Chủ Nhật, 2 tháng 7, 2023

Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh

 

Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, song tư tưởng của Người về xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân vẫn vẹn nguyên giá trị, tiếp tục soi sáng và tiếp sức cho quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện, bền vững đất nước trong thời kỳ mới.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền là sự kế thừa, kết hợp, phát triển tinh hoa văn hóa truyền thống Việt Nam với những kinh nghiệm trong xây dựng, quản lý nhà nước của các quốc gia phương Đông và phương Tây; sự thấm nhuần và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về nhà nước kiểu mới vào thực tiễn nước ta. Thông qua những quan điểm về dân chủ, nhà nước, pháp luật, quyền con người… có thể khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền qua những luận điểm sau:

Thứ nhất, quyền con người vừa là điểm xuất phát, vừa là mục tiêu tối thượng của nhà nước pháp quyền. Giải phóng con người, giải phóng dân tộc là động lực thôi thúc Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, Người đã “tiếp cận quyền con người từ quan điểm thực tiễn, quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác, nhưng trước hết và chủ yếu là từ địa vị người nô lệ mất nước đang tìm đường giải phóng, đang đấu tranh giành lại các quyền cơ bản của toàn dân tộc và của mỗi con người”. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền con người và quyền dân tộc là hai phạm trù thiêng liêng, có quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời: Quyền con người chính là biểu hiện cụ thể của quyền dân tộc, là thước đo đánh giá bản chất, năng lực của nhà nước trong việc thực hiện quyền dân tộc; ngược lại, quyền dân tộc chính là điều kiện, cơ sở, công cụ bảo vệ giúp nhà nước đáp ứng quyền con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp cận quyền con người “trong tính chỉnh thể, toàn diện không thể chia cắt: giữa quyền tự do của cá nhân với tự do của toàn dân tộc, giữa quyền tư hữu thiêng liêng của cá nhân,… của cả cộng đồng. Do đó, ở Việt Nam hay các dân tộc thuộc địa, vấn đề nhân quyền không thể đứng ngoài, đứng trên chủ quyền dân tộc”.

Thứ hai, hiến pháp là kim chỉ nam để xây dựng nhà nước pháp quyền. Theo Người, hợp hiến, hợp pháp vừa là điều kiện cần, vừa là điều kiện đủ để xây dựng nhà nước pháp quyền. Ngay từ năm 1919, trong bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” gửi Hội nghị Véc-xay (Versailles), Người đã yêu cầu thực dân Pháp phải cải cách nền pháp lý Đông Dương, bãi bỏ chế độ cai trị bằng các sắc lệnh và thay thế bằng các đạo luật. Bản Yêu sách đã được Người chuyển thành “Việt Nam yêu cầu ca”, trong đó đặt vấn đề phải có hiến pháp ban hành, nêu cao vai trò quản lý nhà nước bằng luật pháp theo tinh thần “trăm đều phải có thần linh pháp quyền”, phản ánh tư tưởng cốt lõi của Người về nhà nước dân chủ mới - nhà nước tôn trọng pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật. Vì vậy, ngày 3-9-1945, trong phiên họp Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh, cần nhanh chóng tổ chức tổng tuyển cử và xây dựng hiến pháp nhằm xác lập nền dân chủ và tổ chức một nhà nước kiểu mới hợp hiến, hợp pháp. Trong 24 năm trên cương vị Chủ tịch nước, với hai lần đứng đầu Ủy ban soạn thảo hiến pháp, ban hành 16 đạo luật và 613 sắc lệnh, trong đó có 243 sắc lệnh quy định về tổ chức nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng vững chắc trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền, đóng góp to lớn trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp của nước ta.

Thứ ba, nhân dân là chủ thể quyền lực của nhà nước và trách nhiệm của nhà nước trong bảo đảm việc thực thi quyền làm chủ của nhân dân. Ngay trong Hiến pháp năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Để thực hiện mục tiêu này, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tất yếu phải thực hành dân chủ. Bởi vì, dân chủ chính là hiện thực hóa quyền con người của cá nhân, cộng đồng ở mức cao nhất; nghĩa là, con người đã vượt lên trên cái quyền tồn tại đơn thuần, chủ động, sáng tạo thực hiện quyền làm chủ của mình. Dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh là dân chủ triệt để, phát huy dân chủ cao độ là tiền đề tạo nên sức mạnh cho nhà nước. Nền dân chủ thực chất sẽ đề cao nhân dân, nhân dân là chủ thể. Theo Người, “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, “nước ta phải đi đến dân chủ thực sự” và “chúng ta phải ra sức thực hiện những cải cách xã hội, để nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện dân chủ thực sự”. Đến năm 1959, trong Hiến pháp, Người tiếp tục khẳng định: “Tất cả quyền lực… đều thuộc về nhân dân… Tất cả các cơ quan nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân”. Về quan hệ giữa nhà nước và nhân dân, Hồ Chí Minh xác định: “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối”. Trong mối quan hệ này, Nhà nước phải phát huy vai trò, trách nhiệm của mình trong bảo đảm việc thực thi quyền làm chủ của nhân dân. Người nhấn mạnh: “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đày tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to, việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân”, “các cơ quan Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác chung cho dân”.

Thứ tư, thượng tôn pháp luật và sự kết hợp hài hòa giữa đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội. Pháp luật không đơn thuần là công cụ quản lý xã hội của nhà nước, mà còn là đại lượng bảo đảm công bằng, dân chủ, tiến bộ của xã hội; là tấm gương phản ánh bản chất tiến bộ, đồng thời là công cụ kìm hãm sự lạm quyền của nhà nước. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh không tuyệt đối hóa vai trò của pháp luật mà luôn đề cao sự kết hợp hài hòa giữa đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội. Theo Người, đạo đức và pháp luật không phải được ghép với nhau một cách cơ học mà là hai lĩnh vực, hai phương thức quản lý xã hội khăng khít, hòa quyện vào nhau, “giữa pháp luật và đạo đức có mối quan hệ biện chứng như mối quan hệ giữa hình thức và nội dung, nội dung là đạo đức, pháp luật là hình thức”. Hai lĩnh vực này tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến mọi mặt của đời sống xã hội, từ đó thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của xã hội. Bởi vì, để thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân thì tất yếu phải xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật với mục đích thể hiện quyền làm chủ của nhân dân và thể chế hóa thành các quy định mang tính pháp quyền, thành nguyên tắc tổ chức và vận hành của Nhà nước, cũng như các thiết chế chính trị khác, tạo nên chế độ dân chủ. Trong đó, những giá trị, chuẩn mực đạo đức nền tảng cần phải được pháp luật ghi nhận, bảo đảm cho các chuẩn mực đó được thực thi hiệu quả. Từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, pháp luật là công cụ hữu ích để đưa chuẩn mực đạo đức thành thói quen, nếp sống. Chuẩn mực càng khó, càng rộng, thậm chí trừu tượng, không để định lượng thì vai trò của pháp luật càng được thể hiện rõ.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét