đã vĩnh viễn nằm lại biển khơi.


Và còn rất nhiều, rất nhiều những tấm gương hy sinh thầm lặng giữa biển khơi, các anh đã kiên cường bám trụ nhà giàn đến hơi thở cuối cùng, chỉ với niềm tin “còn người, còn nhà giàn”. Sự hy sinh của các anh đã viết lên những bản anh hùng ca về chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời kỳ mới, là những tượng đài thép khẳng định dấu mốc chủ quyền bất tử trên biển Đông, trên thềm lục địa của Tổ quốc.


Hồn các anh hòa cùng sóng biển, thân xác các anh neo đậu lại nơi thềm lục địa, trên những rặng san hô xanh biếc một tấc không rời; như tâm hồn người Việt luôn hướng về biển đảo, núm ruột thương yêu của Tổ quốc.


Không chỉ là mốc tiền tiêu khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên thềm lục địa, 34 năm qua, các nhà giàn DK1 còn là những ngọn hải đăng trên thềm lục địa; là chỗ dựa để bà con ngư dân làm ăn tại các vùng biển phía Nam.


Với ngư dân, sau những ngày dài lênh đênh rong ruổi theo những luồng cá trên biển, ánh sáng từ những ngọn đèn trên nhà giàn chính là nguồn động viên tinh thần to lớn với họ; để họ cảm nhận mình không lẻ loi, cô đơn giữa biển cả mênh mông. Nhất là vào những ngày trời mưa bão, khi đại dương nổi cơn phong ba thịnh nộ, giữa khoảng không mù mịt không phân biệt được đâu biển, đâu trời. Những ngôi nhà giàn nhỏ bé giữa trùng khơi ấy lại là điểm tựa vững chắc, là chiếc bè cứu sinh vững vàng cho ngư dân bám trụ.


Đại tá Nguyễn Quốc Văn, Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải quân cho biết, có thể khẳng định sự ra đời, xây dựng và phát triển của các “Trạm dịch vụ kinh tế – khoa học – kỹ thuật” trên vùng biển và thềm lục địa phía Nam gắn liền với quá trình ra đời, xây dựng và trưởng thành của Tiểu đoàn DK1 thuộc Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải quân.

Đây là chủ trương đúng đắn, sáng suốt, đồng thời cũng thể hiện quyết tâm cao của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương – Bộ Quốc phòng trong nhiệm vụ phát triển kinh tế gắn với bảo vệ chủ quyền vùng biển, thềm lục địa phía Nam của Tổ quốc, làm điểm tựa niềm tin cho ngư dân vươn khơi bám biển.


Ba mươi tư năm qua, liên tục bám biển, gắn bó với vùng biển, thềm lục địa phía Nam Tổ quốc, các thế hệ cán bộ, chiến sỹ Nhà giàn DK1 qua các thời kỳ đã xây đắp nên truyền thống vẻ vang: “Kiên cường, dũng cảm, vượt mọi khó khăn, đoàn kết, kỷ luật, giữ vững chủ quyền”. Đó vừa là niềm vinh dự, vừa là niềm tự hào và trọng trách to lớn mà thế hệ cán bộ, chiến sỹ Tiểu đoàn DK1 hôm nay đang gìn giữ, phát huy trong thực hiện nhiệm vụ và xây dựng đơn vị.


Qua 34 năm xây dựng và phát triển, nhiều tấm gương cán bộ, chiến sỹ đã mãi mãi nằm lại với biển khơi, hóa thân cùng sóng nước, trở thành tượng đài tinh thần quý giá thôi thúc động viên, nâng bước các thế hệ hôm nay và mai sau. Với lính nhà giàn, một điều đáng quý nữa đó là tinh thần đoàn kết, lạc quan, yêu thương, đùm bọc, động viên lẫn nhau để thực hiện nhiệm vụ, đồng thời các cán bộ, chiến sỹ nhà giàn luôn là điểm tựa hỗ trợ, giúp đỡ ngư dân vươn khơi bám biển, phát triển kinh tế trên vùng biển, thềm lục địa phía Nam của Tổ quốc./.

ST