Thứ Năm, 6 tháng 4, 2023

Bảo đảm an sinh xã hội cho lao động khu vực phi chính thức - Vấn đề và giải pháp.

  Ở Việt Nam, lao động khu vực phi chính thức đã tồn tại từ lâu và hiện đang giữ vị trí, vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập, giảm nghèo. Trong khi đó,  bảo đảm an sinh xã hội cho lao động khu vực phi chính thức đang gặp nhiều vấn đề nan giải đòi hỏi phải được nhận thức đầy đủ và tìm giải pháp can thiệp phù hợp.

Nhận thức mới về khu vực phi chính thức

Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), khu vực phi chính thức bao gồm khu vực kinh tế phi chính thức và việc làm phi chính thức, ở đó có một bộ phận không nhỏ người lao động làm việc. Với khái niệm này, về không gian, khu vực phi chính thức có địa bàn rất rộng, bao gồm cả kinh tế phi chính thức ở nông thôn (người lao động làm phi nông, lâm nghiệp, thủy sản) và kinh tế phi chính thức ở thành thị. Đó là phân khúc thị trường lao động “vùng đệm”, tạo cơ hội việc làm cho người lao động hướng tới thị trường lao động hoàn hảo, đạt được sự nhất thể hóa thành một khu vực kinh tế hoàn toàn chính thức của quốc gia, cả ở thành thị và nông thôn.

Lao động khu vực phi chính thức giữ vị trí, vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập, giảm nghèo_ Ảnh: Tư liệu

Ở nước ta, ngày 13-9-2019, Tổng cục Thống kê ban hành Công văn số 1127/TCTK-TKQG “Về hướng dẫn sử dụng khái niệm khu vực phi chính thức và hoạt động tự sản, tự tiêu của hộ gia đình”. Theo đó, “khu vực phi chính thức bao gồm các cơ sở sản xuất kinh doanh phi nông, lâm nghiệp và thủy sản, sản xuất sản phẩm (vật chất, dịch vụ) để bán, trao đổi và không phải đăng ký kinh doanh”. Theo Tổng cục Thống kê, hiện nay, khái niệm về lao động phi chính thức được hiểu là những lao động có việc làm bấp bênh, thiếu ổn định, thu nhập thấp, không có hợp đồng lao động hoặc có, nhưng không được đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, không được chi trả các chế độ phụ cấp và các khoản phúc lợi xã hội khác.

Sau hơn 35 năm đổi mới, thị trường lao động đã và đang phát triển với nhiều phân khúc thị trường ở cả hai khu vực chính thức và phi chính thức, nhưng có sự chuyển dịch lao động (bên cung lao động) phù hợp với yêu cầu của người sử dụng lao động (bên cầu lao động) theo hướng chuyển mạnh sang khu vực kinh tế chính thức, nơi có quan hệ lao động, kể cả ở kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tốt hơn. Quá trình chuyển dịch theo hướng này cũng có một bộ phận lao động khu vực phi chính thức tham gia.

Trong những năm gần đây, do tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các loại hình kinh tế phi chính thức mới đã hình thành, như “kinh tế tuần hoàn”, “kinh tế chia sẻ”, “kinh tế tự do” hay “kinh tế Gig” (Gig Economy) dựa trên nền tảng trực tuyến (qua ứng dụng công nghệ), như bán hàng trực tuyến (online), giao hàng (shipper), lái xe công nghệ (Grap, Uber)... Đây là những hình thức việc làm mới dựa trên ứng dụng công nghệ và đang ngày càng phát triển, tạo ra số lượng lao động khu vực phi chính thức ngày càng lớn ở nước ta.

Về mặt cầu lao động, sự ra đời và phát triển nền kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh tế Gig,... làm cho phân công lao động khu vực phi chính thức ngày càng đa dạng hơn. Từ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thị trường lao động quốc gia cũng như thị trường lao động quốc tế ngày càng mở rộng hơn về hình thức, không gian, nhu cầu lao động, đặc biệt trên phân khúc thị trường lao động khu vực phi chính thức, và do đó, tạo ra nhiều cơ hội về việc làm và gia tăng thu nhập cho lao động khu vực phi chính thức. Tuy nhiên, kinh tế chia sẻ, kinh tế Gig,... đòi hỏi người lao động phải có kỹ năng nghề nghiệp phù hợp với vị trí việc làm độc lập, nhất là kỹ năng nghề liên quan đến ứng dụng khoa học - kỹ thuật, công nghệ. Có thể thấy, công nghệ là cơ hội, nhưng cũng là rào cản với lao động, nhất là lao động trẻ khu vực phi chính thức chưa qua đào tạo hoặc mới được đào tạo kỹ năng nghề trình độ thấp.

Về mặt cung lao động, người lao động làm việc trong nền kinh tế chia sẻ, kinh tế tự do hay kinh tế Gig có cơ hội thuận lợi để phát huy năng lực cá nhân và thỏa mãn không chỉ nhu cầu của xã hội, mà còn thỏa mãn nhu cầu của cá nhân trong tự do lựa chọn việc làm. Với một môi trường tự do, người lao động không bị ràng buộc trong một không gian, thời gian xác định nên có thể kết hợp tối ưu giữa làm việc và giải quyết các vấn đề trong cuộc sống cá nhân, gia đình.

Bảo đảm an sinh xã hội cho người dân nói chung, bao gồm cả lao động khu vực phi chính thức là một trong những quyền cơ bản của con người được hiến định tại Điều 34, Hiến pháp năm 2013: “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội”. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định “Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân”(1).

Từ những nhận thức mới về khu vực phi chính thức nêu trên và với tính đặc thù của lao động khu vực phi chính thức như là một trong những nhóm lao động yếu thế trên thị trường lao động, có nhiều nguy cơ rủi ro về việc làm, vấn đề cấp thiết đặt ra là phải bảo đảm an sinh xã hội bền vững bằng các chính sách của Nhà nước, sự tham gia của cộng đồng xã hội và sự nỗ lực vươn lên, tự bảo đảm an sinh xã hội của người lao động.

Một số vấn đề trong bảo đảm an sinh xã hội cho lao động khu vực phi chính thức

Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn thực hiện đồng bộ nhiều chính sách giảm thiểu và khắc phục những khiếm khuyết của kinh tế thị trường để bảo vệ người lao động, tạo môi trường và điều kiện để người lao động có cơ hội công bằng và bình đẳng trong tiếp cận các chính sách an sinh xã hội trên cơ sở bảo đảm quyền con người, hướng tới bao phủ toàn dân. Điều này được thể hiện rất rõ trong các quy định pháp luật hiện hành, như Bộ luật Lao động, Luật Việc làm, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật An toàn, vệ sinh lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế... Các luật này có những điều khoản điều chỉnh quan hệ việc làm có an sinh xã hội đối với người lao động khu vực phi chính thức, có tính đến trợ giúp xã hội cho người lao động khu vực phi chính thức gặp rủi ro trên thị trường lao động, bảo đảm các quyền lợi cho người lao động, để họ được phát triển kỹ năng nghề nghiệp, việc làm và thu nhập tương xứng với năng lực làm việc, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành, nghề, từng bước chuyển vững chắc từ khu vực kinh tế phi chính thức sang khu vực chính thức, đồng thời bảo đảm bảo hiểm xã hội bắt buộc/tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế được thực hiện theo hướng toàn dân.

Nhìn tổng thể, thị trường lao động Việt Nam đang diễn ra quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo cơ cấu kinh tế, lao động chuyển từ khu vực phi chính thức sang khu vực chính thức. Theo Tổng cục Thống kê(2), tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực nông, lâm và thủy sản giảm từ 41,9% quý III năm 2016 xuống còn 27,6% quý III/2022. Tương ứng lao động khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng từ 58,1% lên 72,4%. Điều đó có nghĩa là, một bộ phận không nhỏ lao động từ khu vực phi chính thức đã dịch chuyển sang khu vực chính thức, nhất là ở khu vực nông nghiệp, nông thôn. Chỉ riêng năm 2022, tỷ lệ lao động làm việc khu vực phi chính thức (kể cả phi nông nghiệp) đến quý III là 54,1%, giảm 1,5 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,4 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ phi chính thức giảm mạnh ở khu vực thành thị, tỷ lệ này ở khu vực thành thị quý III năm 2022 là 45,4%, giảm 2,1 điểm phần trăm so với quý trước và 0,8 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ này ở khu vực nông thôn là 61,4%, giảm 0,9 điểm phần trăm so với quý trước và 0,4 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước(3).

Đến năm 2022, cả nước có 83 trung tâm dịch vụ việc làm thực hiện các nhiệm vụ dự báo cung - cầu lao động, thông tin thị trường lao động, giới thiệu việc làm, tư vấn học nghề, thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp, tư vấn chính sách, pháp luật cho người lao động và người sử dụng lao động. Giai đoạn 2012 - 2020, các trung tâm đã thực hiện các hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm cho khoảng 23 triệu lượt lao động trên thị trường lao động, kể cả lao động từ khu vực phi chính thức chuyển sang làm việc khu vực chính thức, bình quân mỗi năm 2,875 triệu lượt lao động. 45/83 trung tâm tổ chức sàn giao dịch việc làm định kỳ, thường xuyên. Hằng năm, khoảng 750 - 800 phiên giao dịch việc làm được tổ chức trên phạm vi cả nước, bình quân mỗi phiên giao dịch thu hút khoảng 40 - 50 doanh nghiệp với khoảng 650 - 750 lượt lao động khu vực phi chính thức tham gia(4). Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động khu vực thành thị, chủ yếu là lao động khu vực phi chính thức, luôn duy trì dưới 4%, tỷ lệ thất nghiệp chung luôn ở mức thấp, chỉ dao động khoảng 2 - 2,2%.

Đào tạo nguồn nhân lực ngày càng đa dạng về loại hình, trình độ đào tạo và mô hình hoạt động với tổng số 1.911 cơ sở giáo dục nghề nghiệp(5), tạo cơ hội cho người lao động, nhất là lao động trẻ khu vực phi chính thức tiếp cận công bằng. Nhờ đó, góp phần đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ từ sơ cấp trở lên đến năm 2020 đạt 24,1%, tạo điều kiện tiên quyết và cơ hội cho lao động tự tạo việc làm khu vực phi chính thức hoặc chuyển vào làm việc khu vực chính thức.

