Chủ Nhật, 2 tháng 7, 2023

Sự phát triển của tư duy và đòi hỏi gắt gao từ thực tiễn

Việc học tập, làm theo Bác không phải đến bây giờ Đảng ta mới đặt ra, mà đó là một hành trình mang tính hệ thống, thể hiện sự phát triển tư duy lý luận của Đảng và những yêu cầu đặt ra từ thực tiễn cách mạng Việt Nam qua từng thời kỳ. Ngay sau khi Bác mất, trong Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đọc tại Lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 9-9-1969 đã thể hiện sắt son lời thề: “Suốt đời học tập đạo đức, tác phong của Người...”.

Từ đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta và kiều bào yêu nước khắp nơi trên thế giới đã ghi nhớ khát vọng “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Trải qua mỗi giai đoạn lịch sử, cách mạng dân tộc đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ mới, việc học tập, làm theo Bác cũng đòi hỏi có sự phát triển, bổ sung những nội dung, yêu cầu mới. Đó là sự phát triển tất yếu của tư duy biện chứng.

Trong 17 năm qua, kể từ khi Bộ Chính trị khóa X ban hành Chỉ thị số 06-CT/TW về tổ chức Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đến nay, việc học tập và làm theo Bác không ngừng được điều chỉnh, bổ sung nội dung, hình thức, giải pháp thực hiện. Đảng ta đã cụ thể hóa sự phát triển tư duy lý luận và đáp ứng yêu cầu gắt gao từ thực tiễn của đất nước bằng các nghị quyết, chỉ thị, kết luận... Đặc biệt, trong những năm gần đây, việc ban hành, triển khai thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị khóa XII "Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" và Kết luận 01 đã thể hiện yêu cầu ngày càng cao đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.

Kết luận 01 chỉ rõ: Việc tu dưỡng, rèn luyện, làm theo Bác, nhất là trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu chưa thường xuyên; một số cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm các quy định của Đảng, vi phạm pháp luật. Việc thực hiện Chỉ thị 05 gắn với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện nhiệm vụ chính trị và giải quyết các khâu đột phá, các vấn đề cấp bách, bức xúc còn lúng túng, hiệu quả chưa cao...

Công tác đấu tranh với các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chưa mạnh mẽ; tự phê bình và phê bình có nơi, có lúc còn hình thức; tình trạng thiếu tự giác nhận khuyết điểm, đổ lỗi, nể nang, né tránh, ngại va chạm còn diễn ra ở nhiều nơi...

Với phương châm kết hợp chặt chẽ “xây” và “chống”, sắp tới chắc chắn sẽ còn nhiều cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong hệ thống chính trị bị xử lý kỷ luật, lôi ra trước ánh sáng công lý. Đặc biệt là hiện nay, khi hoạt động của Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh tiếp tục được củng cố, đẩy mạnh, số lượng cán bộ, đảng viên suy thoái, tham nhũng bị kiểm tra, điều tra, xử lý ở các cấp chắc chắn sẽ còn nhiều thêm.

Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” sẽ tiếp tục diễn ra cam go, phức tạp, nhưng với tinh thần kiên trì, quyết liệt, không có vùng cấm, “lấy xây để chống”, chúng ta có niềm tin son sắt vào thắng lợi của Đảng.

Vấn đề cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị các cấp cần có là sự nhận thức thấu đáo, đầy đủ, sâu sắc bản chất của vấn đề bằng phép tư duy biện chứng. Tuyệt đối không tư duy kiểu “hớt váng” dẫn đến nghe theo, hùa theo, làm theo những luận điệu xuyên tạc, phá hoại của các thế lực thù địch và phần tử cơ hội. Cán bộ, đảng viên có nhận thức thấu đáo, đầy đủ thì mới có cơ sở vững chắc tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện ngày càng sâu rộng, hiệu quả việc học tập và làm theo Bác. Tinh thần “xây” và “chống”, “lấy xây để chống” cần được củng cố, tiếp lửa thường xuyên, liên tục bằng “tiền hô hậu ủng”, “nhất hô bá ứng”, “trên dưới đồng lòng”, “dọc ngang thông suốt”... không để đứt gãy vì bất cứ lý do gì, bất cứ hoàn cảnh nào. (trích báo QĐND)

Không để đứt gãy tinh thần “xây” và “chống”

Để hiểu rõ những chuyển biến tích cực và kết quả đạt được sau 2 năm thực hiện Kết luận 01 cũng như thành quả nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng trên lĩnh vực tư tưởng chính trị, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chúng ta cần nhìn nhận, đánh giá vấn đề một cách khách quan, toàn diện. Trước hết, đó là tinh thần, phương châm chỉ đạo kết hợp “xây” và “chống”.

Kết luận 01 nêu rõ nhiệm vụ: “Kết hợp chặt chẽ giữa học tập với làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, đơn vị và công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; giải quyết hiệu quả các khâu đột phá và các vấn đề trọng tâm, bức xúc trong thực tiễn”.

Quá trình quán triệt, tiếp tục triển khai thực hiện Kết luận 01 cần thấy rõ: Đảng ta đã đặt ra yêu cầu vừa khái quát, vừa cụ thể về việc phải gắn chặt, kết hợp việc học tập, làm theo Bác với thực hiện nhiệm vụ chính trị của cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng và hệ thống chính trị các cấp; trong đó có nhiệm vụ đặc biệt quan trọng là đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tiêu cực, suy thoái trong nội bộ. Như vậy, kết quả học tập, làm theo Bác cần phải được thể hiện cụ thể thông qua hành động, việc làm, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ. Nói cách khác, nó phải được lượng hóa cụ thể trên thực tế.

Trong các hội nghị chuyên đề và quá trình tiếp xúc cử tri, rất nhiều lần các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước ta đã lưu ý, việc có nhiều cán bộ suy thoái, tham nhũng bị điều tra, xử lý không phải là “càng chống càng sai”, “càng học càng kém”... mà bản chất của vấn đề là do càng ngày chúng ta càng làm mạnh, làm quyết liệt việc đấu tranh, chỉnh đốn đội ngũ theo tinh thần không có vùng cấm. Trước đây, ít có vụ việc bị xử lý không phải là không có tham nhũng, tiêu cực, mà bởi lúc đó công tác đấu tranh chưa quyết liệt như hiện nay nên việc phát hiện, xử lý tiêu cực chưa hiệu quả.

Với tinh thần “chặt cành để cứu cây”, “trị một người để cứu muôn người” như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nhấn mạnh, chúng ta cần thấy rõ, tham nhũng, tiêu cực, suy thoái là những biểu hiện vô cùng tinh vi, vô cùng khó khăn để có thể lôi ra ánh sáng công lý. Chủ nghĩa cá nhân như sâu mọt đục khoét bên trong thân cây.

Công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tiêu cực gắn với đẩy mạnh học tập, làm theo Bác với tinh thần “lấy xây để chống” thời gian qua đã lôi ra được hàng loạt cán bộ suy thoái trong nội bộ Đảng. Đó là thành tựu của cuộc đấu tranh đầy cam go, phức tạp và không ít “hy sinh”. Thành tựu đó đã góp phần làm cho Đảng ta ngày càng vững mạnh, ngày càng đạo đức, văn minh để xứng đáng với niềm tin và sự gửi gắm của nhân dân.

Cần phải học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

 Cần phải học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng, để lãnh đạo “phong trào cách mạng lôi cuốn hàng ức hàng triệu người”, để vượt qua “muôn loại phức tạp, khó khăn” và “để cân nhắc mọi hoàn cảnh phức tạp, nhìn rõ các mâu thuẫn, để giải quyết đúng các vấn đề, thì chúng ta càng phải cố gắng học tập lý luận Mác - Lênin”. Với ý nghĩa đó, Người không chỉ đặc biệt quan tâm đào tạo lý luận cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và đào tạo cán bộ lý luận chính trị, mà còn đồng thời khẳng định đó là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của Đảng Mácxít - Lêninnít.

1. "Chỉ Đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong"

Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã từ một người yêu nước trở thành một người cộng sản, và không dừng ở đó, Người còn là một lãnh tụ mácxít. Thấm nhuần quan điểm của V.I. Lênin: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng” và “chỉ Đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong”, Người không chỉ vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, mà còn làm phong phú, đóng góp vào kho tàng lý luận Mác - Lênin. Một trong những thành công của Người là đưa chủ nghĩa Mác - Lênin/một học thuyết cách mạng, khoa học, hiện đại đến với những người Việt Nam yêu nước, để soi đường, dẫn lối nhằm “hành động đúng” thông qua những bài giảng tại lớp Huấn luyện chính trị cho những thanh niên Việt Nam yêu nước tại Quảng Châu, Trung Quốc (sau được Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông xuất bản thành Đường Kách mệnh năm 1927); thông qua những bài viết của Người đăng trên tờ báo Thanh Niên - cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên về những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, về Đảng Cộng sản, Quốc tế Cộng sản, các tổ chức Thanh niên, Phụ nữ; về phương pháp vận động quần chúng,v.v...

Ánh sáng lý luận của học thuyết cách mạng “chân chính nhất, chắc chắn nhất và khoa học nhất”/chủ nghĩa Mác - Lênin cùng phong trào “vô sản hóa” đã góp phần làm cho phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam phát triển lên một tầm cao mới; đưa phong trào công nhân phát triển từ tự phát lên tự giác, dẫn đến sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Thành công của quá trình truyền bá, sự thâm nhập chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam; thành công của Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam mùa Xuân năm 1930 đã khẳng định sự cần thiết phải trang bị lý luận Mác - Lênin cho những người Việt Nam yêu nước. Và như thế, với việc giảng dạy, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc không chỉ trang bị cho những “hạt giống đỏ” của cách mạng Việt Nam lý luận cách mạng tiên tiến của thời đại, để họ có lý luận dẫn đường, mà còn đồng thời đào tạo lớp “cán bộ lý luận chính trị” đầu tiên, cốt cán của Đảng.

Trong những năm sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trên cơ sở thấu hiểu sâu sắc vai trò của lý luận, sự cần thiết phải có lý luận soi đường và từ thực tế phong trào cách mạng trong nước “vì thiếu kiến thức lý luận, buộc các đồng chí ấy phải mò mẫm từng bước, luôn luôn vấp váp vì thiếu thốn”, Người đã đề nghị việc khắc phục những khó khăn đó bằng cách “tạo điều kiện cho các đồng chí tiếp thụ được những kiến thức sơ đẳng nhất mà mỗi chiến sĩ đều phải có”[2]. Đồng thời, Người cũng đề nghị xuất bản những cuốn sách nhỏ, đơn giản, rõ ràng và dễ hiểu viết về Tuyên ngôn cộng sản, Đảng Cộng sản và các tổ chức của Đảng, Lịch sử Quốc tế Cộng sản, các tổ chức Thanh niên, Công hội, về Mác, Ăngghen, Lênin,v.v.. để làm tài liệu huấn luyện lý luận chính trị, giúp những người cộng sản Việt Nam nâng cao trình độ lý luận, để “có sức mạnh định hướng, sự sáng suốt dự kiến tương lai, kiên định trong công tác và lòng tin ở thắng lợi của sự nghiệp của chúng ta” như Xtalin từng nói.

Có thể khẳng định rằng, với một Đảng Mácxít - Lêninnít thì việc học tập lý luận chính trị nói chung, lý luận Mác - Lênin nói riêng là công việc “cần kíp của Đảng”. Bởi đó không chỉ là vũ khí tinh thần quan trọng, rất cần thiết của những người cách mạng, mà còn giúp những họ có thế giới quan khoa học, phương pháp làm việc biện chứng, có đạo đức cách mạng sáng ngời để quy tụ, lãnh đạo quần chúng, xứng đáng với vai trò tiền phong. Và cũng vì thế, việc đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, lý luận Mác - Lênin cho đội ngũ cán bộ, đảng viên cấc cấp chính là nhằm nâng cao sự giác ngộ lý tưởng cách mạng, củng cố niềm tin chân lý để mỗi người và đặc biệt là đội ngũ những người làm công tác lý luận của Đảng bản lĩnh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cơ sở khoa học của học thuyết Mác - Lênin.

2. Đảng phải “không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên”

Là Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc rằng, để kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị, thường xuyên học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm vững những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để không chỉ “hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp” mà còn phải vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của đất nước để hoàn thành được trọng trách mà Tổ quốc và nhân dân giao phó. Đặc biệt, trong học tập lý luận chính trị nói chung, chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng, mỗi cán bộ, đảng viên phải chú trọng học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình “để làm việc, làm người, làm cán bộ” đúng, nghiêm, tốt như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn, chứ không phải là học “thuộc làu làu” , để “khoe mẽ”...

Cũng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ, đảng viên, nhất là những người làm công tác lý luận/cán bộ lý luận không chỉ lấy lý luận Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của mình, không chỉ phải kiên định bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, mà còn phải nhận thức sâu sắc vai trò, nhiệm vụ của mình. Đó là, luôn “phải học thêm mãi thì mới làm được công việc huấn luyện của mình… Người huấn luyện nào tự cho là mình đã biết đủ cả rồi, thì người đó dốt nhất” để không ngừng tích lũy, làm giàu tri thức, trình độ lý luận của mình bằng “những điều hiểu biết quý báu các đời trước để lại”; đồng thời học tập một cách sáng tạo, linh hoạt kinh nghiệm của các nước anh em để làm tốt công tác Đảng giao phó cho mình và nhất là phải tu dưỡng đạo đức cách mạng để vừa hồng, vừa chuyên.

Cùng với đó, quán triệt sâu sắc nguyên tắc không thể để những người làm công tác lý luận, cán bộ lý luận không theo kịp sự phát triển của tình hình và nhiệm vụ, nhất là “thiếu hụt về lý luận”, “chậm về lý luận”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh yêu cầu Đảng phải có kế hoạch huấn luyện chặt chẽ, chu đáo, tổ chức và lãnh đạo sâu sát, tỉ mỉ công tác huấn luyện chính trị và “không nên bủn xỉn về các khoản chi tiêu trong việc huấn luyện”. Đồng thời, thấm nhuần những chỉ dẫn của V.I.Lênin: "Không thể là một nhà lãnh đạo tư tưởng mà lại không làm công tác lý luận..., cũng như không thể là một nhà lãnh đạo tư tưởng mà lại không hướng công tác đó theo những nhu cầu của sự nghiệp" và nhất là “vì trình độ lý luận thấp kém cho nên đứng trước nhiệm vụ cách mạng ngày càng mới và phức tạp, trong việc lãnh đạo, Đảng ta không khỏi lúng túng, không tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm”, nhà trường được giao thực hiện nhiệm vụ quan trọng này chính là Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh).

Cũng theo lời Người, “Đảng ta tổ chức trường học lý luận cho cán bộ là để nâng cao trình độ lý luận của Đảng ta đặng giải quyết sự đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng và tình hình thực tế của Đảng ta, để Đảng ta có thể làm tốt hơn công tác của mình, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ cách mạng vĩ đại của mình”, cho nên việc cán bộ, đảng viên sao nhãng/lười/học chiếu lệ/học hình thức/học đối phó về lý luận chính trị cũng như chủ nghĩa Mác - Lênin chính là một trong những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống... Thực trạng những biểu hiện này sau đó đã được Đảng ta nêu rõ trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ”…

Để có một đội ngũ cán bộ lý luận đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, ngoài việc đào tạo theo quy chuẩn ở hệ thống các trường chính trị, hệ thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài theo trường lớp; hoặc vừa đào tạo, bồi dưỡng theo trường lớp vừa được rèn luyện trong thực tế, thì quá trình tự đào tạo của mỗi cán bộ, đảng viên cũng rất quan trọng. Nâng cao trình độ lý luận chính trị không chỉ là quá trình học tập ở mọi lúc, mọi nơi, theo kế hoạch, theo trường, lớp, theo bài bản, có hệ thống từ thấp đến cao mà còn là học từ những thành công và qua những lần thất bại trong công tác hằng ngày, gắn lý luận với thực tiễn, để rút ra những bài học kinh nghiệm cho bản thân mình, để qua đó tự bồi dưỡng và cập nhật tri thức lý luận cho bản thân mỗi người.

Với ý nghĩa đó, việc mỗi cán bộ, đảng viên phải nhận thức sâu sắc rằng lý luận cách mạng không giáo điều, chủ nghĩa Mác - Lênin một học thuyết mở và thực tiễn cách mạng thì phong phú, sinh động, nên trong hoạt động thực tiễn vừa phải vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin, vừa phải tự làm giàu tri thức, nâng cao trình độ lý luận của mình bằng việc thường xuyên bổ sung những lý luận mới rút ra từ thực tiễn là rất quan trọng. Chỉ có như vậy, mỗi người cán bộ, đảng viên mới vừa có đủ bản lĩnh, trí tuệ để xứng đáng với vai trò lãnh đạo/cầm quyền của mình, vừa là những người “phải làm kiểu mẫu về mọi mặt: tư tưởng, đạo đức, lối làm việc” để quy tụ, hấp dẫn quần chúng; đồng thời, tìm ra những vấn đề có tính quy luật của cách mạng, khắc phục được những sai lầm trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo thực tiễn.

3. “Kiên định vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người luôn gắn lý luận với thực tiễn, dùng kinh nghiệm trong thực tiễn để bổ sung cho lý luận. Cuộc đời Người là một mẫu mực của nhà lý luận - thực hành, sâu sát thực tiễn. Người biểu đạt lý luận thông qua những bài nói, bài phát biểu, bài viết ngắn gọn của mình (với hơn 1.500 bài, với hơn 170 bút danh khác nhau) và Người đi thăm các địa phương, cơ sở khoảng 700 lần (trong vòng 10 năm, từ 1955-1965), để từ thực tiễn bổ sung, phát triển lý luận, đồng thời qua đó kiểm nghiệm lý luận. Và thực tế là, thế giới có thể luôn biến động, song “trong mọi biến đổi cũng có một số điều quan trọng không hề thay đổi. Đó là lý tưởng xã hội chủ nghĩa, các tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa, tự do, dân chủ và công bằng xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà yêu nước vĩ đại, người theo chủ nghĩa quốc tế đã cống hiến trọn đời mình cho những lý tưởng đó”.

Từ di sản Người để lại, yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc cán bộ, đảng viên phải gắn lý luận với thực tiễn, phải thấm nhuần và quán triệt sâu sắc rằng ‘thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin”;  “việc học tập lý luận của các đồng chí không phải nhằm biến các đồng chí thành những người lý luận suông, mà nhằm làm thế nào cho công tác của các đồng chí tốt hơn”; “nhằm mục đích học để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận” và “dùng lý luận đã học được để phân tích những thắng lợi và thất bại trong công tác”,v.v.. càng khẳng định tầm quan trọng của việc phải “học tập lý luận là một sự bức thiết đối với Đảng ta như thế nào”.

Đặc biệt, kể từ khi “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động” được khẳng định trong văn kiện từ Đại hội VII của Đảng đến nay; được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), thì yêu cầu đào tạo lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; việc vận dụng sáng tạo, có hiệu quả lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cuộc sống cùng những thành tựu lý luận mới cho đội ngũ cán bộ, đảng viên theo những chỉ dẫn của Người càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.

Càng nhiều khó khăn, thử thách, những người cộng sản Việt Nam càng nhận thức rõ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là thế giới quan, phương pháp luận khoa học nền tảng để không chỉ nhận thức thức đúng mà còn hành động đúng nhằm giải quyết những vấn đề thực tiễn đương đại đặt ra, góp phần vào những thành tựu đạt được của đất nước sau hơn 35 năm đổi mới và hội nhập. Tri thức khoa học về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ cần phải được giảng dạy và học tập một cách khoa học, nghiêm túc trong hệ thống các học viện, trường chính trị các cấp; hệ thống các trường đại học, cao đẳng… để trở thành tri thức nền tảng vững chắc với mỗi cán bộ, đảng viên, sinh viên…, mà đó còn là đòi hỏi vừa khách quan, vừa chủ quan để kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

Không thể tư duy kiểu “hớt váng”

Sau 2 năm thực hiện Kết luận số 01-KL/TW (gọi tắt là Kết luận 01), trong quá trình tổ chức hội nghị sơ kết rút kinh nghiệm, thực tiễn ở nhiều cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị các cấp ghi nhận không ít ý kiến băn khoăn. Một trong những vấn đề được dư luận xã hội quan tâm đặt ra là: Tại sao Đảng ta càng đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thì số lượng cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật càng nhiều? Tại sao ở một số bộ, ngành, địa phương, mặc dù người đứng đầu mỗi lần đăng đàn phát biểu trong các hội nghị liên quan đều hô hào phải đẩy mạnh phòng, chống tiêu cực, suy thoái, nhưng chỉ mới “dăm bữa nửa tháng” đã vướng vòng lao lý?

Một số cán bộ vừa mới hôm qua lên diễn đàn thuyết giảng đạo lý, hôm sau đã phải tra tay vào còng? Phải chăng, thực trạng đó chứng minh, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chỉ là hình thức, kém hiệu quả, trước hết là ở ngay trong hệ thống chính trị, ngay trong hàng ngũ cán bộ cấp cao? Phải chăng cán bộ càng được học cao, vi phạm càng nhiều...

Những vấn đề được một bộ phận dư luận xã hội đặt ra như trên một phần xuất phát từ những thông tin do các thế lực thù địch xuyên tạc, lèo lái. Thành tựu của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong tổ chức đảng và hệ thống chính trị các cấp luôn là đề tài được các đối tượng cực đoan, bất mãn có tư tưởng thù địch khai thác, thực hiện các chiến dịch truyền thông xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước trên không gian mạng.

Họ bám vào các vụ việc tiêu cực, các cán bộ suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống bị xử lý kỷ luật đảng, truy tố trước pháp luật để suy diễn, xuyên tạc, phủ nhận thành quả nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; bóp méo, bôi đen tư tưởng Hồ Chí Minh. Những thông tin sai trái, xấu độc trên không gian mạng đã tác động đến tâm lý, tư tưởng của một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng, dẫn đến kiểu tư duy “hớt váng”, thấy hiện tượng mà không hiểu bản chất; thấy cây mà không thấy rừng... (trích báo qdnd )

Từ cách mạng Tháng mười Nga đến cách mạng tháng Tám ở Việt Nam – Những sáng tạo vĩ đại của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc

 Từ cách mạng Tháng mười Nga đến cách mạng tháng Tám ở Việt Nam – Những sáng tạo vĩ đại của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc

1. Ý nghĩa to lớn của Cách mạng Tháng Mười Nga

Cách mạng tháng Mười Nga mở ra một trang mới trong lịch sử phát triển nhân loại, đánh dấu một xu thế phát triển tất yếu, một thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. Nói về ý nghĩa của cách mạng tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc viết: “Giống như mặt trời chói lọi, cách mạng tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”.

Cách mạng tháng Mười thực hiện sứ mệnh giải phóng quần chúng lao động khỏi mọi chế độ áp bức bóc lột, đưa họ từ thân phận người nô lệ làm thuê lên địa vị người chủ chân chính của xã hội. Với cách mạng tháng Mười Nga, lần đầu tiên trong lịch sử quyền tự quyết của các dân tộc đã được thực hiện trên một phần hành tinh; đem lại nhà máy cho công nhân, ruộng đất cho nông dân, hòa bình và hữu nghị cho các dân tộc, tự do, hạnh phúc cho mọi người. Dưới ảnh hưởng to lớn của Cách mạng Tháng Mười và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, chủ nghĩa xã hội đã trở thành một hệ thống trên thế giới. Phong trào giải phóng dân tộc, phong trào đấu tranh cho tiến bộ hoà bình, được Cách mạng Tháng Mười thức tỉnh, cổ vũ, đã trở thành những làn sóng to lớn trong thế kỷ XX. Thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga tác động to lớn đối với sự phát triển của cách mạng thế giới, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đầu năm 1919, Quốc tế thứ Ba được thành lập, đánh dấu sự thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với khuynh hướng cơ hội hữu khuynh và chủ nghĩa sô-vanh của Quốc tế thứ hai.

2. Nguyễn Ái Quốc vận dụng sáng tạo những giá trị của Cách mạng Tháng Mười Nga

Khi nhân dân Nga tiến hành cách mạng vô sản thành công thì nhân dân Việt Nam vẫn đang chìm đắm trong đêm dài nô lệ. Với truyền thống yêu nước bất khuất, nhân dân Việt Nam không ngừng vươn lên đấu tranh chống đế quốc và tay sai, song, các phong trào yêu nước theo đường lối phong kiến hoặc theo khuynh hướng tư sản đều thất bại vì không đáp ứng được nguyện vọng của đa số quần chúng nhân dân lao động.

Giữa lúc đó, Nguyễn Ái Quốc, sau hơn 10 năm bôn ba tìm con đường cứu nước đã đến với ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, ánh sáng của cách mạng tháng Mười. Trong tác phẩm Đường Cách mệnh, Người viết: “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng ( công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”. Tháng 7-1920, khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, Nguyễn Ái Quốc sớm nắm bắt được cái cốt lõi trong tư tưởng của Lênin là: Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại. Luận cương đã vạch ra đường lối cơ bản cho phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, giải đáp cho Người về con đường giành độc lập dân tộc và tự do cho đồng bào Việt Nam mà Người đang kỳ công tìm kiếm. Người viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!" . Người đã có những nhận xét rất sâu sắc, toàn diện về cách mạng Tháng Mười Nga: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới” .

Từ những thành công của cuộc cách mạng nổi tiếng thế giới - cáchmạng tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc đã phát triển những nguyên lý cách mạng tiến bộ đó vào cách mạng tháng Tám của Việt Nam. Người tìm ra chân lý về con đường giải phóng của dân tộc, khẳng định muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin , những bài học kinh nghiệm của Cách mạng tháng Mười vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng vượt qua nhiều khó khăn, liên tục giành được những thắng lợi to lớn.

Những định hướng cơ bản từ cách mạng tháng Mười Nga đối với cách mạng mạng Tháng Tám - cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam là:

Trước hết, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo

Nguyễn Ái Quốc khẳng định, muốn giải phóng dân tộc thành công: “Cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công” . Vai trò lãnh đạo của Đảng đã được Mác, Ăng ghen, Lê-nin khẳng định và trong Cách mạng Tháng Mười Nga, Lênin đã vận dụng rất thành công. Nhận thức về sứ mệnh của Đảng, ngay từ tác phẩm “Đường cách mệnh” (1927), Người đã chỉ rõ: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam” .

Nguyễn Ái Quốc cho rằng để xây dựng Đảng Cộng sản, trước hết phải giải quyết tốt vấn đề nhận thức tư tưởng chính trị và phương pháp tổ chức cho những người yêu nước; phải giác ngộ chủ nghĩa yêu nước truyền thống, chủ nghĩa dân tộc Việt Nam theo lập trường cách mạng vô sản… Trong quá trình huấn luyện cán bộ cho cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc không chỉ truyền bá lý luận Mác-Lênin vào công nhân mà còn truyền bá vào các tầng lớp trí thức yêu nước. Cuối những năm 20 của thế kỷ XX, các tổ chức cộng sản lần lượt được thành lập: Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ. Tuy nhiên, sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia là nguy cơ dẫn đến chia rẽ trong phong trào công nhân, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Yêu cầu bức thiết lúc đó là thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam.

Mùa Xuân năm 1930, bằng uy tín và kinh nghiệm của mình, Nguyễn Ái Quốc thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối của cách mạng Việt Nam và là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử nước ta.

Thứ hai là tập hợp, huy động lực lượng toàn dân tham gia vào Tổng Khởi nghĩa tháng Tám, giành chính quyền cách mạng

Tiếp thu tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin và bài học kinh nghiệm từ Cách mạng tháng Mười Nga: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cần vận động tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang bị mất nước. Người luôn khẳng định đoàn kết là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam mà nhờ đó mới tạo nên nhiều chiến công lẫy lừng của dân tộc. Từ thực tiễn lịch sử đấu tranh cách mạng, Người nêu cao chân lý: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công. Do đó, Người chủ trương và dành nhiều tâm lực để xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, để huy động sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân. Mặt trận dân tộc thống nhất tập hợp rất rộng rãi các tầng lớp xã hội, các giới đồng bào, các dân tộc và tôn giáo…dựa trên sự đánh giá đúng đắn truyền thống lịch sử và thực trạng phân hóa kinh tế, xã hội và thái độ chính trị của các thành viên trong cộng đồng dân tộc Việt Nam đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Thực hiện đường lối đoàn kết dân tộc với việc thành lập Mặt trận dân tộc mà thời kì trước đó đã tiến hành với nội dung, hình thức thích hợp, Nguyễn Ái Quốc có đóng góp quan trọng vào việc quyết định và thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) thay cho “Mặt trận dân tộc thống nhất Phản đế Đông Dương”, nhằm đoàn kết, phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân, đánh đuổi Pháp, Nhật.

Trải qua các bước tìm tòi, thử nghiệm, tháng 11-1939 và đến tháng 5-1941, Trung ương Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mới lần lượt đưa ra các quyết định: Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại…chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng” và nhiệm vụ đánh Pháp, đuổi Nhật không phải riêng của công, nông mà là nhiệm vụ chung của toàn thể nhân dân. Lực lượng giai cấp, dân tộc được tập hợp và phát huy sức mạnh trong các đoàn thể cứu quốc, trong Mặt trận Việt Minh, tạo dựng An toàn khu, chiến khu để vừa bảo vệ Đảng, vừa tổ chức, phát triển các đơn vị vũ trang và đội quân chính trị. Tất cả những yếu tố đó tạo nên nguồn lực mạnh mẽ tiến hành khởi nghĩa từng phần, tiến tới tổng khởi nghĩa do Trung ương phát động.

