Thứ Năm, 3 tháng 8, 2023

HIỂU ĐÚNG BẢN CHẤT QUYỀN LỰC TỐI THƯỢNG Ở VIỆT NAM LÀ PHỤC VỤ NHÂN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC


Gần 80 năm qua, kể từ ngày lập quốc theo chế độ mới đến nay, việc thực thi quyền lực nhà nước của chúng ta ngày càng đúng đắn, tốt đẹp hơn, vì sự tối thượng là phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Do đó, nếu “nhà dân chủ” nào không hiểu bản chất vấn đề, cố ý đánh đồng giữa hiện tượng và bản chất, đánh tráo khái niệm giữa sự tha hóa quyền lực của một bộ phận cán bộ với mục tiêu, bản chất thực thi quyền lực tối cao thuộc về nhân dân của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, là điều đáng phải phê phán.
1. Lâu nay, chúng ta đã cởi mở hơn, tin cậy hơn trong những thảo luận nhiều vấn đề về đời sống xã hội. Xã hội chúng ta ngày càng công bằng, dân chủ, văn minh hơn, trước hết do chúng ta đã biết tự cân bằng các khu vực quyền lực, ứng xử đúng mực với mọi giai tầng xã hội. Điều này không phải bây giờ mới diễn ra mà đã có từ thượng cổ. Đó chính là nền tảng văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng phong phú, sâu sắc, toàn diện và luôn được các thế hệ người Việt Nam vun trồng, bồi đắp.
Đại đức Thích Đồng Đạo, trụ trì chùa Phương Lan, xã Nam Phương Tiến (huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội) có nói đại ý rằng, để có những trang văn hay và chính xác hơn nữa đối với văn học sử của Việt Nam thì các nhà văn nên nghiên cứu thêm về lịch sử Phật giáo Việt Nam. Vì sử nước nhà có những giai đoạn song hành với sử Phật giáo. Nhiều vị quân vương nước ta lên ngôi dùng quyền lực trị vì thiên hạ đều có mối liên hệ mật thiết với Phật giáo qua các thiền sư. Khi vương triều nào đó mất đi thì các thiền sư vừa đảm nhiệm vai trò giữ đạo, vừa giữ nguồn tri thức cho dân tộc nên phần lớn các vị quân vương đều nhờ sự giáo dưỡng rất lớn của các thiền sư, mà điển hình nhất là Lý Bí, Lý Công Uẩn... Khi chúng ta nghiên cứu thêm về lịch sử Phật giáo sẽ giúp nhà văn dùng từ ngữ và các di tích liên quan đến Phật giáo và lịch sử dân tộc đúng đắn, hay hơn nhiều.
Tư duy trên của vị Đại đức phần nào nói lên rằng, nền Phật giáo Việt Nam chính là một bộ phận cấu thành nền văn hóa Việt Nam, góp phần vào sự trưởng thành đi tới văn minh của con người Việt Nam hiện đại. Đây cũng là một trong những nền tảng căn bản hình thành nên cốt cách dân tộc Việt Nam.
2. Quay lại vấn đề quyền lực. Thực ra, trong bất kỳ thể chế chính trị nào đều là câu chuyện hành xử quyền lực như thế nào để ích nước, lợi dân. Quyền lực của thể chế chính trị triều Lý, triều Trần, triều Lê đều tập trung nơi các vị vua, nơi triều đình. Thế thì tại sao, cũng là quyền lực đó ở các vị vua khai quốc, các vị minh quân, các đại thần tài đức thì nhân dân và Tổ quốc được ấm no, hạnh phúc, đất nước được bình yên, cường thịnh; nhưng với khung khổ quyền lực ấy rơi vào tay các hôn quân, gian thần đều khiến chính thể rối ren, nhân dân đói khổ, mất tự do, thậm chí mất nước, mất vương triều?
Như thế, quyền lực và thực thi quyền lực của một chế độ chính trị phải trở thành thái độ văn hóa sâu rễ bền gốc chứ không phải sự thỏa thích thực thi tất cả quyền hành để thỏa mãn chế độ chính trị đó. Nền tảng của quyền lực không thể bất định, cứng nhắc, chỉ khư khư dựa vào nguyên tắc giáo điều, mà quyền lực thời nay thể hiện tốt nhất vai trò của mình là thực thi quyền lực dựa trên nền tảng thượng tôn hiến pháp, pháp luật gắn với giá trị truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc.
3. Thời gian gần đây, một số “nhà dân chủ” trong nước và ngoài nước cho rằng, bộ máy chính trị ở Việt Nam đã lộng quyền, tham nhũng tràn lan, từ đó làm mất vai trò quyền làm chủ của nhân dân. Thực tế đó chỉ sự đánh tráo khái niệm, đánh đồng giữa hiện tượng và bản chất nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta.
Với chế độ của chúng ta, từ khi đặt nền móng độc lập (1945) đến nay, Hiến pháp và luật pháp của Việt Nam luôn hướng tới những điều tốt đẹp, quyền lực tối thượng luôn để phục vụ nhân dân và Tổ quốc. Điều này là bất di bất dịch. Gần 80 năm qua, chúng ta đã hết sức kiên định, đem tất cả của cải và vật chất, trí tuệ và niềm tin, nhất quán với con đường đã chọn, nhưng cũng biết cách linh hoạt để bảo vệ quyền lợi cao nhất của nhân dân, của quốc gia, dân tộc.
Để giữ gìn sự liêm chính của chính thể, sự trong sạch của bộ máy công quyền, những năm qua, chúng ta đã đẩy mạnh công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, kiên quyết "nhốt" quyền lực trong lồng cơ chế. Về vấn đề này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu trong Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2013-2020, đã nhận định: "Thể chế nói chung, thể chế về phòng, chống tham nhũng nói riêng cùng với chuẩn mực đạo đức trên các lĩnh vực và cơ chế kiểm soát quyền lực là yếu tố cơ bản, nền tảng, có tác dụng ngăn chặn từ gốc hành vi tham nhũng. Phải xây dựng các quy chế nội bộ của Đảng, các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức áp dụng đối với cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, liêm chính, gương mẫu đi đầu trong phòng, chống tham nhũng... Khẩn trương hoàn thiện các quy định về kiểm soát quyền lực, trách nhiệm giải trình bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch".
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng cho rằng, tham nhũng là "khuyết tật bẩm sinh" của quyền lực, là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ ta. Thời đại nào, chế độ nào, quốc gia nào cũng có, không thể xóa tận gốc tham nhũng trong một thời gian ngắn. Do vậy, trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng không được chủ quan, nóng vội, thỏa mãn; không được né tránh, cầm chừng, không "ngừng" , không "nghỉ"; vừa phải kiên quyết phát hiện, xử lý tham nhũng, vừa phải kiên trì giáo dục, quản lý, ngăn ngừa không để xảy ra tham nhũng; đồng thời phải luôn cảnh giác, đấu tranh với những âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phần tử xấu lợi dụng đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để kích động, chia rẽ, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta.
4. Trong xu thế thời cuộc và thời đại hôm nay, thế giới chuyển động không ngừng với nhiều điểm nóng phức tạp, việc thực hành và kiểm soát quyền lực một cách bền vững để phục vụ lợi ích của nhân dân và Tổ quốc phải được đặt ra một cách có hệ thống trên nền tảng văn hóa Việt Nam. Bác Hồ từng huấn thị: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Đó chính là phương lược lâu dài của chính thể chúng ta trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Xã hội Việt Nam đang phát triển nhanh, khá toàn diện chính vì đã khơi dậy được nhiều nguồn lực và có cơ chế đúng đắn kiểm soát tốt các khu vực quyền lực. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa diễn ra nhanh, toàn diện đã và đang đặt ra không ít thách thức về quyền lực và thực hành quyền lực, kiểm soát chặt chẽ quyền lực. Một bộ phận cán bộ, trong đó có những cán bộ cấp cao đã tha hóa biến chất, bị quyền lực, vật chất cám dỗ làm hư hỏng bản thân đến mức phải bị kỷ luật, thậm chí bị xử lý hình sự. Đây là bài học đau xót về sự thiếu giám sát, kiểm soát dẫn đến tha hóa quyền lực.
Xã hội ta đang trưởng thành về mọi mặt. Trong bước đường trưởng thành sẽ phải đối mặt và vượt qua nhiều thách thức, trở ngại, mà thách thức và trở ngại lớn nhất chính là quá trình thực thi quyền lực trong cơ chế chính trị một Đảng cầm quyền duy nhất ở nước ta. Điều này đã được Đảng, Nhà nước ta nhận thức sâu sắc, rõ ràng và đang nỗ lực thực hiện bằng nhiều giải pháp đồng bộ để bảo đảm cho đất nước ta phát triển lành mạnh, ổn định, bền vững, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc. Ví như mới đây, Bộ Chính trị khóa XIII đã ban hành Quy định số 114-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ. Quy định số 205-QĐ/TW do Bộ Chính trị khóa XII ban hành năm 2019 chỉ nói đến kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền. Còn Quy định số 114 đã đề cập đến việc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ với phạm vi rộng hơn. Bên cạnh đó, các cơ chế, giải pháp cũng được quy định cụ thể hơn, chặt chẽ hơn. Điều này cho thấy, Đảng ta không ngừng hoàn thiện các giải pháp phòng ngừa, đấu tranh với các biểu hiện tham nhũng, tha hóa quyền lực, nhằm bảo đảm mục tiêu ở đâu có quyền lực thì ở đó phải được kiểm soát chặt chẽ.
Phải khẳng định rằng, gần 80 năm qua, kể từ ngày lập quốc theo chế độ mới đến nay, việc thực thi quyền lực nhà nước của chúng ta ngày càng đúng đắn, tốt đẹp hơn, vì sự tối thượng của nó chính là phục vụ nhân dân và phụng sự Tổ quốc. Do đó, nếu “nhà dân chủ” nào không hiểu bản chất vấn đề, cố ý đánh đồng giữa hiện tượng và bản chất, đánh tráo khái niệm giữa sự tha hóa quyền lực của một bộ phận cán bộ với mục tiêu, bản chất thực thi quyền lực tối cao thuộc về nhân dân của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, là điều đáng phải phê phán./.
St