Hệ thống bảo hiểm xã hội từng bước được xây dựng, hoàn thiện theo hướng hiện đại, đa tầng, chia sẻ, hiệu quả nên độ bao phủ tăng. Năm 2021, số người tham gia bảo hiểm xã hội đạt 10,2 triệu người (chiếm 22,76% lực lượng lao động), đến năm 2021 tăng lên 16,5 triệu người (chiếm 33,75% lực lượng lao động). Trong đó, số người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, đạt 1,4 triệu người (chiếm 2,94% lực lượng lao động), phần lớn là lao động khu vực phi chính thức.

Khám bệnh, tư vấn chăm sóc sức khỏe hậu COVID-19 cho người lao động_Nguồn: congdoan.quangtri.gov.vn

Năm 2016, số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp là 11,1 triệu người (chiếm 23,19% lực lượng lao động), đến năm 2021 tăng lên 13,4 triệu người (chiếm 27,33% lực lượng lao động), gần đạt được mục tiêu đề ra cho năm 2021 của Nghị quyết số 28/NQ-TW(6). Tuy nhiên, lao động khu vực phi chính thức chưa được tham gia bảo hiểm thất nghiệp.

Về bảo hiểm y tế, tính đến hết tháng 6-2022, cả nước có trên 86,8 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, đạt tỷ lệ bao phủ 88,99% dân số...(7). Trong đó, phần lớn lao động khu vực phi chính thức mua hoặc được hỗ trợ của Nhà nước mua thẻ bảo hiểm y tế.

Đặc biệt, trong 2 năm 2020 và 2021, Việt Nam thực hiện chính sách, biện pháp mạnh vừa chống dịch COVID-19, vừa duy trì, khôi phục sản xuất, bảo đảm an ninh việc làm và an sinh xã hội cho người lao động, người dân, nhất là lao động khu vực phi chính thức, thể hiện trong các quyết sách lớn của Chính phủ(8). Đó là những quyết sách xử lý tình huống khẩn cấp, kịp thời ứng phó với đại dịch COVID-19 thông qua gói hỗ trợ rất lớn từ ngân sách nhà nước/Ngân hàng Chính sách xã hội, huy động cộng đồng và đã được triển khai đạt kết quả tốt. Với những giải pháp quyết liệt và hiệu quả trong việc thực hiện mục tiêu kép “vừa phòng, chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế - xã hội”, kinh tế Việt Nam đạt được những kết quả tích cực. Kinh tế vĩ mô ổn định, tăng trưởng dương. GDP năm 2020 tăng 2,91%, năm 2021 tăng 2,58% và năm 2022 tăng 8,02%, mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2011 - 2022. Người lao động bị mất việc làm hoặc dãn việc làm ở khu vực chính thức, nhất là khu vực phi chính thức được hỗ trợ kịp thời để khắc phục khó khăn và sớm trở lại thị trường lao động, qua đó, góp phần bảo đảm an sinh xã hội cho người lao động, nhất là ở khu vực phi chính thức.

Lao động khu vực phi chính thức là một trong những đối tượng được quan tâm trong hệ thống chính sách an sinh xã hội quốc gia, giúp phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro tốt hơn về việc làm trên thị trường lao động và trong cuộc sống, thể hiện rất rõ khi đại dịch COVID-19 xảy ra những năm vừa qua. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề lớn đặt ra cần giải quyết, đó là:

Thứ nhất, nhận thức về vai trò của khu vực phi chính thức ở nước ta vẫn còn chưa đầy đủ, toàn diện; chưa có những nghiên cứu cơ bản và cập nhật về khu vực phi chính thức. Đây là vấn đề rất quan trọng, làm nền tảng cho những quyết sách của Nhà nước ứng xử với các loại hình kinh tế mới, với phân khúc thị trường lao động khu vực phi chính thức, đặc biệt là trong giai đoạn phát triển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Thứ hai, do tính chất lao động đặc thù của khu vực phi chính thức là không có cơ chế 3 bên, cơ chế 2 bên trong thương lượng, đối thoại, thỏa thuận về việc làm; cũng không có tổ chức đại diện để bảo vệ người lao động nên nguy cơ rủi ro về việc làm, nghề nghiệp và cuộc sống rất lớn.

Thứ ba,  có nhiều rủi ro, nhất là về việc làm, tiền lương và thu nhập, nhưng người lao động trong khu vực phi chính thức lại chưa được hưởng các chính sách, chế độ an sinh xã hội cơ bản, như bảo hiểm xã hội (trừ một số tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện), bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, giờ lao động và chế độ nghỉ ngơi, nghỉ phép, ốm đau, thai sản...

Thứ tư, còn những bất cập trong quản lý nhà nước đối với phân khúc thị trường lao động khu vực phi chính thức nói chung, bảo đảm an sinh xã hội cho người lao động khu vực này nói riêng. Đó là khuôn khổ pháp lý về khu vực phi chính thức chưa đáp ứng yêu cầu, chưa thực sự giải quyết hiệu quả các vấn đề thực tiễn nảy sinh; thiếu hệ thống dữ liệu đồng bộ và toàn diện về thị trường lao động khu vực phi chính thức để kết nối cung  - cầu lao động; năng lực dự báo, tầm nhìn chiến lược về sự phát triển của thị trường lao động khu vực phi chính thức chưa đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới.

Một số giải pháp thời gian tới

Một là, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn khu vực phi chính thức trong tình hình mới nhằm nâng cao nhận thức và phát hiện những yêu cầu mới về chính sách bảo đảm an sinh xã hội cho người lao động làm việc ở khu vực này. Cần có các công trình nghiên cứu lý luận chuyên sâu, học hỏi kinh nghiệm quốc tế và khảo sát, đánh giá, tổng kết thực tiễn về thị trường lao động khu vực phi chính thức để có nhận thức đúng, phù hợp với thế giới và đặc thù của Việt Nam. Đây là vấn đề rất quan trọng, làm nền tảng cho những quyết sách của Nhà nước về phát triển khu vực phi chính thức, bổ sung, hoàn thiện chính sách về thị trường lao động, bảo đảm an sinh xã hội cho người lao động khu vực này phù hợp với bối cảnh, điều kiện Việt Nam hiện tại cũng như trong tương lai.

Hai là, tăng cường phát triển, nâng cao chất lượng lực lượng lao động khu vực phi chính thức, đặc biệt là khi tham gia làm việc trong các loại hình kinh tế mới trên nền tảng công nghệ trực tuyến, có ứng dụng công nghệ. Đồng thời, thúc đẩy lao động khu vực này chuyển mạnh sang khu vực chính thức trên cơ sở tạo cơ hội và điều kiện để họ tham gia vào các chương trình đào tạo, đào tạo lại và nâng cao tay nghề để theo kịp yêu cầu kỹ năng nghề nghiệp của thị trường lao động theo hai hướng: 1-  Nhà nước cần tiếp tục thực hiện chính sách hiện hành về giáo dục nghề nghiệp, tập trung cho lao động khu vực phi chính thức có đủ năng lực tiếp cận, chuyển sang việc làm khu vực chính thức - nơi có quan hệ lao động và bảo đảm an sinh xã hội tốt hơn, trong đó, phát triển các kỹ năng cơ bản, cần thiết để thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, như phát triển đa kỹ năng, thạo một nghề chuyên sâu, biết nhiều nghề liên quan; kỹ năng sáng tạo trong lao động; kỹ năng giải quyết các vấn đề chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ phức tạp; kỹ năng đàm phán, thương lượng và thỏa thuận về việc làm với người sử dụng lao động (về vị trí việc làm, tiền công - tiền lương, bảo hiểm xã hội, an toàn, vệ sinh lao động và các điều kiện làm việc khác); kỹ năng làm việc theo nhóm, trong môi trường đa văn hóa; kỹ năng ngoại ngữ, tin học... Người lao động khu vực phi chính thức khi có đủ những kỹ năng này sẽ có ưu thế lớn trong tiếp cận việc làm khu vực chính thức; đồng thời, có thể thích ứng nhanh chóng với sự thay đổi việc làm trên thị trường lao động khu vực phi chính thức trong các loại hình kinh tế mới với thu nhập cao, bảo đảm và có khả năng tự bảo đảm an sinh xã hội tốt hơn; 2- Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với thị trường lao động khu vực phi chính thức gắn với bảo đảm an sinh xã hội cho người lao động, đồng bộ với quản lý thị trường lao động trên phạm vi cả nước. Cụ thể, cần tập trung nâng cao chất lượng hoạt động dự báo về sự phát triển và thông tin đầy đủ, toàn diện, kịp thời về thị trường lao động khu vực phi chính thức trong tổng thể hệ thống dự báo và thông tin thị trường lao động quốc gia. Bổ sung, hoàn thiện chính sách quản lý hiệu quả rủi ro về việc làm, bảo đảm an sinh xã hội bền vững hơn cho người lao động trên thị trường lao động khu vực phi chính thức. Nghiên cứu, bổ sung các chính sách hỗ trợ lao động khu vực phi chính thức trong đào tạo phát triển kỹ năng nghề nghiệp và giới thiệu việc làm (miễn, giảm phí đào tạo, phí dịch vụ giới thiệu việc làm,...) để có thể tiếp cận việc làm qua ứng dụng công nghệ trong kinh tế chia sẻ hoặc kinh tế Gig..., hoặc tìm việc làm khu vực chính thức. Trợ giúp xã hội đột xuất từ nguồn ngân sách bố trí hằng năm hoặc từ nguồn kết dư của Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp; hỗ trợ mua bảo hiểm y tế cho hộ nghèo, hộ cận nghèo. Nghiên cứu ban hành chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với lao động khu vực phi chính thức làm việc trong kinh tế chia sẻ, kinh tế Gig,... có thu nhập cao qua giám sát thuế thu nhập theo quan hệ đóng - hưởng bằng hình thức hoạch toán “tài khoản cá nhân danh nghĩa”. Người lao động được giảm một phần thuế thu nhập khi tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc; được hưởng quyền lợi như lao động khu vực chính thức và tiền đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc được coi là tài sản riêng, được thừa kế khi chết...

Ba là, mở rộng hệ thống dịch vụ việc làm quốc gia, nhất là ở các đô thị, tiếp cận việc làm áp dụng công nghệ cao, trực tuyến để cung cấp thông tin thị trường lao động, dịch vụ việc làm, kết nối cung - cầu lao động trên phân khúc thị trường lao động khu vực phi chính thức và kết nối cung lao động khu vực phi chính thức với cầu lao động trên thị trường lao động khu vực chính thức để thúc đẩy nhanh chuyển dịch lao động khu vực phi chính thức sang khu vực chính thức, nơi có hệ thống an sinh xã hội bảo đảm hơn.

Bốn là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, nhất là với Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và các tổ chức phi chính phủ (NGOs) quốc tế tại Việt Nam,... trong việc nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm và hỗ trợ kỹ thuật đào tạo, khảo sát thực tế về khu vực kinh tế phi chính thức và thị trường lao động khu vực phi chính thức, nhất là về các loại hình kinh tế, việc làm mới dựa trên nền tảng trực tuyến (qua ứng dụng công nghệ) ở Việt Nam, làm cơ sở thống nhất nhận thức, khuyến nghị với Nhà nước bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật về bảo đảm an sinh xã hội cho người lao động làm việc ở khu vực này./.

--------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 47
(2) Thông cáo Báo chí tình hình lao động việc làm quý III và 9 tháng năm 2016, Thông cáo Báo chí tình hình lao động việc làm quý III và 9 tháng năm 2022
(3) Xem: Tổng cục Thống kê: “Thông cáo báo chí tình hình lao động việc làm quý III và 9 tháng năm 2022”, Trang Thông tin điện tử Tổng cục Thống kê, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2022/10/thong-cao-bao-chi-tinh-hinh-lao-dong-viec-lam-quy-iii-va-9-thang-nam-2022/
(4) Nguồn: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: “Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa XI “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020”” (phần về lĩnh vực việc làm), 2022
(5) Tổng số 1.911 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, bao gồm: 410 trường cao đẳng, 444 trường trung cấp và 1.057 trung tâm giáo dục nghề nghiệp, giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên; trong đó, có 688 cơ sở giáo dục nghề nghiệp tư thục và có vốn đầu tư nước ngoài
(6) Theo Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 23-5-2018, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII: Mục tiêu phấn đấu đến năm 2021, số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp đạt 28% lực lượng lao động trong độ tuổi; đến năm 2025 đạt 35% và đến năm 2030 đạt 45%
(7) Xem: “Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 88,99% dân số”, Cổng Thông tin điện tử Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, ngày 8-7-2022, http://www.molisa.gov.vn/Pages/tintuc/chitiet.aspx?tintucID=231657
(8) như Nghị quyết số 68/NQ-CP, ngày 1-7-2021 “Về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19” (12 chính sách); Nghị quyết số 86/NQ-CP, ngày 6-8-2021, “Về các giải pháp cấp bách phòng, chống dịch bệnh COVID-19 để thực hiện Nghị quyết số 30/2021/QH15, ngày 28-7-2021, của Quốc hội khóa XV”; Nghị quyết số 145/NQ-CP, ngày 19-11-2021, “Về điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung một số chế độ, chính sách trong phòng, chống dịch COVID-19”...

Cục diện thế giới năm 2022: Định hình trong bất định.

  Trong khoảng ba năm trở lại đây, nhất là năm 2022, thế giới trải qua một giai đoạn biến động chưa từng có, ảnh hưởng không nhỏ đến dòng chảy phát triển chung của toàn cầu. Xâu chuỗi những sự kiện và dấu ấn của mỗi năm cho thấy sự tiếp nối của những xu thế chuyển dịch trước đó, đồng thời mang hàm ý chỉ dấu về một cục diện thế giới mới đang manh nha định hình.

Bức tranh chính trị thế giới đa sắc màu, phức tạp và biến động

Năm 2022 đã khởi đầu với những tín hiệu có phần tích cực khi đại dịch COVID-19 cơ bản được kiểm soát ở đa số quốc gia; nền kinh tế thế giới bước vào giai đoạn phục hồi sau đại dịch, mặc dù tiềm ẩn nhiều rủi ro; nhân loại chia sẻ những nhận thức chung về tầm quan trọng của một “mái nhà chung” ổn định và bền vững. Song, bên cạnh các tín hiệu tích cực, những diễn biến sau đó trong năm 2022 cũng phản ánh một bức tranh chính trị thế giới đa sắc màu, phức tạp và nhiều biến động.

Cuộc xung đột Nga - U-crai-na nổ ra vào cuối tháng 2-2022 là sự kiện bất ngờ, ảnh hưởng sâu sắc đến an ninh - chính trị toàn cầu cũng như hòa bình, ổn định của nhân loại.

Giống như đại dịch COVID-19 bùng phát vào đầu năm 2020 đã làm xáo trộn thế giới, cuộc xung đột Nga - U-crai-na xảy ra khiến cục diện chính trị - an ninh ở khu vực châu Âu thay đổi sâu sắc nhất kể từ sau Chiến tranh lạnh, một mặt, tạo ra những rạn nứt khó có thể hàn gắn giữa châu Âu và Nga; mặt khác, “vô tình” thúc đẩy sự gắn kết hơn của châu Âu với nhu cầu mở rộng hơn nữa Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Trong khi đó, ở tầm quốc tế, cuộc xung đột Nga - U-crai-na thúc đẩy hơn nữa xu hướng phân tuyến trong quan hệ quốc tế, làm dấy lên mối lo ngại lớn về giá trị, hiệu quả của luật pháp quốc tế và chuẩn mực quốc tế, cũng như các cơ chế kiểm soát, ngăn ngừa xung đột. Cuộc xung đột Nga - U-crai-na được dự báo sẽ còn tiếp tục phức tạp, ngay cả khi các bên bước vào bàn đàm phán.

Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky có cuộc gặp với Tổng thống Mỹ Joe Biden tại Nhà Trắng, ngày 21-12-2022_Nguồn: Getty

Nền kinh tế thế giới năm 2022 trải qua 12 tháng biến động mạnh mẽ khi không thể tiếp bước được đà phục hồi như kỳ vọng sau đại dịch COVID-19. Tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2022 ước tính đạt khoảng 3,2%, giảm nhiều so với mức tăng trưởng của năm 2021 là khoảng 5,9%(1). Nguyên nhân chủ yếu là do cuộc xung đột Nga - U-crai-na đã làm cho chuỗi cung ứng ở châu Âu và toàn cầu đứt gãy nặng nề hơn, gây ra cuộc khủng hoảng năng lượng và lương thực, đẩy lạm phát ở nhiều thị trường lên mức cao nhất trong nhiều thập niên qua. Kinh tế khó khăn đã làm phát sinh các áp lực và bất ổn chính trị - xã hội tại nhiều quốc gia.

Tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2023 được dự báo sẽ tiếp tục suy giảm (còn khoảng 2,7%)(2). Một trong những khía cạnh đáng quan ngại hơn là nguy cơ suy thoái kinh tế, thậm chí khủng hoảng kinh tế ở cấp độ toàn cầu. Những yếu tố bất định của nền kinh tế thế giới vẫn tồn tại với nhiều xu thế đang diễn ra, như vấn đề chuyển dịch chuỗi cung ứng, sự phân tách giữa kinh tế và công nghệ hay các rủi ro đến từ cạnh tranh nước lớn cũng như xung đột tại các “điểm nóng” trên toàn cầu. Mặc dù không phải là những yếu tố mới, song sự cộng hưởng cùng lúc của nhiều sức ép đa chiều sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới nỗ lực chung của nhân loại để thúc đẩy phục hồi bền vững, tăng trưởng xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu trong năm 2023.

Nước lớn và mối quan hệ giữa các nước lớn tiếp tục là động lực mạnh mẽ và quyết định đến tình hình chính trị quốc tế năm 2022. Tại Mỹ, việc Đảng Dân chủ giữ được quyền kiểm soát Thượng viện sẽ tiếp tục là một trong những nhân tố thuận lợi để chính quyền Tổng thống Mỹ G. Bai-đơn triển khai chính sách đối nội và đối ngoại trong thời gian tới, trong đó có việc giải quyết các vấn đề xã hội, nâng cao nội lực kinh tế Mỹ và triển khai chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở (IPS). Bầu cử giữa kỳ và khủng hoảng chính trị trong nội bộ Đảng Cộng hòa trong quá trình bỏ phiếu bầu Chủ tịch Hạ viện Mỹ cuối năm 2022 là chỉ dấu công khai mới về những mâu thuẫn sâu sắc trong lòng nước Mỹ, ngầm báo hiệu một cuộc chạy đua vào Nhà Trắng với nhiều biến số trong năm 2023 và năm 2024.

Tại Trung Quốc, Đại hội XX Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đánh dấu giai đoạn phát triển mới, hướng đến việc hoàn thành mục tiêu “100 năm lần thứ hai”. Việc định hình và làm rõ tư duy, đường hướng chính sách, nhất là mối quan hệ giữa an ninh và phát triển, nhận định về thế giới và tự định vị bản thân, hay việc xác lập rõ hơn mối quan hệ giữa tự chủ, nội lực và mối quan hệ, tương tác với bên ngoài - là những bước chuyển quan trọng. Đại hội XX Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tiếp tục bổ sung những sáng kiến, tầm nhìn chiến lược được đưa ra trước đó, như Chiến lược “vòng tuần hoàn kép”, Sáng kiến Phát triển toàn cầu (GDI), Sáng kiến An ninh toàn cầu (GSI) và Cộng đồng chung vận mệnh nhân loại. Những sáng kiến chiến lược này là cơ sở để Trung Quốc tiếp tục hiện thực hóa “giấc mộng Trung Hoa” và theo đuổi tầm nhìn về một trật tự thế giới mới khác với trật tự vốn được thống trị và theo quy chuẩn của phương Tây.

Quan hệ Mỹ - Trung Quốc trải qua nhiều thăng trầm trong năm 2022, được cho là rơi xuống mức thấp nhất kể từ nhiều thập niên qua sau chuyến thăm Đài Loan (Trung Quốc) của Chủ tịch Hạ viện Mỹ Nan-cy Pe-lô-xi vào tháng 8-2022. Bên cạnh đó, Mỹ lần lượt triển khai các sáng kiến tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, thông qua đạo luật CHIPS... Những “hàng rào an toàn” (guard rails) được ngầm hiểu từ trước nhằm kiểm soát quan hệ hai nước đã không được sử dụng hiệu quả.