 

Thứ ba là tự chủ và sáng tạo, tranh thủ những điều kiện, thời cơ thuận lợi do tình hình quốc tế đem lại, chớp thời cơ khởi nghĩa tháng Tám

Từ sự chuẩn bị mọi mặt cho cách mạng về Đảng, về lực lượng, về cách thức, phương pháp tiến hành cách mạng, đến trình độ nhận thức nhạy bén, đánh giá xu thế chuyển biến của cục diện chính trị quốc tế, khu vực trong thời đại mới; sự phát triển của các phong trào cách mạng, phong trào hòa bình, dân chủ trên thế giới; thế và lực của cách mạng nước ta và đối phương, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Ban Chấp hành Trung ương Đảng có những nhận định ngay từ tháng 5-1941: “ Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”.

Sau khi biết tin thắng trận của Hồng quân Liên Xô và quân Đồng Minh trên chiến trường Châu Âu đánh bại phát xít Đức, tiếp đó quân Đồng minh tiến hành phản công trên Mặt trận Châu Á - Thái Bình Dương và trong nước, phong trào đấu tranh của nhân dân diễn ra dồn dập, lực lượng chính trị, vũ trang phát triển nhanh chóng, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ |Chí Minh cho rằng cần chuẩn bị hết sức gấp rút để phát động toàn dân nổi dậy giành chính quyền đúng thời cơ, tiến hành tổng khởi nghĩa. Trong những ngày đầu tháng 8-1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ thị cho nhiều cán bộ cấp cao ở Tân Trào: “Chúng ta cần tranh thủ từng giây, từng phút, tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng. Không thể để lỡ cơ hội”.

Trước tình hình cấp bách đó, Hồ Chí Minh quyết định: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập” . Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, trên cơ sở chọn lọc những yếu tố tích cực của mô hình tổ chức nhà nước Xôviết và các nhà nước dân chủ khác, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Một quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận mang tính chỉ đạo lâu dài đối với Đảng và nhân dân ta được Hồ Chí Minh chỉ ra là: “Đi theo con đường do Lênin vĩ đại đã vạch ra, con đường của Cách mạng Tháng Mười, nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi rất to lớn. Chính vì vậy mà mối tình gắn bó và lòng biết ơn của nhân dân Việt Nam đối với Cách mạng Tháng Mười vẻ vang, đối với Lê-nin vĩ đại và đối với nhân dân Liên Xô là vô cùng sâu sắc”.

Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng sáng tạo mang tầm vóc thời đại của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, tiếp thụ và truyền bá những mục tiêu, lý tưởng cao đẹp của cách mạng tháng Mười Nga vào thực tiễn Việt Nam. Từ cách mạng tháng Tám thành công, dân tộc Việt Nam được giải phóng, thoát khỏi ách nô lệ, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được mở ra. Những nguyên lý sâu sắc về cách mạng giải phóng dân tộc của cách mạng tháng Mười Nga được lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng, phát triển trong các cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, nhất là cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thống nhất non sông. Ngày nay, sau hơn 35 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục phát triển khoa học, sáng tạo những bài học lịch sử, những kinh nghiệm cách mạng mang tính phổ biến, sâu sắc của cách mạng tháng Mười Nga; kiên định lấy chủ nghĩa Mác- Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động; kiên định vai trò lãnh đạo xuyên suốt của Đảng và Đảng luôn coi trọng, phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân, coi sức mạnh của quần chúng nhân dân là những giá trị vĩ đại làm nên lịch sử; độc lập, tự chủ luôn là nguyên tắc bất biến trong lãnh đạo đất nước hơn 90 năm qua của Đảng, đã giành được nhiều thắng lợi vĩ đại, xây dựng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hướng tới những lý tưởng cao đẹp của cách mạng tháng Mười Nga.

Nghiên cứu những mặt trái của mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay

 Nghiên cứu những mặt trái của mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay

 Không ai có thể phủ nhận sự ra đời của MXH đã đem lại nhiều tiện ích trong đời sống vật chất và tinh thần cho mọi giai tầng trong xã hội. Bởi MXH là một ứng dụng giúp kết nối, liên kết người dùng ở bất cứ đâu, là bất kỳ ai thông qua dịch vụ Internet, giúp họ có thể chia sẻ những sở thích và trao đổi những thông tin cần thiết với nhau, không phân biệt giới tính, độ tuổi, vùng miền, quốc gia dân tộc… Các dịch vụ, ứng dụng của MXH còn cho phép người dùng chia sẻ thông tin qua tin nhắn, gọi điện trực tuyến (miễn phí). Có thể nói, MXH là một trong những sản phẩm khoa học trí tuệ của con người trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin.

Hiện nay, có rất nhiều loại hình MXH khác nhau. Tại Việt Nam, các MXH bắt đầu du nhập từ những năm 2000 dưới hình thức các trang nhật ký điện tử (blog). Đến nay, có khoảng 270 MXH được cấp giấy phép hoạt động với khoảng 35 triệu người dùng, chiếm 37% dân số. Trung bình mỗi ngày người Việt Nam vào MXH hơn 2 giờ. Đối tượng sử dụng mạng Internet thường xuyên nhất là nhóm lứa tuổi từ 15 - 40 tuổi. Nhóm đối tượng này chủ yếu là học sinh, sinh viên và người lao động. Ở Việt Nam, có thể kể đến một số MXH được người dùng sử dụng nhiều nhất như Facebook, Youtube, Zalo, Twitter, Instagram… Kết quả của một cuộc khảo sát gần đây của công ty Asia Plus với hơn 600 người trong độ tuổi 18-39 đã cho thấy Facebook và Zalo là hai mạng xã hội đứng đầu về tỷ lệ người dùng ở nước ta hiện nay. Kế tiếp là các MXH khác như Instagram, Twitter và LINE.

Dù có những tiện ích, tuy nhiên, mặt trái của MXH trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng hiện nay là những điều đáng báo động. MXH là nơi để mọi người có thể “sống ảo” nhưng dần dần “tưởng thật”, là mảnh đất màu mỡ để các tội phạm công nghệ cao có thể sống “cộng sinh”,  đây là nơi để những kẻ bất chính có thể trục lợi về kinh tế và đây cũng là nơi để các thế lực thù địch thực hiện chiến lược diễn biến hòa bình... Hậu quả mặt trái của MXH để lại nhiều hệ lụy phức tạp cả về vật chất và tinh thần, thậm chí phải trả giá bằng cả tính mạng con người, tương lai của cả thế hệ và sự ổn định chính trị - xã hội của cả một quốc gia, dân tộc. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến hậu quả trên trong đó phải kể đến việc mất an ninh mạng, mất kiểm soát trong sử dụng của cộng đồng mạng, thiếu bản lĩnh, thiếu lập trường chính trị khi bị dẫn dụ bởi các trang “mạng đen”… Có thể đơn cử một vài vụ việc điển hình đã diễn ra trong thời gian gần đây: “website cảng hàng không bị tin tặc tấn công ảnh hưởng tới hoạt động điều hành bay và đe dọa an toàn bay; tài khoản ngân hàng của khách hàng bị đột nhập và rút hết tiền; sử dụng MXH để đăng, phát thông tin sai trái, bịa đặt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của cá nhân, tổ chức...”. Trước thực trạng đó, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta khẳng định: “Tăng cường quản lý và phát triển các loại hình truyền thông, thông tin trên Internet. Kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc, phản động, ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị - xã hội, thuần phong mỹ tục”.

Lợi dụng vụ án để công kích Đảng, Nhà nước

Từ việc bịa chuyện mâu thuẫn trong làm ăn, lao động sản xuất giữa người Kinh với người Thượng, bài viết vu cáo “chính quyền không bao giờ cho người dân tự do bày tỏ niềm tin tôn giáo mà họ lựa chọn”; “người Thượng cũng đem những bức xúc của mình đi khiếu nại với chính quyền nhưng không những không được giải quyết mà còn bị bắt bớ, đánh đập”. Từ đó, bài viết đánh tráo bản chất, bôi nhọ thành “chính quyền cộng sản Việt Nam gần như không quan tâm gì đến đồng bào Tây Nguyên”; biện hộ cho hành vi của những kẻ khủng bố rằng “khi bị đẩy vào bước đường cùng thì người dân không còn cách nào khác là sẵn sàng đối diện với cái chết để làm liều”; “khi họ không còn con đường để sống thì họ phải chấp nhận cái chết”…

Thậm chí, VOA còn dẫn lời Y Phic nói rằng, hơn 70 trường hợp bị bắt giữ trong vụ khủng bố ở Đắk Lắk thì “đa số là người vô tội”, vu cáo “chính quyền nghi ai, ghét ai thì họ đều bắt hết”! Đài VOA dẫn lời Nguyễn Đình Thắng, đối tượng cầm đầu Ủy ban cứu người vượt biển (BPSOS) - một tổ chức phản động lưu vong có trụ sở ở bang Virginia (Mỹ) đứng sau vụ tấn công ở Đắk Lắk, xuyên tạc chính quyền buộc người Thượng ở Tây Nguyên phải bỏ đạo, người thiểu số không quy thuận người Kinh...

Theo dõi những bài viết nói trên cho thấy, thủ đoạn của các đối tượng là thông qua ngôn ngữ kể chuyện của những nhân vật tự xưng “người Thượng ở Tây Nguyên” để đánh vào tâm lý người đọc, người nghe, người xem rằng đây là chuyện thật do người trong cuộc kể ra. Sự thực, người mà những đài báo này dẫn lời, nếu là “người Thượng ở Tây Nguyên” thì đó là những cái tên không rõ địa chỉ, con người cụ thể mà chỉ mang tính hư cấu.

