Thứ Bảy, 2 tháng 3, 2024

Phải chăng “không liên kết với nước này để chống nước kia” là tự trói buộc mình, không phù hợp với thực tế, cần phải thay đổi?

“Không liên kết với nước này để chống nước kia” là chủ trương nhất quán trong chính sách quốc phòng “bốn không” của Việt Nam. Đây cũng là vấn đề mà thời gian qua, các thế lực thù địch tập trung xuyên tạc, chống phá. Vì thế, cùng với luận giải một cách khoa học, cần kiên quyết đấu tranh bác bỏ những luận điệu phi lý đó, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới.

Hòa bình và tự vệ là những thành tố cốt lõi trong bản chất chính sách quốc phòng của nước ta. Để thực hiện chính sách quốc phòng đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân theo hướng toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường, ngày càng hiện đại để bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống; trong đó, “không liên kết với nước này để chống nước kia” là quan điểm nhất quán, xuyên suốt. Song, các thế lực thù địch và một số người cố tình lại không thấy điều đó. Họ cho rằng, với chủ trương như vậy “là tự trói buộc mình, không phù hợp với thực tế, cần phải thay đổi”; “một khi đã tuyên bố rõ ràng như vậy, chúng ta sẽ khó kiếm được đồng minh” và “làm mất đi con bài mặc cả quan trọng của Việt Nam với cả Mỹ và Trung Quốc”. Theo họ, không liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống nước kia “là không phù hợp với xu thế của thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, cần phải thay đổi”. Họ còn khuyến nghị Đảng, Nhà nước ta nên liên minh quân sự, phải liên kết với nước này thì mới kiềm chế, đối phó được với nước kia để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Vậy, thực chất của những luận điệu này là như thế nào? Những phân tích dưới đây sẽ góp phần làm rõ vấn đề trên.

Có phải xu thế thời đại hiện nay là liên kết với nước này để chống nước khác?

Thời đại hiện nay được hiểu là giai đoạn quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917; là “thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế”. Xét về bản chất, toàn cầu hóa là: quá trình tăng lên mạnh mẽ các mối liên hệ, sự ảnh hưởng lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các quốc gia, các khu vực trên thế giới. Toàn cầu hóa từ một xu thế, trong vài năm gần đây đã trở thành một quá trình hiện thực trong sự vận động và phát triển của xã hội loài người. Song hành và đối ngược với xu thế toàn cầu hóa là phong trào chống toàn cầu hóa (nội dung cốt lõi là chống lại mặt trái của toàn cầu hóa). Hai nhóm người ủng hộ và không ủng hộ toàn cầu hóa này đấu tranh với nhau, mà căn nguyên chính là những bất đồng về lợi ích của quá trình toàn cầu hóa đem lại cho mỗi nhóm. Cuộc đấu tranh này chính là nhằm phân chia lại lợi ích của các lực lượng trong quá trình toàn cầu hóa. Trong cuộc đấu tranh đó, tất yếu có sự liên kết tự nhiên của những lực lượng, những nhóm người có cùng lợi ích, chủ yếu ở góc độ kinh tế. Nó không phải là liên minh, liên kết quân sự giữa các quốc gia với nhau hay giữa quân đội của các quốc gia với nhau, càng không phải là liên minh với nước này để chống lại nước kia và ngược lại. Sự liên kết (tập hợp) lực lượng ở đây rất đa dạng, thậm chí ngay trong nội bộ mỗi nước, dù là nước nhỏ hay siêu cường, cũng đều vấp phải cuộc đấu tranh giữa hai lực lượng này khi phải quyết định lựa chọn xu hướng phát triển cho đất nước mình. Cuộc đấu tranh này chi phối từ dân thường đến các cấp lãnh đạo của mỗi quốc gia. Cho nên, nói rằng không liên kết với nước này để chống nước kia “là đi ngược lại xu thế của thời đại” là cách hiểu phiến diện, không đầy đủ, không đúng về bản chất của toàn cầu hóa và chống toàn cầu hóa, không nắm được bản chất, xu thế và quy luật vận động, phát triển của xã hội loài người trong giai đoạn hiện nay là hợp tác cùng phát triển trên phạm vi khu vực và toàn cầu.

Ở một góc nhìn khác có thể thấy, hiện nay, thế giới bước vào một giai đoạn phát triển mới mà ở đó: “Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế”. Chính trong bối cảnh ấy, nếu như Việt Nam liên minh quân sự, liên kết với nước nào, nhất là liên kết với nước lớn, để chống nước khác mới là không thực tế và rất nguy hiểm (!).

Có phải không liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống nước kia “là tự trói buộc mình, không phù hợp với thực tế, cần phải thay đổi?”

Trước hết, cần phải thống nhất rằng: liên minh quân sự không đồng nhất với quan hệ hợp tác quốc tế về quân sự, quốc phòng. Khi tham gia liên minh, các nước sẽ nằm trong một khối quân sự chung, với những mục tiêu cụ thể, dùng các biện pháp quân sự để tranh giành lợi ích, chống đối thủ chung. Các nước trong liên minh sẽ phải đặt dưới sự chỉ huy, lãnh đạo của một quốc gia, thường là nước lớn và tuân thủ các nguyên tắc của liên minh, cho dù không hoàn toàn phù hợp với mình. Chính điều này đã tạo ra sự ràng buộc giữa các nước, làm cho mỗi nước không còn độc lập, tự chủ về những vấn đề của đất nước mình.

Thực hiện chính sách quốc phòng độc lập, tự chủ, Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự, nhưng chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện cả kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh. Việt Nam đẩy mạnh hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng theo phương châm “tích cực, chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả” nhằm giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế; tăng cường lòng tin chiến lược, duy trì môi trường hòa bình, hợp tác cùng phát triển, củng cố thế trận quốc phòng, an ninh, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác quốc phòng, an ninh với tất cả các nước trong khu vực, trao đổi thông tin tình hình, hợp tác tuần tra chung biên giới trên bộ, trên biển (Việt Nam - Campuchia, Việt Nam - Thái Lan, Việt Nam - Trung Quốc,…); hợp tác phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia, mua bán người và ma túy, v.v. Việt Nam đang tham gia vào các sáng kiến nhằm thúc đẩy hợp tác quốc phòng, an ninh trong Cộng đồng ASEAN, như: hợp tác công nghiệp quốc phòng; sử dụng nguồn lực và khả năng quân đội các nước khu vực trong hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa; xác định các biện pháp khả thi cũng như cơ chế tăng cường hợp tác giữa các tổ chức quốc phòng ASEAN. Trong khuôn khổ hợp tác, hằng năm, Việt Nam tham gia đầy đủ các hội nghị, như: Người đứng đầu Quân đội ASEAN (ACDFIM), Tư lệnh Lục quân ASEAN (ACAMM), Tư lệnh Hải quân ASEAN (ANCM), Tư lệnh Không quân ASEAN (AACC) và Hội nghị không chính thức những người đứng đầu tình báo quốc phòng các nước ASEAN (AMIIM). Hoạt động đối ngoại quốc phòng đa phương của Việt Nam đã góp phần tích cực vào giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bảo vệ các lợi ích quốc gia của Việt Nam trên trường quốc tế và khu vực; củng cố và duy trì hòa bình, ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho thực hiện nhiệm vụ trung tâm phát triển kinh tế đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia, bảo vệ các lợi ích quốc gia của Việt Nam trên trường quốc tế và khu vực; góp phần nâng cao vị thế và uy tín của đất nước, Quân đội.

Mặt khác, trên bình diện quan hệ quốc tế, Việt Nam hiện là thành viên của Phong trào Không liên kết, cho nên chủ trương không liên kết với nước này để chống nước kia là phù hợp với mục tiêu và nguyên tắc của tổ chức quốc tế này. Phong trào Không liên kết được thành lập năm 1961, đến nay có 120 nước thành viên, 17 nước quan sát viên, là tổ chức có số lượng thành viên lớn thứ hai thế giới sau Liên hợp quốc. Không liên kết là một tập hợp lực lượng của các nước đang phát triển, với mục tiêu chính là thúc đẩy lợi ích của các nước đang phát triển; đóng góp vào duy trì hòa bình, độc lập dân tộc; chung sống hòa bình giữa các quốc gia và chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp, công bằng cho mọi người dân. Việt Nam chính thức tham gia Phong trào Không liên kết năm 1976, từ đó đến nay luôn hoạt động tích cực, có nhiều đóng góp đối với Phong trào vì các mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và phát triển. Những năm qua, Việt Nam luôn coi việc tham gia Phong trào là chủ trương nhất quán, một bộ phận của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa, bổ sung cho quan hệ song phương, khu vực và quốc tế của mình; sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy, thành viên tích cực, chủ động và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Việt Nam luôn đóng góp vào việc giữ vững các nguyên tắc của Phong trào, tăng cường đoàn kết để cùng nhau phấn đấu vì những mục tiêu cao cả của Phong trào, đặc biệt là nguyên tắc tôn trọng bình đẳng chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ giữa các quốc gia và giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình.

Như vậy, trong điều kiện hòa bình hiện nay, không liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống nước khác không phải là “tự trói buộc mình”. Trái lại, nó có tác dụng “cởi trói” cho chúng ta cả trong tư duy và hành động để chúng ta có thể suy nghĩ và hành động một cách độc lập, sáng tạo và không bị chi phối, áp đặt bởi yếu tố bên ngoài, tức không bị “người khác trói mình”. Đồng thời, nó cũng không gây ra những nguy cơ tiềm ẩn, nhất là trong chính sách bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc như một số người lầm tưởng, mà ngược lại, còn giúp cho Việt Nam bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc của mình một cách vững chắc hơn. Và dĩ nhiên, một chủ trương đúng đắn và đang phát huy hiệu quả như thế thì hà cớ gì chúng ta phải thay đổi.

Có phải chủ trương không liên kết với nước này để chống nước kia khiến “chúng ta sẽ khó kiếm được đồng minh” và “làm mất đi con bài mặc cả quan trọng của Việt Nam với nước lớn”?

Nếu chúng ta chủ trương liên kết với nước này để chống nước kia sẽ đưa đến một tình huống nguy hiểm là “phải chọn bên”. Chúng ta sẽ buộc phải chọn đồng minh, để liên minh, liên kết nhằm chống lại nước khác và việc dẫn đến những tình huống cực kỳ nguy hiểm là khó tránh khỏi. Ở đây không có sự ảo tưởng dành cho nước nhỏ có quyền “mặc cả” với các nước lớn trong vấn đề này. Thực tế tình hình thế giới những năm vừa qua cũng như gần đây, đặc biệt là diễn biến các cuộc xung đột quân sự hiện nay đã cho thấy rõ điều này. Cái giá phải trả là vô cùng đắt như chúng ta đã thấy. Vận mệnh của đất nước, tương lai của dân tộc, cuộc sống của nhân dân không thể và không bao giờ có thể là “con bài” trong canh bạc chính trị của kẻ khác! Lối tư duy “đỏ đen” đầy may rủi không thể là tư duy chính trị mà Việt Nam theo đuổi. Việc thực hiện nguyên tắc “không liên kết với nước này để chống nước khác” trở nên đặc biệt quan trọng trong bối cảnh khu vực hiện nay. Nếu Việt Nam liên minh với bên ngoài, ưu tiên dùng biện pháp quân sự để giải quyết các tranh chấp, bất đồng thì sẽ khó được các nước khác ủng hộ.

Mới đây (ngày 11/5/2022), phát biểu tại Trung tâm nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế Hoa Kỳ (CSIS), Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định: “Trong một thế giới đầy biến động, cạnh tranh chiến lược và nhiều sự lựa chọn, Việt Nam không chọn bên mà chọn chính nghĩa, sự công bằng, công lý và lẽ phải trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc; bình đẳng, tất cả cùng có lợi, cùng thắng”.

Với trường phái “Ngoại giao cây tre”, kết hợp hài hòa giữa gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nói đến, và với sự: biết nhu, biết cương; biết thời, biết thế; biết mình, biết người; biết tiến, biết thoái, “tùy cơ ứng biến”, “lạt mềm buộc chặt”, chúng ta sẽ có đủ trí tuệ và bản lĩnh để xử lý đúng đắn và hiệu quả mọi thử thách, khó khăn, vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân, mà không nhất thiết phải liên kết với nước này để chống nước kia. Chúng ta có thể chọn bạn, nhưng dứt khoát “không chọn bên” một cách cực đoan. Trong quan hệ với các nước, quan điểm của chúng ta là rất rõ ràng: “Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác quan trọng khác”, vì lợi ích của người dân, vì hòa bình và phát triển của khu vực cũng như trên toàn thế giới.

Như vậy có thể thấy, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam là rất rõ ràng, phù hợp với xu thế chung của thế giới. Những luận điệu công kích của các thế lực thù địch, thực chất nhằm chống phá đường lối đối ngoại và chính sách quốc phòng độc lập, tự chủ của Đảng và Nhà nước ta, cần kiên quyết đấu tranh bác bỏ.

Với việc không liên kết với nước này để chống nước kia, Việt Nam luôn thể hiện là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, hợp tác và phát triển. Và đây cũng là thành tựu đóng góp để “đối ngoại tiếp tục là một điểm sáng trong những thành tựu chung của cả nước”, góp phần tạo dựng môi trường thuận lợi cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế./.

ST.

Đấu tranh bảo vệ uy tín, thanh danh của Đảng

Thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị luôn tìm mọi cách chống phá, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, thanh danh của Đảng, nhất là dịp diễn ra các sự kiện lớn của đất nước, nhằm tạo tiếng vang, thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội và cộng đồng quốc tế. Vì thế, nhận diện và kiên quyết đấu tranh bảo vệ uy tín, thanh danh của Đảng; định hướng nhận thức tư tưởng, hành động cho cán bộ, đảng viên và nhân dân là vấn đề căn bản, cấp thiết, lâu dài.

Nhận diện những chiêu trò xấu, độc

Thời gian qua, lợi dụng, khoét sâu vào những hạn chế, khuyết điểm trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước; sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên để xuyên tạc, chống phá, phủ nhận thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước,... là một trong những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch. Một mặt, họ phủ nhận và cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã lỗi thời, không còn phù hợp với xu thế phát triển của thời đại; mặt khác  tăng cường cổ súy cho “xã hội dân sự”, kêu gọi thành lập các tổ chức chính trị đối lập, tạo tiền đề thực hiện “đa nguyên, đa đảng”. Đồng thời, tích cực truyền bá lối sống phương Tây, bao biện rằng chủ nghĩa tư bản đã thay đổi bản chất, không còn áp bức, bóc lột; vu cáo Việt Nam “đàn áp” dân chủ, nhân quyền, thúc đẩy phong trào “bất tuân dân sự”; kích động, chia rẽ nội bộ, chống phá Đảng, Nhà nước, xúi giục, lôi kéo nhân dân tham gia biểu tình, gây rối, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo cơ sở thực hiện “canh tân đất nước”, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.

Đặc biệt, vào dịp diễn ra các sự kiện chính trị lớn, như: Đại hội Đảng toàn quốc, hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, bầu cử đại biểu Quốc hội,… chúng tăng cường xuyên tạc nội dung dự thảo các văn kiện Đại hội, nghị quyết các hội nghị; bịa đặt, bôi nhọ đời tư, uy tín, danh dự của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, nhất là các đồng chí được đề cử, ứng cử vào Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban kiểm tra Trung ương khóa mới. Khi muốn “hạ bệ” cá nhân nào đó, họ tập trung khoét sâu vào những hạn chế, khuyết điểm của các ban, bộ, ngành, lĩnh vực mà cá nhân đó phụ trách, hoặc dựng chuyện, bịa đặt, bóp méo bản chất các vụ việc liên quan rồi quy kết trách nhiệm cá nhân, không đủ tiêu chuẩn quy hoạch nhân sự đại hội. Họ còn rêu rao rằng: ở cả Trung ương và địa phương “các phe cánh trong Đảng luôn thanh trừng lẫn nhau”, “Đại hội Đảng là nơi đấu đá, tranh giành quyền lực của các phe phái”; từ đó, kích động, chia rẽ đoàn kết nội bộ, gây nhiễu loạn thông tin, hoang mang tư tưởng trong cán bộ, đảng viên, nhân dân.

Trong công tác cán bộ, họ cho rằng: việc quy hoạch cán bộ chủ chốt của Đảng đã “tước đi quyền tự do, dân chủ trong ứng cử, đề cử và bầu cử”. Đại hội bầu ra các vị trí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị chỉ mang tính hình thức, thực chất là “củng cố, thâu tóm quyền lực” cho phe cánh của đồng chí A, đồng chí B, v.v. Thế mới có chuyện, mỗi khi có cán bộ được bổ nhiệm, nhất là cán bộ trẻ, họ lại “truy lùng” xem đó là con, cháu của ai? mà không cần biết phẩm chất, năng lực của cán bộ đó. Gần đây nhất, trong thời gian diễn ra Hội nghị Trung ương 5 (khóa XIII) đã xuất hiện nhiều bài viết “nở rộ như nấm sau mưa” trên các trang mạng xã hội tung tin đồn thổi, bình luận về nội dung hội nghị, rằng: sẽ có cuộc tranh giành quyền lực, đấu đá giữa các phe, nhóm tại hội nghị lần này và suy diễn, bình luận việc “rời ghế” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Điển hình, trang facebook Tiếng Dân News có bài “Những biến cố trước Hội nghị Trung ương 5”, “Hội nghị Trung ương 5 và nội tình của Đảng”; facebook Việt Tân có bài “Khảo sát ý kiến độc giả về tương lai chính trị của ông Nguyễn Phú Trọng”, v.v.

Một cách tinh vi hơn, các thế lực thù địch còn soạn thảo, phát tán các tài liệu trên internet, mạng xã hội núp bóng dưới chiêu trò “Thư ngỏ”, “Bản kiến nghị” của “nhân dân” để gieo rắc hoài nghi, lừa bịp dư luận,... hoặc thông qua các trang web, kênh phát thanh, truyền hình Việt ngữ (BBC, VOA, RFA, RFI,…) để đăng tải, phát các chương trình, bài viết, tài liệu, báo cáo, nghị quyết, dự luật của nghị viện, quốc hội một số nước, nhất là báo cáo về tình hình nhân quyền hằng năm của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và một số tổ chức quốc tế, như: mạng lưới nhân quyền Việt Nam; Tổ chức người bảo vệ nhân quyền; Theo dõi nhân quyền quốc tế, v.v. Ngoài ra, họ còn lập hàng nghìn trang web, blog, mạng xã hội; hàng trăm tạp chí, báo, nhà xuất bản, hàng chục đài phát thanh có chương trình tiếng Việt phục vụ cho việc tuyên truyền, chống phá. Một số tổ chức phản động lưu vong: Việt Tân, Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời, Hội anh em dân chủ,... thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm trực tiếp, trực tuyến được livestream trên các nền tảng mạng xã hội nhằm tuyên truyền, xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tôn giáo,… thu hút sự quan tâm của dư luận, kêu gọi quốc tế can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