Năm 2022 cũng chứng kiến việc Mỹ và Trung Quốc triển khai các bước đi chiến lược theo các xu hướng đối lập nhau. Mỹ chuyển trọng tâm từ lĩnh vực an ninh sang kinh tế, từ Nhóm “Bộ Tứ kim cương” (QUAD), Hợp tác an ninh ba bên giữa Mỹ, Anh và Ô-xtrây-li-a (AUKUS) sang Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (IPEF), trong khuôn khổ khu vực như IPS. Trong khi đó, Trung Quốc chuyển trọng tâm từ lĩnh vực kinh tế sang an ninh, từ Sáng kiến “Vành đai, Con đường” (BRI), GDI sang GSI trên cấp độ toàn cầu (GSI, GDI và cộng đồng chung vận mệnh). Đây vừa là nỗ lực của hai cường quốc trong cung cấp “sản phẩm công” cho thế giới, vừa là công cụ phục vụ cạnh tranh vị trí siêu cường.

Những động thái song phương của Mỹ và Trung Quốc vào cuối năm 2022, nhất là sau Hội nghị thượng đỉnh Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G-20, tháng 11-2022) cho thấy, hai nước đang tìm kiếm những giới hạn mới nhằm kiểm soát quan hệ, với biên độ dao động cao hơn trước. Hai nước sẽ cạnh tranh và gia tăng khả năng tự chủ, tuy không loại bỏ hoàn toàn hợp tác trong một số lĩnh vực, thậm chí hòa hoãn trong ngắn hạn. Nhưng cả hai siêu cường đều được cho là đang ở trong “thế kẹt” của chủ nghĩa dân tộc nước lớn, khiến việc hợp tác ngày càng khó khăn. Vì thế, cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc sẽ tiếp tục là xu hướng lâu dài, với tâm điểm là sự phân tách công nghệ và “bàn cờ” chiến lược tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.

Tập hợp lực lượng trên thế giới năm 2022 vẫn tiếp tục linh hoạt theo vấn đề, lĩnh vực, thời điểm, chọn lợi ích hơn chọn phe, đồng thời cũng xuất hiện xu hướng phân tuyến ngày một rõ nét hơn. Sự phân tuyến này nhanh chóng lan rộng với việc các quốc gia “chính trị hóa”, “vũ khí hóa” các lĩnh vực hợp tác, từ kinh tế, công nghệ, đến văn hóa  - xã hội... Song song với những diễn biến quân sự tại U-crai-na là những rạn nứt chính trị - ngoại giao tại các cơ chế Liên hợp quốc và các diễn đàn đa phương khu vực và quốc tế, như Nhóm các nền công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G-7), G-20, Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM), Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc (COP)... Tác động của nhân tố hệ giá trị và cạnh tranh mô hình hệ thống chính trị bộc lộ ngày càng rõ. Điều này không chỉ làm giảm thiểu cơ hội cho hòa giải, hợp tác, gia tăng thêm rủi ro về xung đột leo thang, mà còn dấy lên mối quan ngại về một cuộc Chiến tranh lạnh kiểu mới.

Định hình chiến lược và tự chủ chiến lược của các quốc gia được thể hiện rõ nét trong năm 2022, là hệ quả và cũng là phản ứng của các nước trước những chuyển dịch bất định đang diễn ra trên thế giới. Các nước lần lượt công bố chiến lược mới, như Mỹ với Chiến lược An ninh quốc gia, Chiến lược Quốc phòng và khởi động đàm phán khuôn khổ IPEF; Trung Quốc với các sáng kiến an ninh toàn cầu; Nga với học thuyết “thế giới Nga”; Liên minh châu Âu (EU) đưa ra khái niệm “Chiến lược mới”. Các quốc gia tầm trung, như Ca-na-đa, Pháp và Hàn Quốc, cũng lần lượt công bố chiến lược hoặc tầm nhìn chiến lược về Ấn Độ Dương  - Thái Bình Dương. Những chiến lược mới trên cho thấy các nước đều nhìn nhận một thế giới đang biến động, quan hệ quốc tế và tập hợp lực lượng chuyển dịch nhanh chóng, trật tự và hệ thống quốc tế đang thay đổi,... buộc các nước phải định vị lại mình, tư duy lại về lợi ích quốc gia  - dân tộc, về “đối tác” để hợp tác và liên kết, về “đối tượng” để phòng ngừa và ứng phó, về chiến lược và sách lược trong bối cảnh mới, nhấn mạnh gia tăng sức mạnh quân sự và giảm thiểu sự phụ thuộc về kinh tế.

Tự chủ chiến lược(3) vì thế trở thành “từ khóa” nổi lên của năm 2022. Điển hình của xu hướng này không chỉ có Mỹ, Trung Quốc, Nga, mà còn cả EU, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, In-đô-nê-xi-a..., thậm chí ở cả các nước nhỏ. Đây vốn không phải là tư duy mới, khi nhiều thập niên trước đã có những tranh luận về hội nhập và phụ thuộc, về mặt trái của đan xen lợi ích và tùy thuộc lẫn nhau, về tính bền vững, hiệu quả của các cam kết quốc tế... Vấn đề này đang được quan tâm hơn bao giờ hết khi các quốc gia nhận thấy cần phải tăng cường khả năng tự quyết định vận mệnh của mình trong một thế giới bất ổn về an ninh và rủi ro hơn về phát triển. Nếu như trước đây, tự chủ chiến lược chủ yếu đề cập đến kinh tế, thì hiện nay tự chủ chiến lược được hiểu theo nghĩa rộng hơn, cả về quân sự, chính trị và ngoại giao... Tự chủ chiến lược không có nghĩa là thu hẹp liên kết, mà là sự tinh chỉnh liên kết, giảm thiểu mặt trái của liên kết nhằm gia tăng nội lực hơn. Thực tiễn cho thấy, các quốc gia đều ưu tiên tự chủ chiến lược, đồng thời nỗ lực thúc đẩy tìm kiếm các liên kết quốc tế mới và nội hàm mới trong những năm vừa qua.

Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị và Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken tại cuộc gặp ở Bali (Indonesia), ngày 9-7-2022_Nguồn: AP

Những chỉ dấu của một cục diện thế giới mới

Theo quan niệm của chủ nghĩa hiện thực, chủ thể chính của đời sống chính trị quốc tế là các quốc gia. Quan hệ hợp tác và đấu tranh, tương quan so sánh lực lượng giữa các quốc gia, những “luật chơi” và chuẩn mực trong hệ thống quốc tế mà các quốc gia xây dựng,... là những thành tố chủ quan góp phần định hình nên cục diện thế giới, hay dài hạn hơn là trật tự thế giới. Thế nhưng, giống như thế giới tự nhiên, sự vận hành của chính trị quốc tế cũng có những đặc điểm riêng - ít phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người, tiêu biểu như những thường biến và đột biến của tình hình, những xu thế và phản xu thế, những dòng chảy và mâu thuẫn của thời đại... Trong khi đó, nhận thức của con người vốn chủ quan và hữu hạn. Dù là quốc gia, tổ chức quốc tế, tập đoàn xuyên quốc gia hay những nhà tư tưởng hàng đầu cũng rất khó có thể nắm bắt, dự báo hay kiểm soát hết những biến chuyển phức tạp của thế giới. Vì vậy, dự báo về cục diện thế giới không thể có câu trả lời đơn nhất, cũng không thể tranh cãi đúng - sai, mà quan trọng hơn là để có sự dự liệu và chuẩn bị từ trước.

Bức tranh bất định của đời sống chính trị quốc tế năm 2022 cho thấy những chỉ dấu của một cục diện thế giới dường như đang dần định hình. Những chỉ dấu này có thể chỉ là biểu hiện, nhưng cũng phần nào phản ánh bản chất của cục diện thế giới mới trong tương lai.

Một là, trật tự thế giới đa cực, đa trung tâm(4): Sự “trỗi dậy” của Trung Quốc và sự suy giảm tương đối sức mạnh tổng hợp quốc gia của Mỹ trong những thập niên qua đã từng dấy lên kịch bản về một cục diện lưỡng cực Mỹ - Trung Quốc. Tuy nhiên, với những biến chuyển mới hiện nay, nhất là kể từ khi xảy ra đại dịch COVID-19, cuộc xung đột Nga - U-crai-na và tình trạng phân tách Mỹ  - Trung Quốc ngày càng rõ nét, kịch bản “lưỡng cực Mỹ - Trung Quốc” dường như không phản ánh được hết bức tranh cục diện thế giới trong tương lai.

Đáng lưu ý, khác với thời kỳ Chiến tranh lạnh, trong thế giới ngày nay, cả Mỹ và Trung Quốc, phần nào là Nga, không thể tự giải quyết được các vấn đề toàn cầu, thậm chí là các mâu thuẫn giữa Mỹ - Trung Quốc  - Nga với nhau, cũng không thể áp đặt hoàn toàn đối với đời sống quan hệ quốc tế nói chung. Thay vào đó, dưới tác động của xu hướng dân chủ hóa đời sống quốc tế và chuyển dịch trọng tâm quyền lực từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông, các quốc gia tầm trung và các nước còn lại đều gia tăng sức mạnh, vai trò và tiếng nói trong hệ thống chính trị quốc tế.

Cùng với đó, đặc điểm mới của thế giới hiện nay là áp lực phân tuyến giữa một bên là Mỹ, phương Tây và bên kia là Trung Quốc, Nga. Điều đáng quan ngại là sự phân tuyến này không chỉ nhất thời và ngắn hạn. Những rạn nứt về chính trị - ngoại giao, phân tách về kinh tế - công nghệ, cọ xát về chiến lược  - quân sự và vấn đề không hòa hợp về hệ giá trị,... hiện nay là những nhân tố cho thấy phân tuyến sẽ là xu hướng dài hạn. Do đó, phải chăng cục diện thế giới trong thời gian tới sẽ là “đa cực, song tuyến” với những sắc màu của Chiến tranh lạnh kiểu mới?(5).

Hai là, thế giới hậu đại dịch COVID-19: Việc Trung Quốc “mở cửa” trở lại vào đầu năm 2023 góp thêm những tín hiệu tích cực vào việc khép lại một giai đoạn đặc biệt của lịch sử loài người khi cả thế giới dường như buộc phải “đóng băng” mọi hoạt động trong suốt hai năm. Thế nhưng, những rủi ro của dịch bệnh COVID-19 còn rất lớn, bởi thực tế trong thời gian qua đã xuất hiện không ít biến chủng mới. Câu hỏi đặt ra hiện nay không phải là liệu có thể xuất hiện một đại dịch mới nữa hay không, mà đó là việc các quốc gia cần phối hợp như thế nào để ứng phó hiệu quả hơn với những đại dịch mới.

Phát triển công nghiệp thâm dụng tài nguyên hóa thạch, thiếu thân thiện môi trường và gia tăng dân số toàn cầu là những nguyên nhân chính dẫn tới hiện tượng Trái đất nóng lên và các thảm họa thiên nhiên xảy ra với tần suất và mức độ cao hơn. Trong khi đó, những nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu ở cấp độ toàn cầu, mặc dù đã được cải thiện, nhưng vẫn chưa đủ và bị cản trở bởi cuộc khủng hoảng kinh tế và năng lượng, cạnh tranh nước lớn, sự thiếu hiệu quả của các cơ chế hợp tác đa phương khu vực và quốc tế. Những vấn đề này vốn tồn tại từ trước, nhưng đại dịch COVID-19 chính là bước ngoặt cho thấy, tương lai của nhân loại sẽ là một thế giới mà trong đó các quốc gia, dân tộc phải đối mặt với những thách thức thường trực, bất ngờ và mạnh mẽ của thiên nhiên. Phát triển bền vững sẽ không còn là mục tiêu gìn giữ cho tương lai, mà mang tính sống còn của hiện tại.

Ba là, thế giới “hậu xung đột Nga - U-crai-na”: Ẩn số lớn nhất của cục diện thế giới trong thời gian tới được cho là vấn đề xung đột giữa Nga và U-crai-na. Những hệ lụy của cuộc xung đột này sẽ còn kéo dài trong nhiều thập niên, ngay cả khi triển vọng kết thúc cuộc xung đột hiện nay còn mờ mịt. Giới chuyên gia cho rằng, dù bên nào giành chiến thắng hay cuộc xung đột này có được giải quyết qua đàm phán, thì cục diện khu vực châu Âu cũng không còn được như trước, với sự phân tách và rạn nứt EU - Nga ở mức độ sâu kể từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc. Môi trường an ninh của cả hai bên sẽ tồn tại những bất ổn thường trực. Răn đe hạt nhân sẽ không còn là sự bảo đảm an ninh, thậm chí đang trở thành nguyên nhân gây lo ngại mất an ninh tại khu vực này.

“Bàn cờ” chính trị quốc tế cũng đang chứng kiến hai trận địa xung khắc, đối đầu giữa Mỹ, phương Tây với Nga ở châu Âu và Trung Quốc tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Trong thời gian tới, cuộc xung đột Nga - U-crai-na diễn biến như thế nào sẽ mang lại hàm ý soi chiếu quan trọng đối với khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, với sự bảo tồn giá trị và hiệu quả của luật pháp quốc tế, cũng như hệ thống chính trị quốc tế. Đồng thời, điều này đặt ra câu hỏi lớn về vấn đề chiến tranh và hòa bình, hợp tác và phát triển của thế giới trong tương lai.

Bốn là, vai trò của chủ nghĩa đa phương và luật pháp quốc tế: Một trong những đặc điểm quan trọng của hệ thống chính trị quốc tế hiện đại là vai trò nền tảng của chủ nghĩa đa phương và luật pháp quốc tế, với Liên hợp quốc là trung tâm, cơ sở tương tác giữa các quốc gia trong một chuẩn mực chung, gia tăng hợp tác và hạn chế xung đột, góp phần gìn giữ hòa bình kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, giảm thiểu các hành vi bá quyền nước lớn, cho phép các nước vừa và nhỏ có tiếng nói, công cụ để bảo vệ lợi ích của mình.

Tuy nhiên, trong những năm qua, vai trò của chủ nghĩa đa phương và luật pháp quốc tế đang đứng trước nhiều thách thức. Các chính sách của Mỹ dưới thời kỳ chính quyền Tổng thống Mỹ Đô-nan Trăm từng cho thấy nước Mỹ có thể rút khỏi các cơ chế đa phương bất cứ lúc nào, tùy thuộc vào chính trị nội bộ và lợi ích của họ. Các nước lớn thể hiện những hành vi vị kỷ, cường quyền thay vì tôn trọng luật pháp quốc tế. Bên cạnh đó, xuất hiện những vấn đề mới nổi, như an ninh mạng, tạo ra “vùng xám” pháp lý cho các quốc gia can thiệp vào quá trình hoàn thiện luật pháp quốc tế. Đáng lưu ý, mâu thuẫn và cạnh tranh nước lớn đang đặt ra viễn cảnh về “một thế giới đa tầm nhìn” tạo ra sự phân rẽ, phân mảnh trong quan hệ quốc tế. Đơn cử như, các nước lớn đang đưa ra cách lý giải khác nhau về khái niệm “trật tự quốc tế dựa trên luật lệ” và những phiên bản của riêng họ đối với hệ thống chính trị quốc tế.

Năm là, các xu thế và phản xu thế đan xen: Trong thời gian tới, thế giới sẽ tiếp tục chứng kiến xu hướng chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và liên kết kinh tế sau đại dịch COVID-19 tiếp tục được thúc đẩy. Ở cấp độ toàn cầu, các cam kết và thỏa thuận về toàn cầu hóa tuy chững lại, nhưng các dòng chảy của toàn cầu hóa vẫn tiếp tục diễn ra. Các vấn đề an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống vẫn là những thách thức lớn. Các “điểm nóng” trên thế giới đều cho thấy những diễn biến phức tạp trong những năm qua, khi vừa là địa bàn, công cụ của cạnh tranh nước lớn, vừa là những nhân tố có khả năng gây đột biến tác động trở lại với quan hệ nước lớn.

Tuy nhiên, song song với các thách thức là những nỗ lực hợp tác và kiểm soát xung đột, rủi ro ở cấp độ toàn cầu, khu vực, đa phương và song phương trong bối cảnh chính trị quốc tế có sự chia rẽ và nghi kỵ. Ngày càng xuất hiện nhiều hơn những thảo luận và kêu gọi về bảo vệ chuẩn mực và luật pháp quốc tế. Điều này cho thấy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là khát vọng chung của nhân loại.

Nhìn chung, cục diện thế giới sẽ được định hình trong những bất định vào thời gian tới. Đó cũng sẽ là giai đoạn đòi hỏi thế giới cần có tư duy linh hoạt hơn trước, với những đột biến xảy ra ở tần suất cao hơn. Trong thời gian tới, những đột biến “thiên nga đen” hay “tê giác xám”, như khủng hoảng kinh tế toàn cầu; xung đột tại các “điểm nóng”; tính toán trên thực địa dẫn tới đụng độ trực tiếp giữa các nước lớn; khủng hoảng hạt nhân ở cấp độ khu vực; thiết lập liên minh và đứt gãy liên minh giữa các nước; một số nước rút khỏi hệ thống đa phương toàn cầu; xuất hiện các nhà lãnh đạo dân túy mới ở các nước phương Tây; các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, vấn đề toàn cầu khác và vô vàn những biến số phức tạp nữa, có thể làm thay đổi mạnh mẽ toàn cảnh cục diện thế giới, đặt ra bài toán hết sức khó khăn cho các quốc gia, trong đó có Việt Nam, phải định vị mình trong một thế giới đầy biến động đó.

Việt Nam trong một thế giới mới

Năm 2022, đối ngoại Việt Nam đã đạt được những kết quả toàn diện và quan trọng(6), nổi bật là việc củng cố vững chắc cục diện đối ngoại và kinh tế đối ngoại thuận lợi, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao hơn nữa vị thế, uy tín quốc tế của đất nước. Điều này đặc biệt quan trọng bởi thế giới năm 2022 biến động vô cùng phức tạp, đặt ra những bài toán không đơn giản đối với công tác đối ngoại của đất nước nói chung và ngành ngoại giao nói riêng(7).

Các nữ quân nhân của Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 3 lên đường làm nhiệm vụ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại Nam Sudan_Ảnh: Cục GGHBVN 

Nhìn rộng hơn, trước những chuyển dịch phức tạp và biến động nhanh chóng của thế giới trong thời gian qua, Việt Nam đã khẳng định sự vững vàng trước những sóng to, gió lớn của thời cuộc. Việt Nam đã vượt qua hai năm đại dịch COVID-19 và chuyển trạng thái sang phục hồi và phát triển kinh tế tương đối thành công, với mức tăng trưởng GDP cao nhất trong 10 năm vừa qua(8). Thế giới biến động, nhưng Việt Nam là một trong số những quốc gia giữ được ổn định chính trị  - xã hội, từ đó tạo tiền đề cho phát triển đất nước. Cuộc chiến chống tham nhũng trong những năm qua cũng góp phần gia tăng mạnh mẽ uy tín của Đảng, tạo nên sự đồng thuận “ý Đảng, lòng dân” để đưa đất nước vượt qua khó khăn, thách thức.

Đạt được điều đó là nhờ vào nền tảng của thế và lực đất nước tích lũy qua nhiều thế hệ, cùng đường lối đối nội, đối ngoại đúng đắn của Đảng, luôn không ngừng đổi mới tư duy trên nền tảng tư tưởng của Đảng, nhằm thích ứng phù hợp với thực tiễn đang biến đổi không ngừng. Nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Khoan đã nhận định: “Thành quả trên mặt trận ngoại giao của nước ta trong 77 năm qua là rất lớn, góp phần hết sức quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước, nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Có được những thành tựu đó là nhờ đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta vận dụng nhuần nhuyễn những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh”(9).

Thời gian tới, tình hình khu vực và quốc tế dự báo sẽ còn khó khăn, khắc nghiệt hơn trước. Khó khăn lớn nhất đến từ việc Việt Nam cần tập trung phát triển nhanh và bền vững để hiện thực hóa mục tiêu phát triển đến năm 2025 và năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong khi môi trường quốc tế tương đối không thuận lợi: tăng trưởng kinh tế toàn cầu giảm sút nghiêm trọng và rủi ro hơn là mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các nước lớn, từ đó tạo ra nhiều thách thức tới luật pháp quốc tế và đối ngoại đa phương - một bộ phận quan trọng của chính sách đối ngoại Việt Nam.