CHUYỆN TÔI MẤT MỘT ĐỨA CON LÀ SỰ HY SINH CHUNG CỦA TỔ QUỐC


“Đất nước có chiến tranh thì mất mát có của riêng ai" - Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt - ông Sáu Dân đã nói như vậy khi nhắc về liệt sĩ Võ Dũng, người con trai đã hy sinh anh dũng trên chiến trường của ông.
Năm 1966, trong một chuyến ra chiến khu thăm chồng, vợ ông - bà Trần Kim Anh cùng với hai đứa con nhỏ đã không may thiệt mạng vì trúng bom Mỹ. T.h.i t.h.ể của họ không bao giờ được tìm thấy. Các bạn bè của Võ Dũng bảo nhau giấu kín chuyện này, nhưng không hiểu sao anh vẫn biết được. Nghe tin mẹ và hai em mất, Dũng nằng nặc được vào Nam chiến đầu, đền nợ nước, trả thù nhà. Năm 1972, Võ Dũng xung phong vào chiến trường, về Khu 9 bên cạnh Ba mình. Sau bao năm xa cách, ông Sáu Dân mới lại cảm nhận không khí gia đình khi được chiến đấu bên cạnh con trai. Nhưng có ngờ đâu, niềm vui ngắn chẳng tày gang.
Sáng sớm ngày 21-4-1972, Võ Dũng cùng 2 đồng đội đi trinh sát nhưng bị sa vào ổ phục kích của địch. Anh hy sinh khi vừa tròn 21 tuổi, ngay trên quê hương của Má Trần Kim Anh (xã Vĩnh Lộc, huyện Hồng Dân, tỉnh Rạch Giá).
Khi Võ Dũng hy sinh, các cán bộ khu uỷ, quân khu vô cùng đắn đo. Không một ai dám nói ra, vì sợ ông Sáu xúc động mạnh. Ông đã hy sinh quá nhiều, nay chỉ còn mỗi một người con trai thì cũng ra đi nốt, quá sức đau buồn. Các đồng chí trong khu ủy bàn nhau sẽ từ từ thông báo cho ông Sáu Dân sau cuộc họp thường vụ.
Ông Sáu nghe tin con mất, chỉ lặng thinh, không nói gì. Được một hồi lâu, ông mới cất tiếng:
“Dũng hy sinh là làm trọn nhiệm vụ, cũng như bao thanh niên, công dân Việt Nam khác. Dân ta phải chiến đấu để chống giặc, ngày nào cũng hy sinh. Chuyện tôi mất một đứa con là sự hy sinh chung của tổ quốc, của đất nước, đồng bào”.
St
Có thể là hình ảnh về 1 người và văn bản cho biết 'M21 LIỆT SĨ Võ DŨNG CON TRAI CỐ THỦ TƯỞNG VÕ VĂN KIỆT'