Làm gì để bảo vệ uy tín, thanh danh của Đảng

Với phương châm: “mưa dầm thấm lâu”, hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị đã, đang trở nên vô cùng nguy hiểm, ảnh hưởng tới uy tín, thanh danh và nền tảng tư tưởng của Đảng, giảm sút niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ. Do đó, đấu tranh ngăn chặn, phản bác hoạt động chống phá, bảo vệ Đảng, chế độ cần được tiến hành thường xuyên, bằng nhiều giải pháp quyết liệt, đồng bộ; trong đó, tập trung thực hiện một số nội dung, giải pháp chủ yếu sau:

 Một làtăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đối với nhiệm vụ quan trọng này. Chúng ta biết, âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta trước đây, hiện nay và sau này sẽ không bao giờ thay đổi, thậm chí còn ráo riết và ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn. Điều đó cho thấy, bảo vệ nền tảng tư tưởng và uy tín, thanh danh của Đảng là vấn đề cốt lõi, quan trọng bậc nhất đối với sự tồn vong của Đảng và chế độ, cũng như vận mệnh chính trị của đất nước, dân tộc. Vì thế, phải đặt công tác này dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, của cấp ủy, chính quyền các cấp cùng sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị. Cấp ủy, tổ chức đảng, các cấp, ngành ở Trung ương và địa phương cần tiếp tục quán triệt Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị (khóa XII) “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”; triển khai quyết liệt, thực chất, thường xuyên với ý chí, quyết tâm cao, có sức thuyết phục, tạo ra sức lan tỏa mạnh mẽ, sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân với nội dung đa dạng, phong phú, phù hợp với từng đối tượng. Quá trình thực hiện, chú trọng phát huy trí tuệ, tâm huyết của tập thể, các tầng lớp nhân dân, nhất là các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành trong đấu tranh với hoạt động xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị. Các cơ quan quản lý nhà nước, lực lượng chuyên sâu theo chức năng, nhiệm vụ chủ động làm việc, yêu cầu các nhà mạng ngăn chặn, bóc gỡ các trang web, blog có nội dung xấu độc và xử lý nghiêm minh các đối tượng vi phạm theo quy định của pháp luật.

Hai làđổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, tư tưởng, lý luận. Các cấp, ngành, địa phương, cả hệ thống chính trị, nhất là cơ quan tuyên giáo, báo chí, truyền thông tăng cường đổi mới phương thức thông tin, tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước; vạch trần âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch,… làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhận thức rõ bản chất, mục đích của những thông tin, luận điệu xuyên tạc, chống phá. Từ đó, nêu cao cảnh giác, có khả năng nhận diện và “miễn dịch” trước các thông tin xấu độc, xuyên tạc, chống phá, nhất là dịp diễn ra những sự kiện chính trị quan trọng. Đồng thời, chủ động cập nhật, cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin chính thống về các kỳ họp Ban Chấp hành Trung ương, Đại hội Đảng toàn quốc; công khai, minh bạch thông tin về chủ trương, đường lối, chính sách giải quyết các vấn đề phức tạp, gây bức xúc, nhất là những vấn đề nhạy cảm cả trước, trong và sau khi diễn ra sự kiện để định hướng nhận thức, hành động cho các tầng lớp nhân dân. Các cấp, ngành, địa phương mà nòng cốt là cơ quan tuyên giáo, báo chí, truyền thông tích cực tổ chức lực lượng viết bài đấu tranh phê phán, phản bác với lập luận sắc bén, thuyết phục nhằm bác bỏ thông tin xuyên tạc, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, thanh danh, vai trò lãnh đạo của Đảng. 

Ba làtiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, làm trong sạch bộ máy, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Thực tế cho thấy, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là một trong những nguyên nhân dẫn đến những khuyết điểm, sai lầm, vi phạm pháp luật, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo cao cấp diện Trung ương quản lý, đã làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng. Do đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, các tổ chức, lực lượng và cả hệ thống chính trị tiếp tục đẩy mạnh công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với nhiều biện pháp quyết liệt đồng bộ, theo tinh thần “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp tập trung thực hiện có hiệu quả Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Tăng cường các biện pháp quản lý, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên; nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, đề cao đấu tranh tự phê bình và phê bình; chấp hành nghiêm quy định của công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện, ngăn chặn những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên. Đồng thời, tăng cường kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực; kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy lãnh đạo những cán bộ, đảng viên yếu kém, không đủ phẩm chất, năng lực, quan liêu, sách nhiễu. Thông qua đó, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.

Bốn làchú trọng phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Đây là thực tiễn, minh chứng sinh động nhất để phản bác các luận điệu xuyên tạc, chống phá vô căn cứ của các thế lực thù địch; đồng thời, khẳng định vai trò, vị thế, uy tín lãnh đạo của Đảng đối với đất nước và toàn xã hội. Vì vậy, trên cơ sở quán triệt chủ trương, đường lối, nghị quyết lãnh đạo của Đảng, các cấp, các ngành, địa phương đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đi đôi với củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Để khắc phục sự phát triển chênh lệch giữa các vùng, miền, Đảng, Nhà nước chú trọng quan tâm, đề ra chủ trương, chính sách ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, biển, đảo. Giải quyết kịp thời, dứt điểm các mâu thuẫn phức tạp nảy sinh trong quá trình phát triển ngay từ địa phương, cơ sở, không để xuất hiện, hình thành các “điểm nóng” để kẻ địch lợi dụng xuyên tạc, chống phá, bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy.

Đấu tranh với hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị bảo vệ nền tảng tư tưởng, uy tín, thanh danh của Đảng là “cuộc chiến” đầy cam go, thách thức, song với sự quyết tâm, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, chúng ta nhất định thành công, tạo cơ sở thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

ST.

Tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng. Đây là điều đã được khẳng định và minh chứng trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Song, nền tảng đó muốn lâu bền, vững chắc thì không chỉ thể hiện trên văn bản, giấy tờ, nghị quyết,… của từng tổ chức, mà điều quan trọng nhất là sự tồn tại, thấm sâu trong chính nhận thức, suy nghĩ, tư tưởng, tình cảm và hành động thực tiễn – những biểu hiện cụ thể từ đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ, đảng viên. Điều đó được biểu hiện sinh động ở quan hệ biện chứng tác động lẫn nhau giữa hai nhân tố này trong quá trình vận động, phát triển của cách mạng.