Xu hướng “đa cực, song tuyến” của cục diện thế giới trong thời gian tới sẽ đặt ra sức ép không nhỏ đối với việc kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Nhưng, chính sự kiên định đó đã khiến Việt Nam trở thành một hằng số có giá trị trong tính toán chiến lược của các nước lớn và cơ sở vững chắc để triển khai trường phái “ngoại giao cây tre: gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển” trong một thế giới đầy biến động. Gốc vững chính là truyền thống tự lực, tự cường, là lợi ích quốc gia - dân tộc, được dẫn dắt bởi nền tảng tư tưởng của Đảng. Thân chắc chính là bản lĩnh kiên cường trước mọi thử thách, khó khăn; là cốt lõi của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế trong thời kỳ đổi mới đã được thực tiễn kiểm chứng và vun đắp trong hơn 35 năm qua. Cành uyển chuyển là cách ứng xử “dĩ bất biến ứng vạn biến” - tình hình càng phức tạp càng kiên trì về nguyên tắc, sách lược càng linh hoạt. Đối ngoại Việt Nam dựa vào cái bất biến là bản sắc đối ngoại, đường lối đối ngoại để ứng phó với cái vạn biến của thế giới, để góp phần bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, vì lợi ích quốc gia - dân tộc, “ngoại giao tâm công” vì lẽ phải, chính nghĩa, phù hợp với những giá trị chung của nhân loại, đóng góp vì một thế giới hòa bình, hợp tác, ổn định và phát triển.

Xét đến cùng, điều kiện tiên quyết, quan trọng nhất là Việt Nam cần dành mọi ưu tiên, nguồn lực, tận dụng mọi điều kiện cả bên trong và bên ngoài để phục vụ phát triển đất nước. Chỉ khi có “quốc phú binh cường”, “nội yên, ngoại tĩnh”, chỉ một đất nước Việt Nam vững mạnh, ổn định, độc lập, tự chủ với quan hệ đối ngoại rộng mở, được sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế thì mới có thể tận dụng được cơ hội, định vị vững chắc giá trị bản thân trong chính sách của các nước lớn, hay rộng hơn là trong một cục diện thế giới mới đang định hình. Đó cũng chính là một Việt Nam trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi(10)./.

--------------------

(1) Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB)
(2) Xem: “Tổng quan dự báo tình hình kinh tế thế giới quý IV, năm 2022 và năm 2023”, Trang thông tin điện tử Tổng cục Thống kê, ngày 29-12-2022, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2022/12/tong-quan-du-bao-tinh-hinh-kinh-te-the-gioi-quy-iv-nam-2022-va-nam-2023/
(3) Có thể thấy, hai thành tố quan trọng của “tự chủ chiến lược” là: 1- Gia tăng nội lực bên trong, bảo đảm  độc lập, tự cường; 2- Tạo dựng môi trường đối ngoại - kinh tế - an ninh thuận lợi và ổn định nhất cho lợi ích quốc gia - dân tộc. Mục đích của tự chủ chiến lược là cho phép không gian hành xử chính sách phù hợp, hạn chế tối đa sự phụ thuộc và tác động từ bên ngoài, để bảo vệ và thúc đẩy lợi ích
(4) Ở đây, có thể hiểu “cực” là sức mạnh tổng hợp quốc gia, tương quan so sánh lực lượng giữa các khu vực, trung tâm với nhau (Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Ấn Độ, EU...). “Tuyến” là tập hợp lực lượng, liên minh, liên kết, hợp tác và đấu tranh giữa các quốc gia
(5) Đó có thể là một trật tự thế giới trong tương lai không có tính lưỡng cực cứng nhắc, nơi các nước lớn cạnh tranh nóng; mà là một phiên bản lưỡng cực được cho là “lành tính” hơn, nơi Mỹ và Trung Quốc cạnh tranh trên một số mặt trận, trong đó nhấn mạnh làm giảm thiểu sức mạnh tổng hợp quốc gia của nhau. Xem: Dani Rodrik - Stephen Walt: “How to Construct A New Global Order” (Tạm dịch: Làm thế nào xây dựng một trật tự thế giới mới), Harvard Kennedy School, tháng 5-2021,  https://www.hks.harvard.edu/publications/how-construct-new-global-order
(6) Xem: Bùi Thanh Sơn: “Ngoại giao Việt Nam năm 2022: Phát huy mạnh mẽ bản sắc “cây tre Việt Nam””, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 1-1-2023, https://dangcongsan.vn/thoi-su/ngoai-giao-viet-nam-nam-2022-phat-huy-manh-me-ban-sac-cay-tre-viet-nam-629082.html
(7) Xem: Nguyễn Hùng Sơn: “Đối ngoại Việt Nam năm 2022 và triển vọng 2023”, Báo điện tử Thế giới và Việt Nam, ngày 31-12-2022, https://baoquocte.vn/doi-ngoai-viet-nam-nam-2022-va-trien-vong-2023-211512.html
(8) Xem: Mai Hà: “Năm 2022 Việt Nam tăng trưởng GDP cao nhất trong 10 năm qua”, Báo Thanh niên điện tử, ngày 3-1-2023, https://thanhnien.vn/nam-2022-viet-nam-tang-truong-gdp-cao-nhat-trong-10-nam-qua-post1538379.html
(9) Vũ Khoan: “Một thời đại mới đang dần hình thành?”, Tạp chí Cộng sản, số 1.001, tháng 11-2022, tr. 95 - 103
(10) Xem: Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 16-5-2021, https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam

Phát huy giá trị của văn hóa trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ hiện nay.

 Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, soi đường cho mọi công việc nói chung, trong đó có công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Để Đảng càng văn minh, nhân văn, cần tiếp tục nhận thức sâu sắc giá trị đặc biệt của văn hóa, đạo đức trong đời sống xã hội, trong xây dựng hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ hiện nay.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với nhân dân làng Kon Rờ Bàng, xã Vinh Quang (thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum)_Nguồn: baokontum.com.vn

1- Từ lâu văn hóa đã trở thành bộ phận không thể thiếu trong đời sống của mỗi quốc gia - dân tộc, mỗi con người. Nói đến văn hóa là nói đến hệ giá trị chân, thiện, mỹ có giá trị soi đường cho các hoạt động, các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng,... Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”(1). Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, theo đó văn hóa cũng là nền tảng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lấy văn hóa soi đường cho quốc dân đi(2). Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Văn hóa là hồn cốt của dân tộc”.

Sức mạnh điều tiết của văn hóa không chỉ dừng lại ở phạm vi đạo đức, ứng xử trong quan hệ cộng đồng, quan hệ con người với con người, hay trong bản thân mỗi con người, không chỉ dừng lại ở việc tạo nên sự hài hòa cụ thể, mà cao hơn, văn hóa còn phát huy tác dụng trong điều chỉnh các quan hệ lớn, tạo nên sự phát triển cân đối, hài hòa, đồng bộ giữa các lĩnh vực quan trọng của đời sống, của mỗi quốc gia - dân tộc. 

Thực chất của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng mang hệ giá trị văn hóa điều tiết, tác động tích cực đến sự chính danh, trong sạch, vững mạnh của Đảng, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ta. Văn hóa thẩm thấu, chi phối công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Hệ giá trị của văn hóa là tổ hợp của yếu tố truyền thống, kết hợp với yếu tố hiện đại và sự kết tinh tinh hoa văn hóa thế giới. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và cả dân tộc nên càng phải tạo lập hệ giá trị văn hóa trong Đảng để xây dựng, củng cố, nâng cao bản lĩnh, tầm trí tuệ, sức mạnh nội sinh, khả năng tự đề kháng, kiến tạo xây dựng mô hình tổ chức hợp lý, khoa học, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tác động mạnh mẽ, toàn diện và sâu sắc trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội hiện nay.

Hệ giá trị văn hóa trong Đảng thể hiện ở một số nội dung, như: 1- Bản lĩnh vững vàng của Đảng trước những khó khăn, thử thách; 2- Xác định đúng quyết sách chính trị để lãnh đạo đất nước phát triển bền vững; 3- Mục tiêu, lý tưởng của Đảng luôn hướng đến chăm lo cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Ngoài lợi ích của giai cấp, dân tộc, Đảng ta không có một lợi ích nào khác; 4- Đạo đức của Đảng, đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên luôn là “công bộc” tận tụy phục vụ nhân dân; 5- Các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Do đó, các tổ chức cơ sở đảng, đảng viên phải nắm vững nội dung của hệ giá trị văn hóa trong Đảng để phấn đấu, rèn luyện, giữ gìn phẩm chất, đạo đức cách mạng, nêu cao tính đảng, trách nhiệm trong xây dựng các tổ chức cơ sở đảng vững mạnh toàn diện, phát huy vai trò hạt nhân chính trị. Thực tiễn cho thấy, khi Đảng đạt tới tầm cao của văn hóa, của đạo đức, văn minh,... thì Đảng cầm quyền sẽ hiệu quả, trường tồn, phát huy tốt vai trò lãnh đạo đối với đất nước. Khẳng định sứ mệnh và sự cống hiến vĩ đại của Đảng đối với Tổ quốc và dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh(3). Đây được coi là mẫu số chung, giá trị phổ quát đặt ra cho các tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải quán triệt, nỗ lực phấn đấu để Đảng ta luôn biểu trưng cho đạo đức, văn hóa, lương tâm, danh dự của cả dân tộc. Đó là cơ sở để nhân dân tin yêu Đảng, ủy thác vai trò lãnh đạo chính trị cho Đảng đối với sự nghiệp cách mạng hiện nay.

2- Quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, Đảng ta ngày càng nhận thức đầy đủ vai trò, tầm quan trọng của việc xây dựng văn hóa trong Đảng - yếu tố tạo nên sức mạnh nội sinh của Đảng. Đầu tư cho xây dựng văn hóa trong Đảng thực chất là đầu tư cho công tác xây dựng Đảng, nâng tầm văn hóa, đạo đức của Đảng. Đảng trong sạch, vững mạnh sẽ tác động tích cực đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, giữ vững vai trò lãnh đạo đối với đất nước, dân tộc, phát triển đúng định hướng.