THỂ CHẾ HOÁ ĐẦY ĐỦ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ QUẢN LÝ, SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI

 

Chiều 2-8, tại Nhà Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ chủ trì cuộc làm việc để cho ý kiến vào công tác tiếp thu, giải trình, chỉnh lý và một số nội dung lớn của dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi).
Đồng chủ trì cuộc làm việc có các đồng chí Phó chủ tịch Quốc hội: Nguyễn Khắc Định, Nguyễn Đức Hải, Thượng tướng Trần Quang Phương. Dự cuộc làm việc có Phó thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà; Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Y Thanh Hà; Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh; Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng; Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách Lê Quang Mạnh; Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh; lãnh đạo các bộ, ngành và đại diện Thường trực các cơ quan của Quốc hội…
Theo báo cáo của Cơ quan thẩm tra, đến nay vẫn có 12 nội dung lớn trong dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) còn ý kiến khác nhau như: Phân loại đất, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, tiêu chí thu hồi và đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án nhà ở thương mại, công trình thương mại, công trình dịch vụ, khu vui chơi, giải trí, tổ hợp đa năng để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Bên cạnh đó là các vấn đề lớn như áp dụng phương pháp thặng dư để định giá đất hay mức phân bổ tối thiểu 10% nguồn thu từ tiền sử dụng đất, tiền thuê đất hằng năm của địa phương cho Quỹ phát triển đất.
Phát biểu kết thúc cuộc làm việc, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ ghi nhận, cảm ơn ý kiến của các đại biểu tại cuộc làm việc; đánh giá cao Thường trực Ủy ban Kinh tế đã tích cực, chủ động phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, các cơ quan, tổ chức hữu quan trong tiếp thu, chỉnh lý dự án luật; tổ chức thêm một số cuộc hội thảo ở cả Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
“Đến thời điểm này, sau khi tiếp thu ý kiến đóng góp của nhân dân, của đại biểu Quốc hội tại Kỳ họp thứ năm, chất lượng dự án luật đã được nâng cao một bước”, Chủ tịch Quốc hội nói.
Tuy nhiên, Chủ tịch Quốc hội cũng lưu ý, đến nay, dự án Luật Đất đai (sửa đổi) cũng vẫn còn những vấn đề có ý kiến khác nhau, phải đưa ra các phương án. Ngay cả các vấn đề đã chốt phương án nhưng cũng vẫn còn ý kiến khác nhau. “Những vấn đề còn lại đều là những vấn đề lớn, khó, then chốt, đòi hỏi Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội phải tiếp tục nỗ lực không ngừng nghỉ để có dự án luật có chất lượng tốt nhất”, Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh.
Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh tinh thần chung là phải bám sát, thể chế hóa đầy đủ nội dung của Nghị quyết 18-NQ/TW, ngày 16-6-2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao. Đồng thời phải bám sát các quan điểm, nguyên tắc trong các thông báo kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để tiếp tục hoàn thiện dự án luật.
“Những vấn đề gì thể chế hóa Nghị quyết số 18 chưa đủ thì phải tiếp tục thể chế hóa cho đủ. Vấn đề nào chưa đúng với tinh thần Nghị quyết số 18 thì không đưa vào dự án luật”, Chủ tịch Quốc hội nêu rõ quan điểm.
Chủ tịch Quốc hội nêu ví dụ về các vấn đề thu hồi đất sau khi bố trí xong tái định cư; chính sách bảo đảm đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số nhưng phải ngăn ngừa tình trạng đồng bào chuyển nhượng đất sau khi được giao đất lần 2; về điều kiện chuyển nhượng đất trồng lúa với hàm ý cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi nhận chuyển nhượng phải thành lập tổ chức kinh tế và có phương án sử dụng đất trồng lúa đúng mục đích, hạn chế tình trạng đầu cơ, thu gom đất trồng lúa; phân quyền cho địa phương quyết định chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa trên nguyên tắc rất thận trọng; vấn đề thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; phải quy định về giá đất, phương pháp tính giá đất trong luật; về hoạt động lấn biển…
Chủ tịch Quốc hội lưu ý thêm về những vấn đề rất khó như đất ở, thuê đất làm nhà ở cần phải có sự thống nhất với Luật Nhà ở; về nộp tiền một lần và thu tiền đất hằng năm bảo đảm tính khả thi và bảo đảm phương án tài chính của chủ đầu tư; các trường hợp nào đấu thầu, trường hợp nào đấu giá; vấn đề thu hồi đất và tiếp tục áp dụng trường hợp thỏa thuận; vấn đề phát triển cơ sở dữ liệu thông tin đất đai, thủ tục hành chính về đất đai; nghiên cứu thêm quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất không gian ngầm, công trình ngầm và phát triển thị trường bất động sản; tổng kết Nghị quyết thí điểm một số chính sách để tháo gỡ vướng mắc, tồn đọng trong quản lý, sử dụng đất quốc phòng, an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, quy định vào dự án luật theo hướng giao Chính phủ tiếp tục tiến hành thí điểm như một phần của hồ sơ dự án luật.
Chủ tịch Quốc hội cũng yêu cầu dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) phải bảo đảm đồng bộ với các luật khác trong hệ thống pháp luật, nhất là với các dự án luật mà Quốc hội đang xem xét, quyết định; không sử dụng luật này làm thay chức năng của các luật khác.
Chủ tịch Quốc hội đề nghị Ủy ban Kinh tế phối hợp với Thường trực Ủy ban Pháp luật, Bộ Tài nguyên và Môi trường, các cơ quan hữu quan khẩn trương hoàn thiện hồ sơ dự án luật, báo cáo một số vấn đề lớn tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự án luật, trình Hội nghị Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách và trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến trước khi trình Quốc hội xem xét, quyết định tại Kỳ họp thứ sáu cuối năm nay./.
Báo điện tử QĐND
Có thể là hình ảnh về 10 người và thiết bị chiếu sáng

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN HẠNH PHÚC CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM

 