Theo đó, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở phương pháp luận, thế giới quan, nội dung, tiêu chí để xây đắp, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Ngược lại, đạo đức cách mạng là cơ sở tiếp thu, “nuôi dưỡng” và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng. Do vậy, đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ, đảng viên có vai trò quan trọng, trực tiếp góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức là gốc, nền tảng của người cách mạng, Người cho rằng “Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Đặc biệt, làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ, đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới “gánh được nặng và đi được xa”; trước những khó khăn, gian khổ, phức tạp không dao động, luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng đã lựa chọn. Vì vậy, tiêu chuẩn đầu tiên của người cán bộ là phẩm chất đạo đức, “đạo đức là gốc”, người cán bộ phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức mới có thể trở thành người cán bộ chân chính, “mọi việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng, hay là không”.

Đạo đức cách mạng, theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, gồm nhiều yếu tố, tựu trung là: trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân; yêu thương con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng. Trong đó, điều mấu chốt nhất là: quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Thấm nhuần điều đó, từ khi thành lập Đảng cho tới nay, tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên luôn thể hiện rõ phẩm chất đạo đức cách mạng; tích cực, chủ động học tập, thấm nhuần và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; nêu cao bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng; sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, vì sự phát triển phồn vinh của đất nước.

Tuy nhiên, trước những tác động tiêu cực đa chiều, nhất là mặt trái của kinh tế thị trường và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch,... một số cán bộ, đảng viên đã không giữ được phẩm chất đạo đức, lối sống, sa vào chủ nghĩa cá nhân. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực trên một số lĩnh vực, địa bàn, cơ quan, đơn vị của một số cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ cấp cao diễn ra nghiêm trọng, phức tạp, với nhiều biểu hiện ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã hội. Đặc biệt, một bộ phận cán bộ, đảng viên do thiếu tu dưỡng rèn luyện dẫn tới phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính tri, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thậm chí vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước buộc phải xử lý, v.v. Đó là nguyên nhân sâu xa dẫn đến một số cán bộ, đảng viên hư hỏng, biến chất đòi phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Triệt để lợi dụng thực trạng này, các thế lực thù địch đẩy mạnh xuyên tạc, kích động chống phá, gieo rắc hoài nghi,... làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, v.v.

Đại hội XII của Đảng đã đặt nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo đức ngang với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng cũng đã chỉ rõ sự suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên “là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”. Đến Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh vấn đề xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; trong đó, xây dựng Đảng về đạo đức được đặt ở một vị trí cao hơn.

Như vậy, đạo đức cách mạng là phẩm chất quan trọng hàng đầu của mỗi cán bộ, đảng viên và có ý nghĩa quyết định tới sự tồn vong của Đảng, của chế độ nói chung và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng nói riêng; đòi hỏi, cán bộ, đảng viên nêu cao tinh thần tự tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức cách mạng là giải pháp quan trọng để góp phần giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng. Để thực hiện tốt điều đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:

Một là, nhận thức đúng đắn vai trò quan trọng của tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng. Thực tế cho thấy, những cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật có nguyên nhân căn bản từ việc thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức. Mặc dù được công tác, học tập trong môi trường có tính kỷ luật cao, tổ chức chặt chẽ; vẫn được giáo dục, tuyên truyền; vẫn tham gia đầy đủ các lớp học, các hội nghị; được quán triệt, học tập đầy đủ các nghị quyết, chỉ thị,… nhưng do chưa nhận thức đúng vai trò của tự tu dưỡng nên một số cán bộ, đảng viên buông lỏng bản thân, không có, hoặc chưa có hoạt động tự tu dưỡng, rèn luyện đủ mạnh, khiến đạo đức người đảng viên, cán bộ không được bồi đắp, đi chệch hướng.

Việc rèn luyện đạo đức cách mạng không phải dễ dàng, bởi ai cũng muốn, thậm chí ham muốn được phát triển, có quyền lực, có điều kiện kinh tế, có cuộc sống sung túc, muốn được hưởng thụ, thậm chí còn muốn được xa hoa,… do vậy, đấu tranh để thắng những ham muốn của bản thân mình là một cuộc đấu tranh gay go, phức tạp và phải do tự mình “chiến đấu”. Khó, nhưng không phải không làm được. Tấm gương tự tu dưỡng, tự rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và biết bao đảng viên khác để đưa đất nước đến ngày hôm nay là minh chứng rõ nét. Sinh thời, Chủ tịch  Hồ Chí Minh chỉ rõ, kẻ địch cần chống trước hết là chống thói quen và truyền thống lạc hậu; đặc biệt là chống chủ nghĩa cá nhân đang ẩn chứa trong mỗi con người, khi có điều kiện tác động nó sẽ phát triển. Cho nên, mỗi cán bộ, đảng viên “trước hết phải đánh thắng lòng tà là kẻ thù trong mình”. Và, phải chủ động đấu tranh loại bỏ hàng trăm thứ bệnh do chủ nghĩa cá nhân gây ra vì nó là vật cản nguy hiểm cho việc xây dựng đạo đức cách mạng của quân nhân.

Hai là, tích cực nghiên cứu, học tập. Trước hết, phải thường xuyên học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Không nắm vững, không thấm nhuần nền tảng tư tưởng của Đảng thì không thể tu dưỡng được đạo đức cách mạng, đồng thời cũng không thể bảo vệ, phát triển, thậm chí còn làm tổn hại tới nền tảng tư tưởng của Đảng. Việc tự học tập là rất quan trọng, hiện nay, hoạt động này đang bị tác động tiêu cực từ nhiều mặt. Cản trở lớn nhất là sự phát triển của công nghệ giải trí, của mạng xã hội với vô vàn các nội dung khiến một số cán bộ, đảng viên thiên về “thỏa mãn” nhu cầu giải trí, sao nhãng việc nghiên cứu, học tập. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên cần xây dựng cho mình kế hoạch tự học tập phù hợp, hiệu quả, khả thi và thực hiện nghiêm túc. Giải quyết hài hòa giữa nhu cầu thư giãn, giải trí, tái tạo sức lao động với nhu cầu trau dồi kiến thức nền tảng của người cán bộ, đảng viên. Để việc tự học tập đạt hiệu quả, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần cụ thể hóa những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, đề ra phương hướng, mục tiêu, nội dung, giải pháp để tuyên truyền, giáo dục cho phù hợp với đặc điểm, tình hình nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị, địa phương, đối tượng. Kết hợp tuyên truyền, giáo dục với tạo điều kiện cho đảng viên tự học, tự rèn, tự soi, tự sửa để hoàn thiện bản thân; nâng cao nhận thức về mục tiêu, lý tưởng cộng sản, lòng trung thành đối với mục tiêu, lý tưởng của Đảng; rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, tình yêu thương con người; gương mẫu trong công tác, lối sống, khiêm tốn giản dị, dân chủ, đoàn kết và kỷ luật, nói đi đôi với làm; thương yêu đồng chí, đồng đội, không quan liêu, độc đoán chuyên quyền, gia trưởng.v,v. Cán bộ, đảng viên phải có trình độ chuyên môn và tác phong, phương pháp công tác tốt; luôn đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc và của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân; luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, không dao động trước khó khăn, thử thách.