Còn với “người Thượng ở hải ngoại” thì các bài viết dẫn ra tên người thật, thậm chí cả ảnh thật nhưng là lời của những kẻ chống đối, tham gia các tổ chức chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam, như hai trường hợp của tổ chức “người Thượng vì công lý” kể trên. Lời của những đối tượng luôn rắp tâm chống phá đất nước thì lấy gì để nói khách quan ở đây khi cứ hễ nói đến đất nước thì luôn kèm theo những câu từ đầy tính kích động, hằn học kiểu như “chính quyền đàn áp”, “bỏ rơi người Thượng”, “bị trói, bịt miệng”, “đẩy vào đường cùng”, “cùng quẫn nên liều mạng”…

Nội dung trong các bài viết, lời nói dù bằng cách này hay cách khác thì số này đều nhắm vào xuyên tạc, bôi nhọ chính sách của Đảng, Nhà nước với đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, cho rằng đồng bào bị bỏ rơi, bị chèn ép, đẩy vào khốn cùng. Cùng với đó là xuyên tạc tình cảm, đời sống của đồng bào Tây Nguyên, đưa ra những nội dung sai trái để gây chia rẽ giữa người Kinh với người Thượng, giữa các đồng bào dân tộc thiểu số. Một số bài viết còn xuyên tạc việc chính quyền “lợi dụng vụ việc để đàn áp, truy bức người Thượng”, từ đó đưa ra cái nhìn sai lệch, nhất là gây hiểu lầm đối với dư luận ở nước ngoài, cố tình tạo ra những mâu thuẫn, bất ổn từ bên trong để kêu gọi sự can thiệp của các tổ chức quốc tế vào công việc nội bộ của Việt Nam…


Nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay

Nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên MXH ở Việt Nam hiện nay

Ngay từ khi thành thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin - hệ tư tưởng của giai cấp công nhân làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Do đó, Cương lĩnh tháng 2/1930 đã chỉ rõ mục tiêu cách mạng Việt Nam “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để tới xã hội cộng sản”. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII năm 1991, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Điều này, cũng đã được khẳng định trong Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội Việt Nam qua các thời kỳ. Đến Hiến pháp năm 2013, trong Điều 4 cũng đã quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Đây là sự thể hiện ý chí và nguyện vọng của dân tộc Việt Nam về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn ngay từ đầu. Đồng thời, cũng khẳng vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, đây lại điều mà các thế lực thù địch luôn xuyên tạc, bôi nhọ hòng làm phai nhạt lý tưởng cách mạng của quần chúng nhân dân, kích động, gây mất niềm tin trong quần chúng nhân dân về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thông qua các trang MXH với nhiều hình thức khác nhau. Do đó, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên MXH ở Việt Nam hiện nay gắn với các nội dung chủ yếu sau:

Một là, bảo vệ các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa duy vật lịch sử mà hạt nhân là học thuyết về hình thái kinh tế xã hội; học thuyết về giá trị thặng dư và học thuyết về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân. Tiếp tục khẳng định giá trị và ý nghĩa của những nguyên lý đó trong thời đại ngày nay.

Hai là, bảo vệ các quan điểm, tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt cho quá trình cách mạng Việt Nam. Tiếp tục khẳng định giá trị và ý nghĩa của những quan điểm, tư tưởng đó trong thời đại ngày nay.

Ba là, bổ sung, phát triển các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay - thời đại toàn cầu hóa và kinh tế tri thức. Tiếp tục khẳng định, dù lịch sử có thay đổi nhưng xu thế tất yếu của thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.

Bốn là, bảo vệ cương lĩnh chính trị các quan điểm, đường lối, của Đảng Cộng sản Việt Nam về kiên định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động; về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua tư bản chủ nghĩa; về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa…

Năm là, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Sáu là, bảo vệ những thành quả của cách mạng Việt Nam (cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa) do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam dày công xây đắp; đặc biệt là, bảo vệ những thành quả của công cuộc đổi mới đất nước với quá trình “đẩy mạnh mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức”(6).

Bảy là, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ vùng trời, vùng biển và sự  toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ tình hữu nghị, đoàn kết, hợp tác với các nước láng giềng và các nước trong khu vực; bảo vệ mối quan hệ quốc tế trong sáng với tất cả các nước trên thế giới.

Tám là, phê phán, đấu tranh, ngăn chặn các quan điểm sai trái, bóp méo, xuyên tạc của các thế lực thù địch; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

 

Thủ đoạn đánh trảo bản chất

Bằng những thủ đoạn đánh tráo bản chất dưới dạng hồi ức, kể lại, nhớ lại, tự bịa ra lời nói của những cá nhân không có thật, nhiều bài viết cố tình vẽ ra bức tranh với gam màu xám xịt ở Tây Nguyên rồi quy kết rằng “việc tấn công vào trụ sở Công an tại hai xã vừa qua rất có thể là phản ứng của sự phẫn nộ, phản kháng khi người sắc tộc bị dồn vào đường cùng”! Đây là thủ đoạn vu cáo hết sức nguy hiểm nhằm kích động chống phá từ bên trong và gây sự hiểu lầm, tạo sức ép từ bên ngoài.

Đài Á châu tự do (RFA) đưa bài mang rõ tính kích động, xuyên tạc chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng ta khi nói rằng, giải pháp cho các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, tôn giáo ở Tây Nguyên đều lặp lại điệp khúc cách đây hàng chục năm. Từ đó bôi nhọ: “Không chỉ nguội mà còn cuội. Cuội là vì trên thực tế, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đi ngược lại chính sách đại đoàn kết dân tộc và giờ đây lại còn đổ vấy trách nhiệm về biến cố xả súng ở huyện Cư Kuin”!

Trong một bài viết khác, đài này dùng những ngôn từ xảo trá để bóp méo bản chất vụ án khủng bố ở Đắk Lắk, “đánh lái” thành vấn đề xung đột, mâu thuẫn trong các dân tộc ở Tây Nguyên, vu cáo người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên “không chịu được sự áp đảo hiện nay bởi sự thống trị của người Việt đến từ đồng bằng”. Với cách dẫn dắt sai trái này, bài viết nhắm vào chỉ trích Đảng, Nhà nước: “Chính quyền của Đảng Cộng sản bị cáo buộc đàn áp các nhóm sắc dân này, những người đã từng chiến đấu với họ trong các cuộc chiến tranh chống Pháp, Mỹ…”; “đồng bào thiểu số ở Tây Nguyên đã bị truất sở hữu đất đai của tổ tiên, nơi mà nhà nước áp dụng chính sách thuộc địa”!

Đài này cũng đưa nhiều phỏng vấn những đối tượng tự xưng là người dân tộc HMong, người Thượng tự nhận là “nạn nhân bị đàn áp tôn giáo” phải bỏ chạy lưu vong hoặc dẫn lời những trường hợp không rõ địa chỉ cụ thể để bôi nhọ tình hình thực tế tại Đắk Lắk. Những đối tượng này cho rằng vụ việc ở Đắk Lắk là “hành động phản kháng của người Tây Nguyên theo đạo Tin lành bị áp bức về đức tin”, là “mâu thuẫn sắc tộc” âm ỉ từ lâu; xuyên tạc bản chất vấn đề bằng chiêu bài “người Kinh áp bức người Thượng”, “người Kinh chiếm đất của người Thượng”…

Cũng với giọng điệu bịa đặt, đả kích, Đài VOA đưa nhiều bài viết đánh lừa người đọc dưới dạng người Thượng ở Tây Nguyên kể chuyện. Trong bài viết “Người Thượng tấn công chính quyền vì tức nước vỡ bờ”, bằng việc dẫn lời của hai trường hợp ở Hoa Kỳ có tên là Y Phíc và Aga - thành viên của tổ chức phản động “Người Thượng vì công lý”, bài viết trích dẫn những nội dung sai trái nhắm vào miệt thị chính quyền, quy cho nguyên nhân vụ khủng bố là “họ đã bị đẩy đuổi đến bước đường cùng”!

Xây dựng phong cách lãnh đạo bằng nêu gương theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh

 

Xây dựng phong cách lãnh đạo bằng nêu gương theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Đại hội XIII của Đảng xác định, để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh thì phải tăng cường “Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết”. Đặc biệt, để xây dựng phong cách lãnh đạo bằng nêu gương theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên về vai trò tiên phong, gương mẫu của người lãnh đạo. Trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Vì Đảng ta không phải trên trời sa xuống, mà từ trong xã hội sinh ra”, nên “chẳng những phải ra sức rèn luyện và tu dưỡng, trong lúc gian khổ khó khăn, trong lúc thất bại, mà còn và càng phải rèn luyện và tu dưỡng trong lúc thuận lợi, trong lúc thành công”. Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để thực hiện mục tiêu đó là phải nâng cao nhận thức trên cơ sở khoa học về tính tiên phong, gương mẫu của đảng viên, về tầm quan trọng, vị trí, vai trò và nội dung nêu gương của đảng viên trước nhân dân với tư cách là những thành viên của Đảng tiên phong - Đảng cầm quyền.

Thứ hai, phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng trong việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của người lãnh đạo. Tiếp tục nghiên cứu, chỉ đạo nghiêm túc việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của các tổ chức đảng, gắn với thực hiện Nghị quyết, Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII; các chỉ thị, quy định về nêu gương của Đảng, các quan điểm chỉ đạo và nội dung về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được đề ra tại Đại hội XIII của Đảng. Các cấp ủy phối hợp với lãnh đạo cùng cấp tiếp tục chỉ đạo, lựa chọn các nhiệm vụ trọng tâm phù hợp với tình hình cụ thể, tập trung giải quyết và kiên quyết xử lý thỏa đáng những vấn đề nổi cộm, tồn đọng kéo dài gây bức xúc trong dư luận xã hội; đồng thời, xây dựng kế hoạch cụ thể để khắc phục những vấn đề đó; phải có thái độ kiên quyết theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đảng cần phải hết sức ngăn ngừa hiện tượng ấy, phải kịch liệt chống lại nó; phải tẩy những phần tử đã hủ hoá ra khỏi Đảng và cơ quan chính quyền, để giữ gìn tính trong sạch của Đảng và của chính quyền”. Xử lý nghiêm minh, kịp thời, không nể nang những kẻ vi phạm theo phương châm “quan phạm tội, xử nặng hơn thứ dân”, “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”. Mặt khác, cần đặt vấn đề thực hiện trách nhiệm nêu gương của đảng viên là một nội dung xem xét trong công tác tổ chức và bố trí cán bộ; hoàn thiện thể chế, quy định chuẩn mực về phong cách nêu gương của cán bộ lãnh đạo, quản lý từng cấp, từng ngành, từng đơn vị,... làm cơ sở cho đánh giá, giám sát, quản lý cán bộ. Tiếp tục cụ thể hóa để có thể đo lường lề lối, phong cách của từng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở từng cấp, từng ngành, từng đơn vị một cách phù hợp, làm cơ sở cho việc đánh giá, phân loại và giám sát cán bộ hằng năm theo Quy định số 89-QĐ/TW, ngày 4-8-2017, của Bộ Chính trị, “Về khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”.

Thứ ba, hoàn thiện mô hình đào tạo, áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ hướng tới xây dựng phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại đối với người đứng đầu. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu qua hoạt động thực tiễn; đặc biệt là đào tạo thông qua luân chuyển, xử lý tình huống, qua thực hiện hành vi chuẩn mực trước nhân dân và trong công việc; qua tự rèn luyện phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, giải quyết các vấn đề lãnh đạo một cách chuyên nghiệp, hiện đại. Theo đó, rèn luyện đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý theo hướng có tinh thần tận tụy, gương mẫu, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh và có năng lực tìm tòi, sáng tạo trong thực thi nhiệm vụ được giao. Muốn vậy, mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu phải gương mẫu, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, học tập suốt đời, học hỏi đồng nghiệp, học từ thực tiễn công việc theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Thứ tư, tăng cường công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của người lãnh đạo. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chủ động tham gia giám sát việc thực hiện trách nhiệm nêu gương đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, người đứng đầu, nhất là về lập trường tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tham mưu, góp ý với Đảng về những chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp nhằm giúp cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nâng cao và ngày càng hoàn thiện phẩm chất, năng lực, góp phần tích cực vào công tác xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; bảo đảm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng “là đạo đức, là văn minh”.

Phát huy vai trò của nhân dân đối với công tác cán bộ, tham gia giám sát phong cách lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp; tăng cường vai trò của báo chí trong tổng kết, cổ vũ, nhân rộng các gương điển hình tiên tiến, phê phán phong cách quan liêu, hách dịch của một bộ phận cán bộ, đảng viên có hành vi ứng xử đi ngược lại lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Thực tế cho thấy, trong nhiều trường hợp, những khuyết điểm, sai lầm của cán bộ, đảng viên có thể không bị lãnh đạo, hoặc cơ quan kiểm tra phát hiện kịp thời, nhưng không thể che giấu được trước trăm nghìn “tai mắt” của nhân dân.

Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh bài học: “Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng”. Từ đó, Đảng ta xác định, việc học tập phong cách lãnh đạo bằng nêu gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh và vận dụng sáng tạo, phù hợp với cương vị, nhiệm vụ, phẩm chất, trí tuệ, điều kiện của người lãnh đạo sẽ góp phần làm phong phú và đem lại hiệu quả thiết thực trong việc đổi mới phương thức, phong cách lãnh đạo bằng nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên, người đứng đầu trong điều kiện hiện nay./.

Những luận điệu xảo

Với tính chất đặc biệt nghiêm trọng của vụ án, Người Phát ngôn Bộ Công an cũng như các cơ quan chức năng đã có các thông tin chính thức với báo chí và tại một số hội nghị, diễn đàn có liên quan. Việc thông tin đảm bảo tính chính xác, kịp thời, giúp người dân trong nước và dư luận quốc tế nắm được thông tin, bản chất vụ án, ủng hộ cơ quan chức năng tích cực điều tra, làm rõ để xử lý trước pháp luật; đồng thời lên án các cá nhân, tổ chức đứng sau vụ án, các đối tượng chủ mưu, cầm đầu gây bất ổn tại khu vực Tây Nguyên.

Ngày 23/6/2023, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk đã ra quyết định khởi tố vụ án “Khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân; che giấu tội phạm; không tố giác tội phạm và tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép”; ra các quyết định khởi tố bị can và lệnh tạm giam đối với 75 bị can.

Tuy nhiên, sau khi vụ án xảy ra, trên nhiều kênh thông tin báo chí nước ngoài, các trang mạng hải ngoại, trang mạng cá nhân của các đối tượng chống đối đã tung ra thông tin sai sự thật, các hình ảnh được dàn dựng, cắt ghép… Một số bài viết cố tình đánh tráo bản chất, hướng vụ án sang nguyên do khác nhằm kích động tâm lý kỳ thị dân tộc, gây chia rẽ giữa đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên.

Báo điện tử BBC Tiếng Việt ngày 23/6 đăng bài “Câu chuyện Tây Nguyên và người dân sắc tộc của núi rừng trong lòng tôi” đã đưa nhiều thông tin sai sự thật, có các bình luận mang tính chụp mũ, suy diễn. Bài viết cố tình hướng lái sai mục đích, ý nghĩa của vấn đề di dân, phát triển kinh tế ở Tây Nguyên, từ đó quy chụp “không gian của các sắc tộc bị tan vỡ”! Người viết đưa ra những câu từ vừa trái bản chất, vừa mang tính kích động như “Sau biến cố 30/4/1975, Tây Nguyên bước vào kỷ nguyên bị phá vỡ”.

Ngay như khái niệm “đồng bào” vốn là câu chữ thân thuộc, thiêng liêng với cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam thì bài viết cũng cố tình bẻ lệch ý nghĩa, cho rằng “việc gọi các sắc tộc Tây Nguyên bằng từ “đồng bào” không che giấu được toan tính chính trị”, đả kích thành “đây là cách áp đặt văn hoá và mị dân”! Bằng thủ đoạn vờ “đặt vào miệng” của một người không rõ thực hư ở đâu, bài viết này vu cáo “Người Kinh đang đối xử với các sắc tộc Tây Nguyên hơn cả thực dân, bởi thực dân không muốn chiếm đoạt và đồng hoá như thế”; “có quá nhiều người sắc tộc ở Tây Nguyên nói họ không được phép thực hành niềm tin tôn giáo họ chọn”…


Nguyên tắc cơ bản của các dự thảo luật

“Lấy dân làm gốc” là nguyên tắc cơ bản, mục tiêu xuyên suốt của dự thảo luật và phát huy vai trò của lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở. Theo cơ quan soạn thảo, việc xây dựng, tổ chức lại lực lượng tham gia bảo vệ ANTT không làm tăng biên chế, tăng ngân sách nhà nước. Lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở là cánh tay nối dài, sâu sát với nhân dân, hỗ trợ cấp ủy, chính quyền, hỗ trợ lực lượng nòng cốt là Công an chính quy trong việc đảm bảo ANTT tại cơ sở, vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân. Thực tế cho thấy, trong đời sống xã hội, lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở đã phát huy tích cực thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ bảo đảm ANTT địa bàn dân cư, sát dân, hiểu, nắm được tâm tư nguyện vọng nhân dân, góp phần tham gia tổ chức, thực hiện phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.

Rõ ràng, với mục tiêu, ý nghĩa như trên, việc ban hành Luật Lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở là thực sự cần thiết và đáp ứng yêu cầu thực tiễn khách quan, có ý nghĩa quan trọng trong xây dựng, củng cố các lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở, nâng cao chất lượng công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự, phục vụ hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân và phục vụ đắc lực nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội. Do đó, những quan điểm, luận điệu lệch lạc, sai trái, chống phá việc nghiên cứu, xây dựng và trình Quốc hội ban hành dự luật cần phải được đấu tranh, ngăn chặn kịp thời.

Sự cần thiết của lãnh đạo bằng nêu gương theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

 

Sự cần thiết của lãnh đạo bằng nêu gương theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Nêu gương là việc thực hành để những giá trị của đạo đức và tài năng của người lãnh đạo được lan tỏa, truyền cảm hứng; qua đó, dẫn dắt, thúc đẩy mọi hành động của cấp dưới và người dân. Sự nêu gương của người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị là mệnh lệnh không lời để thuyết phục cấp dưới noi theo. Sự yếu kém về nhân cách và phong cách lãnh đạo của người đứng đầu sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy xấu cho hoạt động của cơ quan, đơn vị. Vì vậy, phát huy trách nhiệm nêu gương của người lãnh đạo trong các tổ chức của hệ thống chính trị có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

Lãnh đạo bằng nêu gương là phương thức lãnh đạo khoa học, trí tuệ và nhân văn để Đảng xứng đáng “là đạo đức, là văn minh” như Chủ tịch Hồ Chí Minh mong mỏi. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu”.

Phong cách Hồ Chí Minh dù là phong cách của vị lãnh tụ tối cao, nhưng cực kỳ gần gũi - “cao mà không xa, mới mà không lạ, to lớn mà không làm ra vĩ đại, chói sáng mà không gây choáng ngợp, gặp lần đầu mà như thân thuộc từ lâu”, mang đậm dấu ấn riêng. Cả cuộc đời Người là sự mẫu mực về phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo dân chủ, khoa học, có kiểm tra, kiểm soát cụ thể, thường xuyên; về tác phong luôn gần dân, tin dân, trọng dân; ứng xử tinh tế trong thực hành đoàn kết, dựa vào nhân dân để thực hiện thành công mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng; về tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng, trung thành với lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.

Sau khi giành được chính quyền, với tư cách “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “các đồng chí bộ trưởng, thứ trưởng và cán bộ lãnh đạo phải luôn luôn gương mẫu về mọi mặt, phải nêu gương sáng về đạo đức cách mạng: cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, phải giữ gìn tác phong gian khổ phấn đấu, phải không ngừng nâng cao chí khí cách mạng”; theo đó, “Một đảng viên ở địa vị càng cao, thì càng phải giữ đúng kỷ luật của Đảng, càng phải làm gương dân chủ”, “Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.

Hiện nay, sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu giữ vai trò cực kỳ quan trọng, góp phần vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân - kẻ thù của đạo đức cách mạng, chống những nguy cơ suy thoái của cán bộ, đảng viên, nguy cơ đánh mất vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền. Trong công cuộc đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về nêu gương trong tình hình mới, thì vấn đề thực hiện trách nhiệm nêu gương của người lãnh đạo luôn được Đảng ta chú trọng, ban hành các quy định cụ thể. Các quy định, kết luận này đã kịp thời đáp ứng yêu cầu bức thiết của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và tạo hiệu ứng tích cực. Bước đầu, việc thực hiện các quy định đã tạo chuyển biến tích cực, góp phần siết chặt kỷ luật, kỷ cương; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên; đội ngũ cán bộ, đảng viên nhận thức rõ hơn về trách nhiệm nêu gương; góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực. “Việc thực hiện trách nhiệm nêu gương và chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên có chuyển biến tích cực, nhất là vai trò tiền phong, gương mẫu của các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”.

Tuy nhiên, Đảng ta cũng chỉ rõ, “Việc tu dưỡng, rèn luyện, làm theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhất là trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu chưa thường xuyên; một số cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm các quy định của Đảng, vi phạm pháp luật”. “Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tiên phong, gương mẫu; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ vẫn còn diễn biến phức tạp. Tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi còn hình thức. Thực hiện trách nhiệm nêu gương, nhất là người đứng đầu chưa tạo được sự lan tỏa sâu rộng”. Trong bài phát biểu tại Hội nghị toàn quốc sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Việc cam kết tu dưỡng, rèn luyện, gắn với thực hiện trách nhiệm nêu gương của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiệu quả chưa cao”. Tổng kết công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XII, cho thấy: Cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 2.209 cán bộ, đảng viên có liên quan đến tham nhũng; trong đó có 113 cán bộ diện Trung ương quản lý cả đương chức và đã nghỉ hưu. Các cán bộ bị kỷ luật đều có hành vi vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, các quy định của Đảng, Nhà nước và công tác cán bộ; vi phạm trong ban hành chủ trương, nghị quyết về đầu tư, góp vốn, chỉ định thầu, cổ phần hóa; thiếu trách nhiệm trong kiểm tra, giám sát; tham nhũng, “lợi ích nhóm”; vụ lợi, ưu ái vun vén cho gia đình, người thân; không trung thực trong kê khai tài sản, thu nhập, sử dụng bằng cấp không đúng quy định.

 

Điều đáng lưu ý là, ở một số địa phương, người đứng đầu chưa nghiêm túc thực hiện công tác tiếp công dân, giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo; không có chính kiến, quan điểm rõ ràng trước những vấn đề mới, khó, phức tạp, nhạy cảm; chưa tận tâm, tận lực, nhiệt huyết trong công việc; còn tình trạng mất đoàn kết nội bộ, nảy sinh mâu thuẫn cá nhân, ganh ghét, đố kỵ, so bì thiệt hơn,... Đặc biệt là, trong công cuộc phòng, chống dịch bệnh COVID-19, khi cả nước chung tay, gồng mình “chống dịch như chống giặc” thì vẫn còn một số cán bộ đứng đầu sở, ngành ở một số địa phương, bộ, ngành trung ương có hành vi xấu (không thực hiện nghiêm việc giãn cách xã hội, vi phạm trong đấu thầu mua trang, thiết bị y tế, kit xét nghiệm,...), bị kỷ luật, tạo dư luận tiêu cực trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm giảm uy tín tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị nơi sinh hoạt, công tác; gây hậu quả nghiêm trọng, thiệt hại lớn về tài sản của Nhà nước, gây bức xúc trong xã hội, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng.

Rõ ràng, sự lãnh đạo bằng nêu gương đang bị thách thức và cuộc đấu tranh chống sự “thiếu gương mẫu”, “nêu gương xấu” của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, thử thách, đòi hỏi cần phải được giải quyết một cách quyết liệt, triệt để, rõ ràng, minh bạch. Vì vậy, cần phải tăng cường phong cách lãnh đạo bằng nêu gương của cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo, nhất là người đứng đầu trong các tổ chức của hệ thống chính trị; qua đó, góp phần củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Hiện nay, trước yêu cầu mới, việc noi gương Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải “Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chính là sự kế thừa truyền thống quý báu của Đảng ta về nêu gương để lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo nhân dân, nhất là trong công cuộc đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh hiện nay. Việc xây dựng phong cách lãnh đạo bằng nêu gương theo tư tưởng của Người có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, góp phần truyền cảm hứng, tạo dựng niềm tin và động lực để đội ngũ cán bộ, đảng viên nêu gương sáng trong phong cách, lề lối làm việc, trong ứng xử và phong cách sinh hoạt; từ đó, tạo ra sự lan tỏa và xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội để thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Cần nhận thức đầy đủ ý nghĩa, sự cần thiết ban hành các dự án luật

Trái ngược với những luận điệu xuyên tạc, phá hoại nói trên, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, đại biểu Quốc hội và người dân ở các tỉnh, thành phố qua quá trình nghiên cứu, thảo luận đã khẳng định, việc ban hành các dự án luật do Bộ Công an chủ trì soạn thảo nói trên là hết sức cần thiết, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi khách quan. Điều này xuất phát từ sự đa dạng, phức tạp của công tác bảo đảm ANTT, luôn có sự biến động, thay đổi, đòi hỏi các quy định pháp luật phải được bổ sung, hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Với những vấn đề mới khi đưa ra thảo luận, đóng góp ý kiến, có những ý kiến đồng tình hoặc chưa tán thành nội dụng, vấn đề nào đó là điều hết sức bình thường. Tuy nhiên, cần tỉnh táo trước những luận điệu lợi dụng việc góp ý để xuyên tạc nhằm tạo ra nhận thức lệch lạc, suy giảm niềm tin, kích động tâm lý, thái độ chống đối, phá hoại dự thảo luật, sâu xa hơn là chống phá chế độ, Đảng và Nhà nước.

Các dự án luật trên có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; tăng cường quản lý nhà nước và bảo đảm quyền lợi của công dân; nâng cao hiệu quả hoạt động của lực lượng CAND. Tạo cơ sở vững chắc giúp lực lượng Công an chủ động trong công tác tham mưu với Đảng, Nhà nước các chủ trương, chính sách về bảo đảm an ninh trật tự, triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội và xây dựng lực lượng CAND thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại theo tinh thần Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/3/2022 của Bộ Chính trị.

Đối với dự án Luật Lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở, những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động gây tâm lý hoài nghi, dao động, ảnh hưởng đến mục tiêu giữ vững sự ổn định và bảo đảm ANTT ngay từ cấp cơ sở. Do vậy, chúng ta cần nhận diện rõ âm mưu, thủ đoạn để có cách thức đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái.

Cần thấy rằng, việc xây dựng Luật Lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở là sự cụ thể hóa đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, đây là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân, trong đó CAND là lực lượng nòng cốt, bảo vệ ANTT từ xa, từ sớm, từ cơ sở. Việc xây dựng dự thảo, lấy ý kiến các nhà khoa học, các cơ quan chức năng trước khi hoàn thiện để Chính phủ trình Quốc hội thảo luận, thông qua nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi thực tiễn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác đảm bảo ANTT tại địa bàn cơ sở. (Trích báo CAND)

Tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

 Tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ định hướng giai đoạn 2021 - 2030 là: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức”. Để thực hiện tốt định hướng đã đề ra; trên cơ sở vận dụng những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền, cần thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, kiên định lập trường, quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc những giá trị tiến bộ về xây dựng nhà nước pháp quyền trên thế giới. Việc học hỏi kinh nghiệm, tìm tòi, nghiên cứu, chọn lọc, tiếp thu và phát triển một cách sáng tạo những tinh hoa, giá trị tiến bộ về nhà nước pháp quyền của nhân loại là một nhu cầu tất yếu và cấp thiết. Tuy nhiên, không được dập khuôn, máy móc, cần phù hợp với điều kiện của Việt Nam, góp phần khẳng định, phát triển và làm sâu sắc hơn quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.

Hai là, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trên cả 3 mặt: xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, thực hiện pháp luật và kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm bảo đảm vừa phát huy dân chủ, vừa giữ vững kỷ cương, pháp luật để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên nền tảng dân chủ và tinh thần thượng tôn pháp luật. Pháp luật xã hội chủ nghĩa là cơ sở, tiền đề của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Do đó, muốn tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ, bảo đảm tất cả hoạt động của Nhà nước và các lĩnh vực trong đời sống xã hội đều có pháp luật làm cơ sở; pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, triệt để và thống nhất. Cần gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật. Tập trung chỉ đạo quyết liệt, đầu tư hợp lý nguồn lực và các điều kiện để thực hiện tốt việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật. Muốn vậy, nhất thiết phải tăng cường pháp chế trong công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt là “đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội”.

Ba là, xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Trong thực tiễn, việc xác định vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở nước ta hiện nay có mặt còn lúng túng, chưa rõ ràng, chặt chẽ; đồng thời “cơ chế kiểm soát quyền lực chưa được phát huy mạnh mẽ”. Do đó, cần tiếp tục phân định rõ ràng hơn, tránh chồng chéo, bỏ sót, để việc phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan quyền lực nhà nước ngày càng hiệu quả./.

Âm mưu phía sau những luận điệu xuyên tạc

Thực hiện kế hoạch của Chính phủ, Bộ Công an được giao chủ trì soạn thảo các dự án luật quan trọng gồm: Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự (ANTT) ở cơ sở; Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật CAND; Luật Căn cước; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cảnh vệ; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam và Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên, với âm mưu chống phá, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị và các tổ chức phản động lợi dụng quá trình Bộ Công an triển khai lấy ý kiến nhân dân về các dự án luật nêu trên để đưa ra đủ luận điệu xuyên tạc, vu cáo. Các đối tượng cho rằng, Việt Nam muốn hạn chế các quyền tự do dân chủ rồi ban hành luật để trói buộc, gò ép người dân, thậm chí chúng còn lôi kéo, kích động người dân phản đối các dự luật khi đưa ra lấy ý kiến đóng góp rộng rãi của nhân dân.

Lướt qua các mạng xã hội Facebook, Youtube… hay các phương tiện truyền thông nước ngoài như đài BBC tiếng Việt, RFA, VOA cho thấy những chiêu trò chống phá khi liên tiếp đăng tải, phát tán các bài viết có nội dung xuyên tạc các dự án luật. Chẳng hạn, khi nói về dự án Luật Lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở, các đối tượng tung ra bài viết cho rằng, Nhà nước muốn tạo ra một mạng lưới chân rết quần chúng sát với từng người dân để nắm được từng chân tơ kẽ tóc, mọi hoạt động của dân, rồi hạch sách, nhũng nhiễu… gây nguy hại cho dân; nếu hình thành một lực lượng như thế thì gần như là lực lượng bán vũ trang, rồi chi phí dụng cụ hành nghề, thậm chí có thể là vũ khí nóng gây bất an cho dân... Từ đó hướng lái vấn đề “lực lượng này dù có hợp nhất hay không cũng sẽ không giữ được ANTT như mong muốn của nhà cầm quyền cộng sản khi soạn luật mà nó sẽ làm mất ANTT và xã hội sẽ trở nên hỗn loạn hơn”...

Ngay sau đó, nhiều trang mạng của các tổ chức phản động lưu vong liền đăng tải các bài viết nhằm bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước và kích động người dân. Đây là những luận điệu xuyên tạc nhằm dẫn dắt, hướng lái dư luận, tạo ra nhận thức lệch lạc, thái độ phản đối, chống phá đối với dự án luật. Từ việc xuyên tạc nội dung trong dự án luật, các đối tượng hướng đến bôi nhọ hình ảnh lực lượng vũ trang, bôi nhọ chính sách quốc phòng, an ninh, đối ngoại, cho rằng cách làm như vậy là sai lầm, làm mất vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế! Cùng với việc vu khống, bôi nhọ cán bộ, đảng viên, các đối tượng tìm cách tâng bốc những người bất mãn, cơ hội chính trị, coi những đối tượng hoạt động tuyên truyền, chống phá nhà nước bị pháp luật xử lý là những “nhà dân chủ”; cổ vũ tư tưởng dân tộc cực đoan, kích động "lòng yêu nước" để tụ tập, biểu tình chống đối nhằm tới mục tiêu "cách mạng đường phố", "cách mạng màu" để thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. (trích báo CAND)

Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh

 

Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, song tư tưởng của Người về xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân vẫn vẹn nguyên giá trị, tiếp tục soi sáng và tiếp sức cho quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện, bền vững đất nước trong thời kỳ mới.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền là sự kế thừa, kết hợp, phát triển tinh hoa văn hóa truyền thống Việt Nam với những kinh nghiệm trong xây dựng, quản lý nhà nước của các quốc gia phương Đông và phương Tây; sự thấm nhuần và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về nhà nước kiểu mới vào thực tiễn nước ta. Thông qua những quan điểm về dân chủ, nhà nước, pháp luật, quyền con người… có thể khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền qua những luận điểm sau:

Thứ nhất, quyền con người vừa là điểm xuất phát, vừa là mục tiêu tối thượng của nhà nước pháp quyền. Giải phóng con người, giải phóng dân tộc là động lực thôi thúc Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, Người đã “tiếp cận quyền con người từ quan điểm thực tiễn, quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác, nhưng trước hết và chủ yếu là từ địa vị người nô lệ mất nước đang tìm đường giải phóng, đang đấu tranh giành lại các quyền cơ bản của toàn dân tộc và của mỗi con người”. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền con người và quyền dân tộc là hai phạm trù thiêng liêng, có quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời: Quyền con người chính là biểu hiện cụ thể của quyền dân tộc, là thước đo đánh giá bản chất, năng lực của nhà nước trong việc thực hiện quyền dân tộc; ngược lại, quyền dân tộc chính là điều kiện, cơ sở, công cụ bảo vệ giúp nhà nước đáp ứng quyền con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp cận quyền con người “trong tính chỉnh thể, toàn diện không thể chia cắt: giữa quyền tự do của cá nhân với tự do của toàn dân tộc, giữa quyền tư hữu thiêng liêng của cá nhân,… của cả cộng đồng. Do đó, ở Việt Nam hay các dân tộc thuộc địa, vấn đề nhân quyền không thể đứng ngoài, đứng trên chủ quyền dân tộc”.

Thứ hai, hiến pháp là kim chỉ nam để xây dựng nhà nước pháp quyền. Theo Người, hợp hiến, hợp pháp vừa là điều kiện cần, vừa là điều kiện đủ để xây dựng nhà nước pháp quyền. Ngay từ năm 1919, trong bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” gửi Hội nghị Véc-xay (Versailles), Người đã yêu cầu thực dân Pháp phải cải cách nền pháp lý Đông Dương, bãi bỏ chế độ cai trị bằng các sắc lệnh và thay thế bằng các đạo luật. Bản Yêu sách đã được Người chuyển thành “Việt Nam yêu cầu ca”, trong đó đặt vấn đề phải có hiến pháp ban hành, nêu cao vai trò quản lý nhà nước bằng luật pháp theo tinh thần “trăm đều phải có thần linh pháp quyền”, phản ánh tư tưởng cốt lõi của Người về nhà nước dân chủ mới - nhà nước tôn trọng pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật. Vì vậy, ngày 3-9-1945, trong phiên họp Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh, cần nhanh chóng tổ chức tổng tuyển cử và xây dựng hiến pháp nhằm xác lập nền dân chủ và tổ chức một nhà nước kiểu mới hợp hiến, hợp pháp. Trong 24 năm trên cương vị Chủ tịch nước, với hai lần đứng đầu Ủy ban soạn thảo hiến pháp, ban hành 16 đạo luật và 613 sắc lệnh, trong đó có 243 sắc lệnh quy định về tổ chức nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng vững chắc trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền, đóng góp to lớn trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp của nước ta.

Thứ ba, nhân dân là chủ thể quyền lực của nhà nước và trách nhiệm của nhà nước trong bảo đảm việc thực thi quyền làm chủ của nhân dân. Ngay trong Hiến pháp năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Để thực hiện mục tiêu này, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tất yếu phải thực hành dân chủ. Bởi vì, dân chủ chính là hiện thực hóa quyền con người của cá nhân, cộng đồng ở mức cao nhất; nghĩa là, con người đã vượt lên trên cái quyền tồn tại đơn thuần, chủ động, sáng tạo thực hiện quyền làm chủ của mình. Dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh là dân chủ triệt để, phát huy dân chủ cao độ là tiền đề tạo nên sức mạnh cho nhà nước. Nền dân chủ thực chất sẽ đề cao nhân dân, nhân dân là chủ thể. Theo Người, “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, “nước ta phải đi đến dân chủ thực sự” và “chúng ta phải ra sức thực hiện những cải cách xã hội, để nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện dân chủ thực sự”. Đến năm 1959, trong Hiến pháp, Người tiếp tục khẳng định: “Tất cả quyền lực… đều thuộc về nhân dân… Tất cả các cơ quan nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân”. Về quan hệ giữa nhà nước và nhân dân, Hồ Chí Minh xác định: “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối”. Trong mối quan hệ này, Nhà nước phải phát huy vai trò, trách nhiệm của mình trong bảo đảm việc thực thi quyền làm chủ của nhân dân. Người nhấn mạnh: “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đày tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to, việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân”, “các cơ quan Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác chung cho dân”.

Thứ tư, thượng tôn pháp luật và sự kết hợp hài hòa giữa đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội. Pháp luật không đơn thuần là công cụ quản lý xã hội của nhà nước, mà còn là đại lượng bảo đảm công bằng, dân chủ, tiến bộ của xã hội; là tấm gương phản ánh bản chất tiến bộ, đồng thời là công cụ kìm hãm sự lạm quyền của nhà nước. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh không tuyệt đối hóa vai trò của pháp luật mà luôn đề cao sự kết hợp hài hòa giữa đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội. Theo Người, đạo đức và pháp luật không phải được ghép với nhau một cách cơ học mà là hai lĩnh vực, hai phương thức quản lý xã hội khăng khít, hòa quyện vào nhau, “giữa pháp luật và đạo đức có mối quan hệ biện chứng như mối quan hệ giữa hình thức và nội dung, nội dung là đạo đức, pháp luật là hình thức”. Hai lĩnh vực này tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến mọi mặt của đời sống xã hội, từ đó thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của xã hội. Bởi vì, để thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân thì tất yếu phải xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật với mục đích thể hiện quyền làm chủ của nhân dân và thể chế hóa thành các quy định mang tính pháp quyền, thành nguyên tắc tổ chức và vận hành của Nhà nước, cũng như các thiết chế chính trị khác, tạo nên chế độ dân chủ. Trong đó, những giá trị, chuẩn mực đạo đức nền tảng cần phải được pháp luật ghi nhận, bảo đảm cho các chuẩn mực đó được thực thi hiệu quả. Từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, pháp luật là công cụ hữu ích để đưa chuẩn mực đạo đức thành thói quen, nếp sống. Chuẩn mực càng khó, càng rộng, thậm chí trừu tượng, không để định lượng thì vai trò của pháp luật càng được thể hiện rõ.