Công tác xây dựng cương lĩnh, đường lối, chủ trương, nghị quyết được Đảng ta quan tâm xây dựng, phát huy tính dân chủ, dựa trên những căn cứ khoa học để đưa ra những quyết định chính xác, kịp thời, phản ánh nhu cầu cấp thiết từ cuộc sống, thuận lòng dân. Cấp ủy các cấp đã coi trọng khâu chỉ đạo tổ chức thực hiện nghị quyết, làm rõ trách nhiệm cá nhân, tổ chức phối hợp hành động chặt chẽ nên chủ trương, nghị quyết sớm đi vào cuộc sống, mang lại lợi ích cho nhân dân.

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn được Đảng ta quan tâm chỉ đạo, thực hiện toàn diện trên các mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, xác định rõ quan điểm, nguyên tắc, phương châm, giải pháp sát hợp với tình hình thực tiễn. Từ Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 26-6-1992, của Hội nghị Trung ương 3 khóa VII, “Về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng”; Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 2-2-1999, của Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”; đến Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII đã ban hành các nghị quyết, kết luận về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; trong đó, Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII đã ban hành Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”” (Kết luận số 21-KL/TW). Đây là những dấu mốc rất quan trọng khẳng định Đảng ta luôn kiên định, kiên quyết, kiên trì và tập trung trí tuệ, tâm sức cho công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Nhờ đó công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đạt được những kết quả tích cực, góp phần xây dựng, chỉnh đốn các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên luôn giữ vững phẩm chất, tư cách của người đảng viên, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Nhiệm kỳ Đại hội XI, Đảng ta thẳng thắn nhìn nhận công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được khắc phục thì sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc(4)...

Công tác xây dựng Đảng về đạo đức được Trung ương và các cấp ủy, tổ chức đảng quan tâm chỉ đạo, nhận thức và hành động của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có chuyển biến tích cực. Điểm mới của Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã nhận diện 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Trên cơ sở đó, các cấp ủy, tổ chức đảng đã cụ thể hóa thành các tiêu chí phù hợp với thực tiễn của từng đảng bộ để giáo dục, quản lý cán bộ, đảng viên. Bởi vậy, “Nhìn chung, đội ngũ cán bộ, đảng viên đã đề cao tinh thần trách nhiệm, giữ gìn phẩm chất, đạo đức, lối sống; gương mẫu đi đầu, tận tụy với công việc, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao”(5).

Các tổ chức đảng đã quan tâm xây dựng văn hóa, từ việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, xác định chức năng, nhiệm vụ, quy chế hoạt động, mối quan hệ công tác; xây dựng đoàn kết, thống nhất, phối hợp tổ chức thực hiện nhiệm vụ có hiệu quả,... đến hành vi ứng xử có văn hóa với nhân dân trong thực thi công vụ của các tổ chức đảng, đội ngũ đảng viên.

Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, Đảng ta đã ban hành 14 nghị quyết và 1 quy định, trong đó có 4 nghị quyết về công tác xây dựng Đảng, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức đảng quán triệt, tổ chức thực hiện. Các quy định về công tác cán bộ ngày càng đồng bộ, chặt chẽ hơn, làm cơ sở để nâng cao chất lượng công tác cán bộ, kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền. Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” đã bổ sung những nội dung mới, chỉ ra tệ chạy chức, chạy quyền, coi đây là hành vi tham nhũng trong công tác cán bộ. Công tác kiểm tra, giám sát đã có những đổi mới về nội dung, phương pháp, góp phần nâng cao chất lượng lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên; kiên quyết kiểm tra, kết luận, thi hành kỷ luật một số cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước nhằm siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng. Thực tế, giai đoạn 2013 - 2020, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 131 nghìn đảng viên. Riêng trong nhiệm kỳ Đại hội XII, đã thi hành kỷ luật hơn 87 nghìn cán bộ, đảng viên, trong đó có hơn 3.200 đảng viên bị kỷ luật liên quan đến tham nhũng; đã thi hành kỷ luật hơn 110 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý (trong đó có 27 Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 4 Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, hơn 30 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang(6).

Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, kết quả đạt được, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn bộc lộ một số hạn chế sau:

Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức chưa đầy đủ tính chất, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng văn hóa trong các tổ chức đảng. Do đó, khâu chỉ đạo, tổ chức thực hiện ở một số tổ chức đảng thiếu quyết liệt, biểu hiện chùng xuống, chất lượng, hiệu quả thấp. “Việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức quán triệt và thực hiện một số nghị quyết còn chậm, chưa quyết liệt, chưa hiệu quả”(7).

Thực tiễn cho thấy, “một bộ phận cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị không vững vàng, suy thoái về tư tưởng chính trị, còn hoài nghi, mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, một số ít hoang mang, dao động, mất lòng tin; cá biệt còn phủ nhận chủ nghĩa Mác  - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng”(8).

Một số tổ chức đảng chưa chú trọng xây dựng Đảng về đạo đức nên chưa quan tâm đúng mức đến giáo dục, rèn luyện, quản lý cán bộ, đảng viên, nhất là giáo dục nâng cao nhận thức trách nhiệm, bổn phận, lòng tự trọng, ý thức, tinh thần phục vụ nhân dân, sự miễn dịch với tham nhũng, tiêu cực. Một số tổ chức đảng xem nhẹ công tác tự phê bình và phê bình, tiến hành một cách hình thức, chưa quyết liệt, hiệu quả thấp; chưa chú trọng xây dựng văn hóa phê bình. Một số cấp ủy có biểu hiện mất đoàn kết nội bộ, bè phái, cục bộ địa phương trong lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị; một số cán bộ, đảng viên thiếu tiên phong, gương mẫu, nói không đi đôi với làm, vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật của Nhà nước.

Mặc dù việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy có chuyển biến tích cực, nhưng “việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy ở một số nơi thiếu kiên quyết, đồng bộ và chưa đạt mục tiêu đề ra... Tinh giản biên chế mới tập trung giảm số lượng, chưa thật sự gắn với nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức”(9).

Trong khâu đề bạt, bổ nhiệm cán bộ còn có tình trạng bổ nhiệm cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong đó có cả người nhà, người thân, họ hàng, “cánh hẩu” xảy ra ở một số nơi, gây bức xúc trong dư luận xã hội(10). Đây là phản văn hóa, cần nhận diện, khắc phục, đẩy lùi trong thời gian tới, góp phần làm lành mạnh, nâng cao chất lượng công tác cán bộ.

Những hạn chế trên có nguyên nhân, như một số tổ chức đảng, người đứng đầu cấp ủy chưa nhận thức đúng vai trò, tính cấp thiết của xây dựng văn hóa trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng; một số cấp ủy năng lực tổ chức, kiến tạo, tổ chức thực hiện xây dựng văn hóa trong tổ chức đảng còn hạn chế, thiếu chủ động, thiếu những cách làm sáng tạo; một số cán bộ, đảng viên tinh thần trách nhiệm yếu, chưa thực sự tiên phong, gương mẫu, sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, đi ngược lại những chuẩn mực đạo đức, văn hóa.

Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng A Pa Chải (tỉnh Điện Biên) giúp đồng bào phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, góp phần xây dựng nông thôn mới, củng cố mối quan hệ đoàn kết, gắn bó quân dân_Ảnh: TTXVN

3- Để phát huy giá trị của văn hóa trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ hiện nay cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng và từng cán bộ, đảng viên về xây dựng văn hóa trong Đảng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tư tưởng không đúng đắn thì công tác ắt sai lầm”(11). Cần nhận thức rằng, xây dựng văn hóa trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng là góp phần xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, nâng tầm lãnh đạo, vị thế cầm quyền của Đảng. Xây dựng và chỉnh đốn Đảng tác động biện chứng, làm tiền đề cho nhau; xây dựng Đảng là cơ sở, điều kiện của chỉnh đốn Đảng, ngược lại chỉnh đốn Đảng góp phần làm cho công tác xây dựng Đảng đạt chất lượng, hiệu quả hơn. Văn hóa thẩm thấu tác động đến năm mặt của công tác xây dựng Đảng, từ việc xác định đúng cương lĩnh, đường lối, chủ trương, nghị quyết; xây dựng đạo đức của Đảng - đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ, đảng viên đến việc xây dựng hệ thống tổ chức, bộ máy đồng bộ, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, yếu tố văn hóa góp phần giúp cán bộ, đảng viên nhận diện được hệ giá trị chân - thiện - mỹ, thức tỉnh lương tâm, phân biệt được đúng, sai để thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ và hoàn thiện nhân cách. Coi nhẹ yếu tố văn hóa sẽ làm cho công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng dễ lệch chuẩn, sai phạm ở một số tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên.

Hai là, coi trọng giáo dục, rèn luyện nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng cho mỗi cán bộ, đảng viên.

Công tác giáo dục, rèn luyện, đào tạo, bồi dưỡng, thực chất là tác động văn hóa để mỗi cán bộ, đảng viên nêu cao tính đảng, nhận thức được trách nhiệm, bổn phận của bản thân để phấn đấu, rèn luyện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết và yêu cầu, “mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi”(12). Giáo dục, rèn luyện phải thông qua giao nhiệm vụ, kết quả thực hiện nhiệm vụ để từng đảng viên đối chiếu với tiêu chuẩn, nhiệm vụ được giao để phấn đấu, rèn luyện; đồng thời, các tổ chức đảng phải thực hiện tốt nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Mục đích của tự phê bình và phê bình là giúp nhau phát huy ưu điểm, khắc phục những nhận thức, hành vi chưa đúng, “một mặt là để sửa chữa cho nhau. Một mặt là để khuyến khích nhau, bắt chước nhau”(13). Từ chiều sâu bản chất của văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý, phải hướng vào phê bình việc chứ không phải phê bình người. Người còn căn dặn: “Những người bị phê bình thì phải vui lòng nhận xét để sửa đổi, không nên vì bị phê bình mà nản chí, hoặc oán ghét”(14). Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên hằng ngày phải đối chiếu, “tự soi, tự sửa” để hoàn thiện nhân cách, tiến bộ trưởng thành. Tự soi, tự sửa chính là bản lĩnh văn hóa của người cộng sản, dám nhận diện “thứ giặc trong lòng” để đấu tranh loại bỏ. Đây là cuộc chiến cam go, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải kiên trì, dũng cảm mới có thể chiến thắng, vượt qua.

Giáo dục, tác động từ góc độ văn hóa để mỗi cán bộ, đảng viên thấu cảm, lan tỏa tình yêu thương đồng chí. Tinh thần nhân đạo, nhân văn là bản chất của Đảng ta; là mạch nguồn xuyên suốt của chủ nghĩa Mác  - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là cơ sở lô-gíc nội tại để Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát: “Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được”(15). Do đó, mọi sự kèn cựa, đố kỵ, ganh tỵ ở một số cán bộ, đảng viên sẽ được nhường chỗ cho tình thương và lòng nhân ái. Tiếp tục tổ chức cho cán bộ, đảng viên học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh từ những điều nhỏ nhất, bình dị nhất. Đây cũng là kênh để cán bộ, đảng viên luôn có ý thức phấn đấu, rèn luyện, không chủ quan, tự mãn, bằng lòng với kiến thức, kết quả phấn đấu của mình.

Song hành với coi trọng giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, cần gắn với đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, “thứ giặc trong lòng không mang gươm, mang súng”, dễ dàng làm tha hóa nhân cách, đưa người ta đi xuống dốc. Từ thực tiễn lãnh đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”(16).

Ba là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên”, có khát vọng cống hiến.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết: Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, “công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”(17). Hiệu quả văn hóa thẩm thấu đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cao hay thấp tùy thuộc vào chất lượng đội ngũ cán bộ, cấp ủy. Trước bối cảnh mới, đội ngũ cán bộ phải tích cực học tập nâng cao phẩm chất, bản lĩnh, trình độ kiến thức các mặt, xây dựng tầm nhìn biện chứng để đủ sức giải quyết những vấn đề đặt ra từ thực tiễn; đủ sức kiến tạo tổ chức thực tiễn có hiệu quả.

Hơn lúc nào hết, đội ngũ cán bộ phải thâu thái được yếu tố văn hóa, bởi đó là hệ điều tiết để nâng cao nhận thức, hành vi, năng lực tổ chức hành động luôn vì lợi ích của Đảng, của tập thể và nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn gương mẫu, trong sạch về nhân cách, nói không với tiêu cực, tham nhũng, luôn lắng nghe, học hỏi, gần gũi với nhân dân. Bởi, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không thể lãnh đạo được nhân dân. Cán bộ giữ chức vụ càng cao càng phải gương mẫu. Gương mẫu là tiêu chí, thước đo văn hóa của người cán bộ. Thực tế cho thấy, khi cán bộ đã “nhúng chàm”, mất uy tín thì chất lượng lãnh đạo, quản lý hạn chế, thậm chí bất lực. Bởi vậy, cần “coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao ý thức trách nhiệm, lòng tự trọng và danh dự của cán bộ để hình thành văn hóa không chạy chức, chạy quyền”(18). Đồng thời, mỗi cán bộ, đảng viên cần coi trọng xây dựng văn hóa tiết kiệm theo tinh thần Kết luận số 21-KL/TW. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải luôn phấn đấu, rèn luyện, bởi “cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng, đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra”(19). Trong tình hình hiện nay, đội ngũ cán bộ cần thực hiện tốt “6 dám” theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng: dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám nói, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách,... Quy định số 41-QĐ/TW, ngày 3-11-2021, của Bộ Chính trị, “Về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ” đã đề cập đến văn hóa từ chức, do đó, đã đến lúc cán bộ có sai phạm, khuyết điểm, không hoàn thành nhiệm vụ được giao phải có bản lĩnh xin từ chức - đó là dũng khí, lòng tự trọng của cán bộ. Đây là vấn đề bình thường trong công tác cán bộ. Qua đó, kịp thời bổ sung những cán bộ có phẩm chất, tài năng đảm nhận các công việc của tổ chức phân công, không để khoảng trống quyền lực trong lãnh đạo, quản lý. Để xây dựng đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên”, nâng cao tính chuyên nghiệp, đủ khả năng làm việc trong điều kiện hội nhập quốc tế, từng cán bộ phải nỗ lực, phấn đấu; đổi mới mạnh mẽ các khâu của công tác cán bộ, nhất là đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ hợp lý.

Bốn là, nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng gắn với tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, kiểm soát quyền lực.

Đây là giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng. Các tổ chức đảng cần nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng (cấp ủy, ban thường vụ, sinh hoạt đảng bộ, sinh hoạt chi bộ) nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị và giáo dục, quản lý cán bộ, đảng viên. Không để một đảng viên nào đứng ngoài sự quản lý của tổ chức đảng. Sinh hoạt đảng phải đi vào thực chất, bài bản, bảo đảm nguyên tắc, phong phú về nội dung, hình thức sinh hoạt. Đội ngũ cấp ủy viên cơ sở, nhất là bí thư cấp ủy phải nâng cao tính đảng, tính chuyên nghiệp trong điều hành sinh hoạt đảng, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ trong tranh luận, thảo luận, gắn với kỷ luật, kỷ cương. Có phát huy dân chủ mới giúp cho cấp ủy có thêm thông tin, tri thức, kinh nghiệm để đưa ra các quyết định chính xác, hợp lòng dân. Cần tạo ra không gian văn hóa trong tổ chức đảng để đảng viên hiến kế, chia sẻ, đoàn kết, có trách nhiệm xây dựng tổ chức đảng.

Kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng. Đảng ta khẳng định, không kiểm tra thì coi như không lãnh đạo. Từ thực tiễn lãnh đạo, quản lý Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết, “kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”(20). Công tác kiểm tra, giám sát là công cụ hữu hiệu để xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch vững mạnh, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên; qua đó, giúp cho cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, cán bộ, đảng viên phát huy ưu điểm, khắc phục, phòng tránh các khuyết điểm, sai phạm. Ngoài việc tăng cường kiểm tra, giám sát đối với cấp ủy thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng, ủy ban kiểm tra các cấp cần chủ động tăng cường kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, nhằm kịp thời giáo dục, ngăn chặn các khuyết điểm, sai phạm của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, không để các dấu hiệu vi phạm từ chưa nghiêm trọng đến nghiêm trọng, từ một người liên quan đến nhiều người. Ủy ban kiểm tra cần hướng vào kiểm tra những điểm nóng, người đứng đầu, những lĩnh vực dễ xảy ra vi phạm để xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát nhằm giáo dục, cảnh báo cho các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên. Kiên quyết xử lý kỷ luật những tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên cố tình vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước, như tham nhũng, tiêu cực, thao túng quyền lực... Xây dựng văn hóa kiểm tra công tâm, khách quan, minh bạch, giáo dục, răn đe, đúng người, đúng việc, không gây oan sai, thể hiện thấu tình đạt lý, tính nhân văn sâu sắc. Đồng thời, coi trọng việc giám sát, kiểm soát quyền lực đối với cán bộ nắm giữ các chức vụ chủ chốt, các lĩnh vực dễ nảy sinh vi phạm. Quyền lực phải được “nhốt trong lồng” thể chế, cơ chế. Đây là biện pháp mạnh cần được tăng cường, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan để giảm thiểu, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực trong thời gian tới. “Khẩn trương xây dựng cơ chế phòng ngừa, cơ chế răn đe để kiểm soát tham nhũng”(21)

Năm là, dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Nhân dân là cơ sở chính trị của Đảng, Nhà nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ dẫn: “Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”(22). Do đó, cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay cần sự đóng góp tích cực, trách nhiệm của nhân dân. Đây là vấn đề mang tính quy luật, sống còn của Đảng. Bởi “Họ chẳng những trông thấy những người tốt, việc tốt, mà họ cũng trông thấy những người xấu, việc xấu trong Đảng”(23). Yếu tố văn hóa chính là sự tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; tôn trọng, cầu thị, lắng nghe, tiếp thu, khắc phục, sửa chữa những góp ý đúng đắn của nhân dân. Bởi, tầm trí tuệ, tai mắt của nhân dân rất tinh tường, nhìn nhận, đánh giá cán bộ, đảng viên khá chính xác; ai có trách nhiệm, làm việc có hiệu quả, ai làm tắc trách, quan liêu, nhũng nhiễu dân đều được nhân dân đánh giá. Vì vậy, xác lập cơ chế để thu thập, tiếp nhận ý kiến đóng góp của nhân dân là hết sức cần thiết để xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Cần kết hợp các kênh góp ý, như nhân dân trực tiếp góp ý, phản ánh, thông qua hội nghị góp ý phê bình cho cán bộ, đảng viên thông qua hòm thư góp ý hoặc thông qua tổ chức đại diện, như Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng... Đây là cơ sở để tổ chức đảng có thêm thông tin, góp phần nâng cao chất lượng lãnh đạo, xây dựng tổ chức đảng, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên hiệu quả, nhất là trong điều kiện mặt trái của nền kinh tế thị trường tác động hiện nay.

Cần khẳng định, sự hiện diện của văn hóa trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng là yêu cầu khách quan, nội tại, mang tính quy luật, do đó đặt ra cho toàn Đảng, cấp ủy các cấp và mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn nêu cao tính đảng, lương tâm, danh dự, trách nhiệm của người cộng sản để phấn đấu, rèn luyện. Xuất phát từ quan điểm chỉ đạo “Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta”, đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh phải “đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa(24); để Đảng ta mãi mãi trường tồn, giữ vững vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với đất nước, dân tộc./.

----------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 3, tr. 458
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. XXV
|(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 403
4) Xem: Nguyễn Quang Dương: “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày
12-1-2022,   https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/tiep-tuc-day-manh-xay-dung-chinh-don-dang-va-he-thong-chinh-tri-trong-sach-vung-manh-dap-ung-yeu-cau-nhiem-vu-trong-thoi-ky-moi

(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 174 – 175
(6) Xem: Hạnh Nguyên: “Phòng, chống tham nhũng ngày càng quyết liệt, đi vào chiều sâu và toàn diện”, Báo Nhân Dân điện tử, ngày 29-6-2022, https://nhandan.vn/phong-chong-tham-nhung-ngay-cang-quyet-liet-di-vao-chieu-sau-va-toan-dien-post703074.html
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 90
(8), (9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 168, 184
(10) Xem: Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 114
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 672
(13), (14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 279, 272
(15), (16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 668, 672
(17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 313
(18) Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”
(19) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 145
(20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5 tr. 327
(21) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIISđd, t. II, tr. 146
(22), (23) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 338, 302
(24) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 29