Ba là, thực hiện hiệu quả các nguyên tắc trong tự tu dưỡng đạo đức cách mạng. Đầu tiên là phải luôn nói đi đôi với làm, nêu gương tốt, làm việc tốt. Đây không chỉ là nguyên tắc rèn luyện mà còn là sự phân biệt giữa đạo đức cách mạng và phi đạo đức cách mạng. Vì vậy, lời nói của cán bộ, đảng viên phải đi đôi với việc làm và phải thực hiện tốt việc làm gương. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền”, “trước mắt quần chúng, không phải cứ viết lên trán hai chữ cộng sản mà ta được họ yêu quý. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức”. Đạo đức ở đây không phải là đạo đức “tu thân” mà là đạo đức “dấn thân”, đạo đức trong hành động. Đã là hành động, nhất là hành động cách mạng, phải chú trọng đến hiệu quả. Nếu làm việc gì cũng không có hiệu quả thì không thể coi là một người có đạo đức. Muốn hướng dẫn cho quần chúng thì cán bộ, đảng viên phải làm mực thước. Muốn cho cơ quan, đơn vị đoàn kết, thì tập thể lãnh đạo phải thực sự dân chủ, đoàn kết, công tác cán bộ phải công tâm, khách quan, v.v. Cán bộ, đảng viên phải làm gương mọi mặt cho quần chúng noi theo.

Thực hiện lời dạy của Bác: “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, việc làm gương phải thực hiện ở mọi nơi, mọi việc, từ cán bộ cấp cao tới cơ sở;tu dưỡng đạo đức cách mạng phải trên tinh thần tự giác, tự nguyện, dựa vào lương tâm, trách nhiệm, chức trách, nhiệm vụ của mỗi người và sự đóng góp xây dựng của tập thể. Trong cuộc sống thường nhật, ai cũng có mặt mạnh, mặt hạn chế, không ai có thể đạt tới sự hoàn mỹ một cách tuyệt đối. Cho nên, mỗi đảng viên phải biết và dám dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật bản thân con người mình và dựa vào tập thể để thấy cái tốt, cái hay để phát huy, cái xấu, cái ác để khắc phục. Việc tu dưỡng đạo đức cách mạng phải gắn liền với thực tiễn hoạt động công tác; phải bền bỉ, ở mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh.

Bốn là, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ. Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn tới những vi phạm của một số tổ chức, cá nhân thời gian qua, đó cũng là căn nguyên làm xói mòn đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Vì vậy, để tự tu dưỡng đạo đức cách mạng, mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì cần nhận thức đúng đắn và thống nhất về nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Nắm chắc nội dung, yêu cầu của nguyên tắc trong tình hình mới; đấu tranh chống những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận nguyên tắc này. Quá trình thực hiện dân chủ phải đi đôi với tập trung; phát huy dân chủ phải đồng thời gắn liền với chống dân chủ cực đoan, dân chủ không tuân theo kỷ cương, phép nước. Nguyên tắc tập trung dân chủ phải được thực hiện theo đúng Điều lệ Đảng và trong mối quan hệ đồng bộ với các nguyên tắc khác, như tự phê bình và phê bình, đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Theo đó, những vấn đề trọng yếu, nhạy cảm, dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng nhất thiết phải được tập thể cấp ủy (ban thường vụ), chi bộ thông qua trước khi thực hiện. Từng đảng viên phải đề cao trách nhiệm tự phê bình và phê bình, phát biểu thẳng thắn, trung thực, khách quan; thấy đúng phải kiên quyết bảo vệ, thấy sai dám đấu tranh bác bỏ. Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, trên nguyên tắc luôn luôn đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân và tập thể cơ quan, đơn vị lên trên hết, trước hết. Không cơ hội, vụ lợi; chạy theo mục tiêu trước mắt, ngắn hạn để thu vén lợi ích cho bản thân, gia đình mà bỏ qua lợi ích tập thể. Chỉ khi nào cán bộ, đảng viên hết lòng, hết sức xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh thì khi đó chủ nghĩa cá nhân mới được đẩy lùi và đạo đức cách mạng mới được bồi đắp, phát huy.

Thực hiện hiệu quả việc tự tu dưỡng, rèn luyện là cơ sở, nền tảng để xây dựng và phát huy phẩm chất, đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Đó cũng là yếu tố gốc rễ để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới./.

ST.

Tự do báo chí phải trong khuôn khổ của pháp luật

Tự do báo chí là một trong những quyền cơ bản của con người trong thời đại ngày nay. Đó là quyền được thông tin, trao đổi, giao tiếp, thể hiện ý chí và nguyện vọng của mỗi cá nhân và tổ chức qua các phương tiện truyền thông đại chúng. Tuy nhiên, cũng giống như nhiều quyền cơ bản của con người, quyền tự do báo chí phải đặt trong khuôn khổ của pháp luật.

Chúng ta biết, không chỉ Việt Nam mà rất nhiều quốc gia trên thế giới đều có quy định trong Hiến pháp: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”. Vì thế, việc các cơ quan chức năng của Việt Nam xét xử một số nhà báo, hoặc những người đã từng làm báo vi phạm pháp luật là điều bình thường. Nhà báo cũng là công dân, đều bình đẳng trước pháp luật như mọi công dân khác. Thế nhưng, gần đây, khi tòa án của Việt Nam xét xử một số phần tử lợi dụng “mác phóng viên” để kích động xuyên tạc, tán phát những thông tin sai lệch,… thì một số người đã “bày tỏ chính kiến” trên mạng xã hội hoặc trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài rằng: “Việt Nam đã đàn áp nhà báo”, “Ở Việt Nam không có tự do báo chí”, v.v. Cùng với đó, một số tổ chức và báo chí của nước ngoài do không hiểu, hoặc cố tình không hiểu tình hình thực tế của Việt Nam đã thêu dệt và đưa những thông tin không đúng sự thật về báo chí Việt Nam. Điển hình là Tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF) đã công bố cái gọi là báo cáo về “Chỉ số tự do báo chí thế giới năm 2022”, đưa ra luận điệu bịa đặt và cáo buộc rằng: Việt Nam vẫn nằm trong nhóm các quốc gia có tình hình báo chí “rất tồi tệ”. Từ đó, họ kêu gọi mọi người đấu tranh đòi “tự do báo chí đích thực”, “thả tự do cho các nhà báo” vi phạm bị pháp luật xử lý, v.v.