Hạnh phúc là giá trị bao trùm của nhân loại, mọi quốc gia, dân tộc đều lấy việc xây dựng cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Ở Việt Nam, suốt chiều dài lịch sử, các triều đại đều lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy vậy, mỗi bước tiến trong quá trình xây dựng hạnh phúc của nhân dân Việt Nam các thế lực thù địch, phản động luôn tìm cách chống phá, phủ nhận.
1. Nhận diện những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận hạnh phúc của nhân dân Việt Nam của các thế lực thù địch, phản động
Thứ nhất, trước hiện thực sinh động về hạnh phúc của nhân dân Việt Nam được thế giới thừa nhận, đánh giá cao thì các thế lực thù địch, phản động lại cố tình xuyên tạc, phủ nhận. Với luận điệu hết sức trắng trợn, chúng cho rằng, dân chủ Việt Nam là dân chủ giả hiệu, không mang lại hạnh phúc cho nhân dân. Nhân dân Việt Nam không được hưởng quyền dân chủ và phát huy dân chủ. Chúng giở trò bài bác, kích động, cổ súy cho trào lưu dân túy và tự do vô chính phủ để phá hoại, phủ nhận hạnh phúc của nhân dân Việt Nam.
Thứ hai, chúng cố tình đổi trắng, thay đen khi cho rằng sự bất hạnh của nhân dân Việt Nam là do chế độ xã hội chủ nghĩa, do cán bộ, đảng viên tham nhũng, bòn rút của dân mà trở nên giàu có; cũng vì thế mà nhân dân ngày càng nghèo khó, phân tầng xã hội sâu sắc, khoảng cách giàu nghèo cách biệt.
Thứ ba, chúng đã không hiểu và cố tình không hiểu về hiện thực hạnh phúc của nhân dân Việt Nam. Đó là những tiến bộ và kỳ tích trong xóa đói, giảm nghèo được cả thế giới ngưỡng mộ cũng như niềm hạnh phúc hiện có của nhân dân Việt Nam mà nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới đang mơ ước, nhân dân được hưởng giá trị của hạnh phúc trong độc lập – tự do không lệ thuộc và bị chi phối bởi các thế lực bên ngoài. Đất nước Việt Nam đang ngày càng giàu mạnh, tươi đẹp hơn, trở thành điểm đến an toàn, hấp dẫn của nhân dân trên toàn thế giới ngay cả trong thời kỳ hậu Covid-19.
Thứ tư, nguy hại hơn là chúng còn ra sức xuyên tạc, phủ nhận những giá trị hạnh phúc quý báu của nhân dân Việt Nam đó là Tổ quốc độc lập, nhân dân được sống trong tự do, hạnh phúc. Cố tình gieo rắc, cổ súy cho lối sống thực dụng, xa hoa, trụy lạc, xa rời lý tưởng cách mạng và những giá trị nhân văn, nhân bản của con người cùng bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam; xuyên tạc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sự đồng thuận xã hội nhằm phá hoại, phủ nhận cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân.
Thứ năm, chúng cho rằng thể chế chính trị Việt Nam hiện nay là không phù hợp chuẩn mực quốc tế, chế độ một đảng lãnh đạo trái với nguyên tắc nhà nước pháp quyền, quốc gia nào một đảng cầm quyền thì quốc gia đó không có dân chủ, nhân dân nơi đó không được hưởng tự do, hạnh phúc. Từ đó phủ nhận thành quả cách mạng, vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận hiện thực cuộc sống độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam.
2. Hạnh phúc của nhân dân là giá trị vĩnh hằng, mục tiêu vươn tới của dân tộc Việt Nam, là kết quả công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, không thế lực nào có thể phủ nhận
Xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc là ước mơ ngàn đời của nhân dân Việt Nam, anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi từng mong ước: nơi thôn cùng, xóm vắng không có tiếng than thở của người già, không có tiếng khóc dỗi hờn của trẻ con. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cội nguồn hạnh phúc của nhân dân là nước được độc lập, tự do, hòa bình, cùng những điều bình dị mà nhân dân cần có là cơm ăn, áo mặc, có nhà để ở, được học hành; được ước mơ và khát vọng vươn tới địa vị làm chủ vì quốc gia dân giàu, nước mạnh.
Thời kỳ đổi mới để xây dựng hạnh phúc cho nhân dân, Đảng, Nhà nước tập trung đổi mới cơ chế, chính sách, phát huy cao độ tinh thần cống hiến vì đất nước của nhân dân. Tạo mọi điều kiện, cơ hội và động lực để phát huy nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu, là mục tiêu của sự phát triển. Tăng cường bảo đảm các điều kiện vật chất, tinh thần hướng tới “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa các giá trị truyền thống với giá trị hiện đại”(1) dựa trên cơ sở phát triển mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực kinh tế – xã hội, môi trường sinh thái, đời sống văn hóa tinh thần văn minh, lành mạnh.
Đảng đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong từng chiến lược phát triển đất nước. Tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, ưu tiên nguồn lực cho công tác lãnh đạo, quản lý, các lĩnh vực then chốt, tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về chất lượng giáo dục, đào tạo. Làm tốt công tác tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ người tài; ứng dụng, phát triển khoa học - công nghệ… “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí phấn đấu vươn lên, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(2).
Tập trung đầu tư các nguồn lực, khơi dậy, phát huy mạnh mẽ sự đồng thuận xã hội, kết hợp hài hòa ý Đảng – lòng dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, tạo dựng hạnh phúc lâu dài, bền vững cho cả dân tộc. Hiện hữu trên thực tế là hạnh phúc của nhân dân ta ngày càng được bảo đảm trên cơ sở tăng cường phát huy vai trò chủ thể của nhân dân trong mọi lĩnh vực đời sống, thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”, đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh đáp ứng tốt hơn nhu cầu hạnh phúc của nhân dân.
3. Đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận bảo vệ hạnh phúc của nhân dân Việt Nam là mệnh lệnh từ trí tuệ, trái tim Việt Nam, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong thời kỳ mới
Giá trị Độc lập - Tự do - Hạnh phúc của nhân dân Việt Nam ngày càng được khẳng định và trở thành chân lý thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Ngày nay, với định hướng đúng, khát vọng phát triển mạnh mẽ và quyết tâm chính trị cao, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nhất định sẽ “lập nên thành tựu phát triển mới vì một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, cùng tiến bước, sánh vai với các cường quốc năm châu, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của toàn dân tộc ta”(3).
Hạnh phúc của nhân dân Việt Nam là hiện thực, không thể phủ nhận, không phải tự nhiên mà có, đó là cái giá hàng ngàn năm lịch sử hào hùng của dân tộc. Là sự hy sinh, cống hiến của Đảng, là kết tinh trí tuệ, xương máu của cán bộ, đảng viên và của các thế hệ người Việt Nam; vừa là xương máu, vừa là hoa hồng, là bản sắc hạnh phúc của nhân dân Việt Nam. Thành tựu xây đắp hạnh phúc của nhân dân Việt Nam là kết quả nỗ lực, phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân không có thế lực nào có thể bài bác, phủ nhận.
Do đó, trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động đang ngày đêm phá hoại cuộc sống độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải luôn nêu cao cảnh giác, phải đấu tranh kiên quyết và bền bỉ để phê phán, loại bỏ. Cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận để bảo vệ hạnh phúc của nhân dân Việt Nam còn rất lâu dài và ngày càng phức tạp. Cuộc đấu tranh này không chỉ đơn thuần là hành động lý trí mà đó chính là mệnh lệnh từ trí tuệ, trái tim của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân Việt Nam./.VTTĐ
Có thể là hình ảnh về 2 người

ĐẠI TƯỚNG LƯƠNG CƯỜNG: NÂNG CAO NHẬN THỨC, TRÁCH NHIỆM CHO CÁN BỘ, CHIẾN SĨ VỀ NHIỆM VỤ BẢO VỆ TỔ QUỐC


Sáng 1-8, Đại tướng Lương Cường, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam chủ trì hội nghị giao ban Tổng cục Chính trị đánh giá kết quả công tác Đảng, công tác chính trị (CTĐ, CTCT) tháng 7, triển khai nhiệm vụ công tác trọng tâm tháng 8-2023.
Dự hội nghị có Trung tướng Nguyễn Văn Gấu, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị thuộc Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.
Báo cáo và các ý kiến phát biểu tại hội nghị thống nhất khẳng định: Trong tháng 7, hoạt động CTĐ, CTCT toàn quân đã bám sát nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng Đảng bộ Quân đội, tình hình thực tiễn, triển khai toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, hoàn thành tốt các nhiệm vụ.
Nổi bật là: Làm tốt công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, xây dựng ý thức trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ trong thực hiện nhiệm vụ; kịp thời tuyên truyền, định hướng tư tưởng, dư luận trước những vấn đề phức tạp, nhạy cảm. Hoàn thành có chất lượng tổng kết 12 năm thực hiện Chỉ thị 124 của Thường vụ Quân ủy Trung ương; 10 năm thực hiện Đề án đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới; Hội thi cán bộ giảng dạy chính trị trong Quân đội và dân quân tự vệ cấp toàn quân năm 2023; Cuộc thi viết chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ 3-2023 với nhiều tác phẩm chất lượng tốt.
Tham mưu ban hành, triển khai Kết luận của Quân ủy Trung ương về kết quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và xây dựng Đảng bộ Quân đội 6 tháng đầu năm, nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2023; hoàn thành có chất lượng các cuộc kiểm tra, giám sát; lấy phiếu tín nhiệm đối với cấp ủy viên, cán bộ chỉ huy, quản lý các cấp; thực hiện công tác nhân sự, thăng quân hàm, nâng lương cán bộ chặt chẽ, đúng quy định.
Công tác bảo đảm an ninh, an toàn, dân vận, chính sách, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, hoạt động của các tổ chức quần chúng và hoạt động CTĐ,CTCT trong các nhiệm vụ được tiến hành chặt chẽ, hiệu quả. Toàn quân đã triển khai, thực hiện tốt các hoạt động Đền ơn đáp nghĩa dịp kỷ niệm 76 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27-7-1947/27-7-2023). Tình hình chính trị, tư tưởng toàn quân ổn định; cán bộ, chiến sĩ tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Cơ quan Tổng cục Chính trị tiếp tục giữ vững ổn định, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, chấp hành nghiêm chế độ quy định.
Phát biểu kết luận hội nghị, Đại tướng Lương Cường ghi nhận, đánh giá cao các cơ quan, đơn vị đã chủ động khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Về nhiệm vụ công tác tháng 8, Đại tướng Lương Cường yêu cầu các cơ quan, đơn vị trong tổng cục chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện chặt chẽ các hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, trọng tâm là: Tăng cường công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng; nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng Quân đội trong tình hình mới.
Đẩy mạnh tuyên truyền tổ chức các hoạt động kỷ niệm 78 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9; 79 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam; Ngày thành lập Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, 34 năm Ngày hội quốc phòng toàn dân (22-12-1989/22-12-2023). Tổ chức sơ kết 05 năm thực hiện Nghị quyết 35-NQ/TW của Bộ Chính trị, triển khai nhiệm vụ, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Chủ động, nhạy bén thông tin, tuyên truyền, định hướng tư tưởng, dư luận trước những vấn đề phức tạp, nhạy cảm. Đại tướng Lương Cường nhấn mạnh, toàn quân tiếp tục quán triệt, thực hiện Kết luận của Quân ủy Trung ương về kết quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và xây dựng Đảng bộ Quân đội 6 tháng đầu năm, nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2023. Tập trung cụ thể hóa chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư đối với cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, chiến sĩ - quân đội mạnh là nhờ giáo dục khéo, nhờ chính sách đúng và nhờ kỷ luật nghiêm; và tinh thần “7 dám”. Tổ chức các hội nghị phát hiện nguồn cán bộ Quân đội quy hoạch Ban chấp hành Trung ương khóa XIV và Lãnh đạo Bộ Quốc phòng nhiệm kỳ 2026-2031. Tiếp tục chỉ đạo rà soát, bổ sung phương án quy hoạch cán bộ chỉ huy, quản lý đơn vị trực thuộc Bộ.
Chỉ đạo thực hiện tốt các quy định về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ bí mật, an toàn các cơ quan, đơn vị trong toàn quân. Khẩn trương hoàn thành báo cáo của Quân ủy Trung ương về kết quả thực hiện Nghị quyết số 25 của Ban chấp hành Trung ương, Kết luận số 43 của Ban Bí thư về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, đối với công tác dân vận trong tình hình mới”. Tham mưu ban hành Thông tư về việc điều chỉnh trợ cấp hằng tháng đối với quân nhân, người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc. Nghiên cứu, hoàn thiện nội dung về phụ cấp đặc thù; chủ trương, giải pháp hỗ trợ giải quyết chính sách, ổn định hậu phương quân đội.
Đại tướng Lương Cường lưu ý cần tiến hành chặt chẽ, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động CTĐ, CTCT trong thực hiện các nhiệm vụ, trọng tâm là sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện, xây dựng chính quy, quản lý kỷ luật; phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn; nghiên cứu đề xuất chính sách mang tính tổng thể cho các lực lượng thực hiện nhiệm vụ đặc thù. Làm tốt công tác chỉ đạo tổ chức đại hội công đoàn cấp trực thuộc Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và chuẩn bị các nội dung phục vụ Đại hội đại biểu Công đoàn Quân đội lần thứ X.
Tại hội nghị, Đại tướng Lương Cường trao Bằng khen tặng các tập thể, cá nhân đạt thành tích xuất sắc trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện thực hiện Chỉ thị số 124-CT/QUTW ngày 31-3-2011 của Thường vụ Quân ủy Trung ương về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới và 10 năm thực hiện Đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới”.
Tin, ảnh: KIM ANH - TUẤN HUY/Báo QĐND
Ảnh: Đại tướng Lương Cường chủ trì Hội nghị giao ban.
Có thể là hình ảnh về 1 người và văn bản

Thứ Tư, 2 tháng 8, 2023

BÁC HỒ VÀ ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP TRONG NGÀY ĐỘC LẬP!

         Hôm ấy, khi bài Tiến quân ca vang lên và buổi lễ vừa dứt, một chiếc ô tô tiến sát vào chân kỳ đài. Xe đến đón Chủ tịch Hồ Chí Minh đi bên có Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Khoảnh khắc lịch sử quý giá ấy được thu vào ống kính của Nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An Ninh.

Chiều ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam).

Hôm ấy, khi bài Tiến quân ca vang lên và buổi lễ vừa dứt, một chiếc ô tô tiến sát vào chân kỳ đài. Xe đến đón Chủ tịch Hồ Chí Minh đi bên có Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Khoảnh khắc lịch sử quý giá ấy được thu vào ống kính của Nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An Ninh.

Trong cuốn "Ở với Người - Ở với đời", Nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An Ninh kể: "Đúng lúc Cụ Hồ và ông Giáp đã ngồi vào xe và xe chưa lăn bánh, tôi nhào tới đưa máy vào khoang cửa và nói: Thưa cụ, vừa rồi trên kỳ đài đông quá, con không chụp được ảnh cụ. Xin cụ cho phép con được lấy một hình của cụ. Cụ Hồ khẽ gật đầu. Nhưng lúc ấy, Cụ Hồ đang đội mũ. Trời đã về chiều. Cái mũ cát vành rộng lại che mất nhiều ánh sáng. Tôi đánh liều: Thưa cụ, con muốn cụ hạ chiếc mũ xuống ạ. Ông Giáp ngồi bên tủm tỉm cười như hiểu ý tôi. Ông đưa tay lên hạ cái mũ của Cụ Hồ đang đội và nhìn tôi, nói: Này thì bỏ mũ xuống".

Trong bức ảnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh ngồi bên có ông Giáp, cả hai gương mặt đều cương nghị, nhưng hiền hòa, có chút khắc khổ vì những lo toan cho vận nước ở giờ phút ngàn cân treo sợi tóc. Hơn nữa, đây là tấm ảnh chụp vào ngày lịch sử muôn đời ghi nhớ của dân tộc ta ngay sau khi Cụ Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập với quốc dân đồng bào của cả nước và thế giới. Những đốm nắng chiều rơi trên khuôn mặt hai nhà cách mạng trở thành những yếu tố thật kỳ diệu như khắc họa một thời gian khó và quyết liệt của cả một dân tộc mà Hồ Chủ tịch và Võ Nguyên Giáp cùng nhiều nhà cách mạng khác là những nhân vật đại diện./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TẤM ẢNH KỶ NIỆM NHỮNG TƯỢNG ĐÀI ĐÃ GHI VÀO LỊCH SỬ!

     Một bức ảnh quý chụp Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, và hai chiến sỹ sau chiến dịch Biên Giới, 1950 tại chiến khu Việt Bắc. Ít ai để ý đến chiến sỹ bên trái bị cụt một tay ngồi cạnh Bác Hồ và Tướng Giáp. Đó là Trung đoàn trưởng Nguyễn Thái Dũng (sau này là Thiếu tướng).
Nguyễn Thái Dũng sinh năm 1919 ở Cao Bằng. Tháng 8-1945, ông nhập ngũ. Năm 1948, khi đó là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 147 đánh Pháp, ông bị thương cụt nửa cánh tay phải. Vết thương chưa lành, sợ phải về tuyến sau làm công việc ở cơ quan hoặc đi điều dưỡng, ông vội đến gặp Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái đề đạt nguyện vọng tiếp tục về đơn vị chiến đấu. Sau một thoáng nghi ngại, nhưng trước quyết tâm của người tiểu đoàn trưởng trẻ tuổi nổi tiếng gan dạ, đồng chí Hoàng Văn Thái chấp nhận. Ông được trở về trung đoàn cũ, đảm nhiệm chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Lũng Vài danh tiếng.
Trong QĐND Việt Nam, ngoài Thiếu tướng Nguyễn Thái Dũng còn có Trung tướng Lê Hữu Đức cũng là trường hợp đặc biệt. Sinh năm 1924 tại huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Ngày 23-3-1947, khi chỉ huy đơn vị chống quân Pháp ở huyện Đại Lộc, ông có vóc người to cao, lại mặc bộ đồ trắng (do điều kiện thiếu thốn, có gì mặc nấy) nên là mục tiêu của máy bay Pháp, bị bắt nát một tay. Sau này tướng Đức chiến đấu rất gan dạ, còn có biệt danh là "Hổ cụt Tây Nguyên".
Hai ông đều bị mất bàn tay trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp lúc còn rất trẻ với cương vị tiểu đoàn trưởng. Mất tay, chỉ ở cơ quan nghiên cứu một thời gian, hai ông đều xung phong đi chiến đấu ở hai sư đoàn chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam rồi làm công tác tham mưu ở Mặt trận Tây Nguyên. Tuy thời điểm có khác nhau, hai ông từng làm việc ở Cục Tác chiến (Thiếu tướng Nguyễn Thái Dũng là Cục phó, Trung tướng Lê Hữu Đức là Cục trưởng) và phó tư lệnh ở hai quân khu. Cuối đời quân ngũ, cả hai đều là cán bộ của Học viện Quân sự cấp cao...
Yêu nước ST.

DÂN TA PHẢI BIẾT SỬ TA: ÔN CŨ ĐỂ BIẾT MỚI "TÂY SƠN NGŨ PHỤNG THƯ - BÙI THỊ XUÂN"!

     Bùi Thị Xuân, một nữ tướng kiệt xuất của triều đại Tây Sơn, là vợ của Thái phó Trần Quang Diệu và cũng là một Đô đốc vĩ đại trong triều đại Tây Sơn.

Với tài năng và lòng can đảm vượt trội, Bùi Thị Xuân trở thành một trong những tướng lĩnh uyên bác và đóng góp nhiều chiến công cho nhà Tây Sơn từ những ngày đầu tiên.

Bà còn sở hữu một tài năng đặc biệt là chỉ huy đội quân tượng binh. Đội quân này đã góp phần lớn trong cuộc đại phá quân Thanh vào đầu xuân Kỷ Dậu (1789) dưới sự chỉ huy của Hoàng đế Quang Trung.

Thế nhưng, khi triều đại Tây Sơn đang từng bước ổn định trong nước, Hoàng đế Quang Trung đột ngột qua đời, làm cho nội bộ rơi vào hỗn loạn...
Ngay lập tức nhận được tin tức này, chúa Nguyễn Phúc Ánh đã tấn công. 
Tuy nhiên, khi đánh vào thành Quảng Nam, quân của chúa Nguyễn đã phải nhận thất bại khi chạm trạn với quân đội của Bùi Thị Xuân.

Không may, trong trận Trấn Ninh đại chiến (1802), mặc dù đã đẩy quân chúa Nguyễn vào thế khó, nhưng cuối cùng, bà không thể tránh khỏi thất bại vì nhà Tây Sơn lúc này chỉ còn là cái bóng tàn của chính mình trong quá khứ.

Sau khi triều đại Tây Sơn bị hoàn toàn đánh bại, Bùi Thị Xuân cùng chồng là Trần Quang Diệu và cô con gái 14 tuổi đã bị Nguyễn Ánh trừ.n.g ph.ạt một cách t.à.n nh.ẫ.n.
Sử sách ghi chép lại:
Nguyễn Ánh đã ra lệnh cho quân lính dùng voi để quật chết bà, nhưng con voi chiến cứ chần chừ và lùi ra xa không tiến lên gần sát nữ tướng. Cuối cùng Nguyễn Ánh đã ra lệnh phương pháp tà.n b.ạ.o hơn là dùng 4 con ngựa buộc tay chân của bà và quất ngựa kéo ra 4 hướng để x.é x.á.c bà.

Tiếp nối truyền thống yêu nước, tiếp tục viết trang sử vẻ vang của Hai Bà Trưng và Bà Triệu, Đô đốc Bùi Thị Xuân đã lan tỏa danh tiếng của người phụ nữ Việt Nam. 
Tên tuổi của bà vẫn luôn tỏa sáng trong tiềm thức của người dân đất Việt.!!!
Yêu nước ST.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Thời cơ và những quyết sách lịch sử

 78 năm qua, kể từ ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, tinh thần bất diệt của những ngày tháng Tám lịch sử vẫn luôn cổ vũ, động viên mỗi người dân đất Việt vững tin vào sự lãnh đạo tài tình và sáng suốt của Đảng, vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây cũng như trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của Nhân dân ta từ khi có Đảng, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Lịch sử đã chứng minh, thành công đó có được là nhờ một đảng tiên phong thật sự cách mạng, tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, được tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng đã nắm vững hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn lịch sử, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn; biết nắm bắt thời cơ, xây dựng và tổ chức lực lượng; phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng đứng lên giành và giữ chính quyền./. 

Cách mạng Tháng Tám, năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại

 Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước đồng loạt đứng lên tham gia, chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn. Thành công của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả của 15 năm đấu tranh kiên cường, hy sinh, gian khổ của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, trải qua 3 cuộc tổng diễn tập, đó là cao trào cách mạng 1930-1931; cuộc vận động dân chủ, dân sinh 1936-1939; cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939-1945.

Cách mạng Tháng Tám thành công nhanh chóng và ngoạn mục do nhiều nguyên nhân, trước hết là nhờ có sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng cộng sản việt Nam, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta. Đặc biệt là Đảng ta đã chớp thời cơ lịch sử để chỉ đạo và tổ chức khởi nghĩa giành thắng lợi trọn vẹn trong cả nước.

Cuộc Tổng khởi nghĩa là thành quả tuyệt vời của tinh thần, ý chí trí tuệ con người Việt Nam  được phát huy và nâng tầm cao mới sau 15 năm đấu tranh quật cường dưới sự lãnh đạo của một Đảng Mác-xít chân chính.

Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, mở ra kỷ nguyên mới: Độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Đó là bước ngoặt mang tầm lịch sử lớn lao. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nhân dân ta đã đập tan xiềng xích áp bức của thực dân trong gần một thế kỷ, lật nhào chế độ quân chủ chuyên chế, nhân dân trở thành người chủ của một nước độc lập. Đảng ta từ một Đảng hoạt động bí mật, trở thành một Đảng cầm quyền. Từ đây là tiền đề cho đất nước, xã hội Việt Nam có những biến đổi lớn lao và sâu sắc.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng ta là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại. Đây còn là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc, là sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc, hòa quyện với những tư tưởng, xu thế của thời đại vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám khẳng định trong điều kiện trào lưu của cách mạng vô sản, cuộc cách mạng do một Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo không chỉ có thể thành công ở một nước tư bản phát triển, mà còn có thể thành công ở một nước thuộc địa nửa phong kiến lạc hậu và đi lên theo con đường của chủ nghĩa xã hội. Đây là sự phát triển, vận dụng đầy sáng tạo lý luận Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta.

Thành quả to lớn của Cách mạng Tháng Tám góp phần làm sụp đổ một mảng thành trì của chủ nghĩa thực dân cũ, mở ra kỷ nguyên cho dân tộc Việt Nam: Độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.

Ý nghĩa thời đại sâu sắc của Cách mạng Tháng Tám, năm 1945 là lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại, cuộc Cách mạng thành công vang dội ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, mở đầu cho công cuộc giải phóng của các dân tộc bị áp bức, bị nô dịch trên toàn thế giới. Việt Nam xứng đáng là đất nước tiên phong của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xóa bỏ thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, đế quốc./. 

Ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám

 Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời  Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn hơn 80 năm nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một Đảng cầm quyền.

Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng ta gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; là sự thể nghiệm thành công đầu tiên chủ nghĩa Mác-Lênin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Đây còn là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm phấn đấu, đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc hòa quyện với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với xu thế của thời đại vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống trị. Nó khẳng định rằng, trong điều kiện trào lưu của cách mạng vô sản, cuộc cách mạng do một đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo không chỉ có thể thành công ở một nước tư bản kém phát triển, nơi mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc mà còn có thể thành công ở ngay một nước thuộc địa nửa phong kiến lạc hậu để đưa cả dân tộc đó đi lên theo con đường của chủ nghĩa xã hội./. 

Nguyên nhân thắng lợi Cách mạng Tháng Tám

 Cách đây 78 năm, từ ngày 14 đến 19/8/1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Lãnh tụ Hồ Chí Minh, toàn dân tộc Việt Nam nhất tề vùng lên tiến hành tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân. Sau thắng lợi vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám, ngày 2/9/1945, tại Quảng Trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch  Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Từ đây, lịch sử Việt Nam đã sang trang mới, nhân dân ta từ thân phận nô lệ, trở thành người tự do; đất nước và dân tộc bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

 

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước đồng loạt đứng lên tham gia, chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công mau lẹ do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng, có ý nghĩa quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, khéo léo của Đảng; là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo. Đảng có phương pháp, chiến lược, chiến thuật cách mạng phù hợp, linh hoạt; nhận thức được thời cơ, chủ động đón thời cơ và kiên quyết chớp thời cơ, tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Cách mạng Tháng Tám thành công là do tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quật cường của các tầng lớp nhân dân ta, không chịu sống mãi kiếp nô lệ của người dân mất nước; một lòng đi theo Đảng và được Đảng lãnh đạo qua các cuộc tổng diễn tập, đã quyết vùng lên giành độc lập cho dân tộc. Trải qua 15 năm đấu tranh cực kỳ gian khổ và anh dũng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã có biết bao đồng bào, chiến sĩ đã không hề tiếc máu xương, hy sinh oanh liệt vì mục tiêu độc lập dân tộc. Cách mạng Tháng Tám được tiến hành trong bối cảnh quốc tế có những thuận lợi nhất định. Chủ nghĩa phát xít Đức, Ý, Nhật đã bị đánh bại, phong trào đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức và của các lực lượng tiến bộ trên thế giới phát triển mạnh./. 

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 – Sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam

 

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Ở trong nước, trải qua các cuộc diễn tập, đến năm 1945, phong trào cách mạng dâng cao. Từ tháng 4-1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ, phong phú về nội dung và hình thức. Đầu tháng 5-1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước và chuẩn bị Đại hội quốc dân. Ngày 4-6-1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời, trở thành căn cứ địa của cả nước. Tháng 8-1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới” và quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương; đề ra ba nguyên tắc bảo đảm tổng khởi nghĩa thắng lợi, đó là: tập trung, thống nhất, kịp thời. 23 giờ ngày 13-8-1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 hiệu triệu toàn dân tổng khởi nghĩa. Ngày 16-8-1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân trào thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”; thông qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định quốc kỳ, quốc ca; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi nhân dân cả nước tổng khởi nghĩa, trong đó chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ ngày 14 đến ngày 18-8, cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và ở các thị xã: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam... Ngày 19-8, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế và ở Bắc Cạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Lai, Bạc Liêu... Ngày 25-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn - Gia Định, Kon Tum, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre... Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù Côn Đảo đã lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8-1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân.

Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) lịnh sử, trước cuộc mít tinh của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Từ đó, ngày 2-9 là Ngày Quốc khánh của nước ta./. 

Ý nghĩa lịch sử ngày 19/8

 Ngày 19/8 đánh dấu sự thành công của cách mạng Việt Nam, đưa đất nước thoát khỏi sự áp bức bóc lột gần 100 năm của thực dân Pháp, xóa bỏ hoàn toàn chế độ phong kiến, thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nói đến lịch sử của ngày 19/8 ta phải kể về năm 1945 với trang sử hào hùng của quân dân Việt Nam ta trong cuộc Cách mạng tháng 8 giành thắng lợi, mở đầu cho Ngày Quốc khánh trọng đại của nước Việt Nam.

Năm 1958, quân Pháp tấn công Đà Nẵng, tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, biến nước ta thành nước thuộc địa nửa phong kiến. Thời bấy giờ nhân dân ta khốn cùng, nhiều cuộc đấu tranh, phong trào khởi nghĩa liên tiếp nổ ra để đòi lại nền độc lập dân tộc.

Vào tháng 8 năm 1945, thời cơ của dân tộc ta đến khi cuộc chiến tranh thế giới đi đến hồi kết. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, quân dân ta đồng lòng nghe theo chỉ thị để chờ ngày tiến công. Cụ thể, từ ngày 13/8 - 17/8, các cơ quan đầu não của Đảng liên tiếp họp và phát lệnh Tổng khởi nghĩa trong cả nước.

Sáng ngày 19 tháng 8 năm 1945, nhân dân đồng loạt kéo về Nhà hát lớn Hà Nội để thực hiện cuộc mít tinh lớn chưa từng có trong lịch sử với sự bảo vệ của Thanh niên tự vệ. Cuối ngày, quân dân ta đã nhanh chóng làm chủ khu vực này. Thắng lợi ở Hà Nội đã trở thành sức mạnh kéo theo sự bùng nổ và tiếp thêm sức mạnh cho các cuộc giải phóng ở những tỉnh thành khác.

Với vai trò gợi nhớ đến sự thành công của cuộc Cách mạng tháng 8 cùng sự hi sinh của các thế hệ, mỗi năm cứ đến ngày 19/8, mỗi người con Việt Nam, các con cháu thế hệ sau đều đồng lòng và bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với các vị anh hùng đã không tiếc xương máu để mang lại nền độc lập cho nước nhà như hiện nay./.

Việt Nam chính thức dừng bước tại World Cup 2023

 


Một trải nghiệm lịch sử dành cho Bóng đá Việt Nam. Dù không có được bàn thắng tại sân chơi lớn nhất Thế giới nhưng tinh thần chiến đấu và những gì mà các cô gái Việt Nam thể hiện đã để lại nhiều dấu ấn đẹp.

Xin tri ân thầy Mai Đức Chung - vị HLV đáng kính đã theo dõi và hỗ trợ nhiều người trẻ đạt được giấc mơ của mình. Đây có thể là mùa giải cuối cùng mà thầy sát cánh, nhưng sẽ không phải là hồi kết cho bóng đá Việt Nam. Một mai, ta sẽ lại được thấy quốc kỳ và quốc ca ta sánh vai cùng các cường quốc năm châu nhiều lần nữa.

Lần đầu tiên đã kết thúc, nhưng hy vọng nó sẽ mở ra nhiều lần dự World Cup khác nữa. Giờ là lúc trở về Việt Nam thôi 🇻🇳🇻🇳🇻🇳