Những người có hành vi đi ngược lại với lợi ích của đại đa số nhân dân Việt Nam có thể không biết, hoặc cố tình không biết rằng, tự do ngôn luận là quyền cơ bản của con người, nhưng quyền này luôn có giới hạn và phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có quy định như vậy. Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (1948) khẳng định: “Mỗi người đều có những nghĩa vụ đối với cộng đồng, trong khi hưởng thụ các quyền về tự do cá nhân, phải chịu những hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận và tôn trọng đối với các quyền tự do của người khác và phù hợp với những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung”.

Trên thực tế, hầu hết các nước trên thế giới hiện nay đều có chế tài, điều khoản luật xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng tự do báo chí để vi phạm pháp luật. Nói cách khác, tự do báo chí, ở bất kỳ quốc gia nào cũng phải gắn với chế độ chính trị, điều kiện xã hội, nền tảng đạo đức, pháp lý trong mỗi hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Mỗi quốc gia, tùy thuộc vào điều kiện và bối cảnh cụ thể mà đưa ra những giới hạn nhất định đối với việc thực hiện tự do ngôn luận của công dân. Ở Mỹ, giới hạn của tự do ngôn luận được thể hiện chủ yếu qua án lệ của các tòa án, đặc biệt là Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, cho phép chính quyền ngăn chặn và trừng phạt các phát ngôn có tính chất khiêu dâm, tục tĩu, phỉ báng, xúc phạm, gây hấn, v.v. Tháng 4/2003, Peter Arnett (tác giả của cuốn sách “Từ chiến trường khốc liệt” đã được Nhà xuất bản Thông tấn dịch ra tiếng Việt), là phóng viên “ruột” của hãng CNN, bỗng dưng bị sa thải vì đưa thông tin không phù hợp với quan điểm của Nhà trắng và Lầu năm góc. Ở Pháp, pháp luật về tự do ngôn luận cũng đưa ra các giới hạn, chế tài nghiêm khắc, trừng trị hành vi lạm dụng quyền tự do ngôn luận làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, bao gồm việc bảo vệ nhân phẩm con người, chống lại việc vu khống, bôi nhọ; chống phân biệt chủng tộc, tôn giáo; chống kích động bạo lực, gây hận thù (Luật Tự do báo chí, năm 1881); chống lại việc xâm phạm đời tư (Bộ luật Dân sự); cấm xuất bản một số tài liệu liên quan đến an ninh quốc gia (Luật Hình sự). Việc bày tỏ quan điểm cá nhân trên internet cũng chịu sự điều chỉnh của Luật Tự do báo chí, v.v.

Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước luôn tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận của công dân. Tự do ngôn luận được hiến định tại Điều 10 trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (năm 1946): “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”. Điều 25, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện hành (năm 2013) tiếp tục khẳng định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Luật Báo chí năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 và Luật An ninh mạng năm 2018 đều có những quy định cụ thể về tự do ngôn luận, tự do báo chí. Các đạo luật này còn có những quy định cụ thể về hành vi đăng tải, phát tán thông tin sai lệch, xuyên tạc, phỉ báng, phủ nhận chính quyền; bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; xuyên tạc lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, anh hùng dân tộc; thông tin sai sự thật, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân,… đều bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Như vậy, về mặt pháp luật, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã ban hành khung pháp lý về quyền tự do ngôn luận đầy đủ, đồng bộ, tương thích với luật pháp quốc tế về quyền con người.

Suốt 77 năm qua, kể từ ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để người dân có thể được thụ hưởng. Hiện nay, Việt Nam có hơn 800 cơ quan báo chí in và điện tử, hơn 70 cơ quan có giấy phép hoạt động phát thanh, truyền hình. Cả nước có hơn 40.000 người hoạt động trong cơ quan báo chí, trong đó có hơn 17.000 người được cấp Thẻ Nhà báo, v.v. Việt Nam được thế giới ghi nhận là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng và sử dụng internet cao nhất thế giới với hơn 68 triệu người (chiếm 70% dân số), v.v.

Những năm qua, báo chí ở Việt Nam luôn giữ vai trò là tiếng nói của Đảng, Nhà nước và là diễn đàn của nhân dân; chủ động, kịp thời, thông tin hiệu quả về những vấn đề lớn của đất nước, thể hiện rõ vai trò dẫn dắt, định hướng dư luận và tạo sự đồng thuận xã hội. Các cơ quan báo chí của Việt Nam thực sự là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân, tuyên truyền nhanh, đầy đủ, chính xác các tin tức sự kiện, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước và Chính phủ trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, các cơ quan báo chí đã phát hiện và phản ánh trung thực gương tốt, việc tốt, nhiệt tình ủng hộ và cổ vũ nhân tố mới, mô hình hiệu quả, những biểu hiện tích cực trong quá trình phục hồi kinh tế - xã hội sau đại dịch Covid-19; qua đó, cổ vũ cán bộ, đảng viên, quần chúng, người lao động nỗ lực khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Một trong những chức năng cơ bản, quan trọng của báo chí là giám sát và phản biện xã hội. Chức năng này được báo chí cách mạng Việt Nam phát huy hiệu quả trong suốt chặng đường gần một thế kỷ qua, đặc biệt là trong công cuộc phục hồi kinh tế - xã hội sau đại dịch Covid-19. Báo chí đã chủ động tham gia giám sát và phản biện xã hội, đóng góp tích cực vào việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; đấu tranh phản bác các luận điệu thù địch, sai trái, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và các tệ nạn xã hội đang làm cản trở sự phát triển của đất nước. Trong hoạt động nghiệp vụ, các nhà báo đã không quản ngại khó khăn, thách thức, lăn lộn với thực tiễn, phát hiện những “kẽ hở”, bất cập trong việc ban hành các chính sách,... từ đó kiến nghị với các cơ quan chức năng của Nhà nước sửa đổi, chấn chỉnh kịp thời. Đồng thời, phanh phui nhiều vụ tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng - những “con sâu” đang đục khoét đời sống của người lao động, những kẻ làm giàu bất chính, những nguyên nhân kìm hãm tài năng của quần chúng; nêu các biện pháp ngăn chặn và khắc phục những trở ngại đó. Báo chí, truyền thông đã tạo dư luận mạnh mẽ đấu tranh, lên án những hiện tượng tham nhũng, tiêu cực nảy sinh trong đời sống xã hội, như: thói lãng phí, chây lười, làm ăn gian dối, biểu hiện thờ ơ vô trách nhiệm, vô tổ chức, v.v. Đây chính là cuộc đấu tranh cho cái tốt thắng cái xấu, đấu tranh cho phương hướng đúng, hành vi tốt ngày càng được nhân rộng và phát triển vì lợi ích của đất nước và nhân dân. Đó là minh chứng sinh động cho sự tự do báo chí ở Việt Nam.

Thế nhưng, một số tổ chức, cá nhân có thể không hiểu hoặc có biết nhưng do có dụng ý xấu lại xuyên tạc, bịa đặt. Họ nhân danh cái gọi là “dân chủ”, “nhân quyền” để cổ vũ cho thứ tự do báo chí không xây dựng trên nền tảng của sự trung thực và tôn trọng sự thật; một thứ “tự do báo chí” vô nguyên tắc, nằm ngoài khuôn khổ pháp luật. Họ đòi Việt Nam phải tổ chức, quản lý báo chí theo “mô hình báo chí phương Tây”, đòi “tư nhân hóa báo chí” để biến báo chí ở Việt Nam thành công cụ phục vụ mưu đồ của họ. Họ ra sức tung hô, cổ xúy, ca ngợi những kẻ mà họ gán cho những mỹ từ, như: “nhà báo tự do”, “nhà đấu tranh dân chủ”, “nhà bất đồng chính kiến” mà thực ra đó là những người vi phạm pháp luật, đã bị pháp luật Việt Nam xử lý.

Theo Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam, “quyền tự do ngôn luận” của mọi công dân là quyền được tự do có quan điểm và giữ vững quan điểm của mình, cũng như được tự do tìm kiếm và tiếp nhận, chia sẻ thông tin nhưng phải nằm trong giới hạn mà pháp luật quy định, phù hợp với các giá trị đạo đức, văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, không phải tùy tiện, vu khống, bôi nhọ, lừa bịp, xâm hại đến an ninh quốc gia, trật tự xã hội, quyền tự do của người khác. Cá nhân, tổ chức phải chịu trách nhiệm về các hành vi, ứng xử trên mạng xã hội; phối hợp với các cơ quan chức năng để xử lý hành vi, nội dung thông tin vi phạm pháp luật.

Pháp luật của Việt Nam “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”. Thực tế cuộc chiến chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam đã và đang diễn ra đúng như thế. Vì thế, những cá nhân “té nước theo mưa”, “theo đóm ăn tàn”, mờ mắt theo chân các thế lực thù địch, phản động để chống phá, đi ngược lại lợi ích của quốc gia, dân tộc chắc chắn sẽ bị xử lý theo quy định pháp luật hiện hành, trả giá đắt cho những hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tổ chức, cá nhân hay cao hơn nữa là tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, mỗi người dân Việt Nam cần nhận thức đúng đắn về quyền tự do ngôn luận, từ đó nêu cao ý thức trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội, đề cao cảnh giác, chủ động đấu tranh, phản bác, ngăn chặn các luận điệu sai trái, thông tin xấu độc và tích cực chia sẻ, lan tỏa các thông tin lành mạnh./.

ST.

Phản bác các quan điểm sai trái về nguyên tắc tập trung dân chủ

Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản để phân biệt chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân với các đảng chính trị khác. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”. Tuy nhiên, lợi dụng những hạn chế trong thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị,... tìm cách đả phá, kêu gọi Đảng ta từ bỏ nguyên tắc này, cổ súy tư tưởng đa nguyên, đa đảng.

Từ khi mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, phong trào cộng sản rơi vào thời kỳ khủng hoảng, suy thoái, đã xuất hiện nhiều ý kiến nghi ngờ, đòi xét lại về nguồn gốc, bản chất, nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ. Thậm chí họ còn quy kết rằng, nguyên tắc này là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của Đảng Cộng sản Liên Xô và các đảng cộng sản cầm quyền khác. Lợi dụng vấn đề đó, cùng những hạn chế, thiếu sót trong thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị,... đã công khai đưa ra những quan điểm sai trái và kêu gọi Đảng ta từ bỏ nguyên tắc này. Vì vậy, nhận diện và đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái đó để bảo vệ nền tảng tư tưởng, nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng vừa là yêu cầu khách quan, vừa là trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên; trong đó, tập trung vào các nhóm vấn đề sau: 

Một lànhóm quan điểm sai trái về sự ra đời và giá trị thời đại của nguyên tắc tập trung dân chủ. Với lý do thời C.Mác (1818 - 1883) và Ph.Ăngghen (1820 - 1895) chưa có tên gọi nguyên tắc tập trung dân chủ, nên theo họ nguyên tắc tập trung dân chủ không phải của chủ nghĩa Mác, mà do V.I.Lênin đặt ra (năm 1905) chỉ phù hợp ở thời kỳ Đảng hoạt động bí mật, khi chưa giành được chính quyền hoặc khi lãnh đạo chiến tranh cần có kỷ luật chặt chẽ, tập trung, thống nhất cao độ. Còn trong điều kiện hòa bình, khi Đảng cầm quyền, lãnh đạo xây dựng đất nước, đòi hỏi phải mở rộng dân chủ, phát huy tối đa sáng tạo của cá nhân thì nguyên tắc tập trung dân chủ đã lỗi thời, không còn phù hợp nữa.

Đây là sự suy luận hết sức lố bịch! Bởi, họ đã cố tình bỏ qua cơ sở lịch sử của nguyên tắc và thực chất chỉ là phụ họa cho luận điệu phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ, chia tách, đối lập chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Lênin, gây nghi ngờ giá trị, hiệu quả của nguyên tắc tập trung dân chủ. Đúng là C.Mác và Ph.Ăngghen chưa gọi nguyên tắc tổ chức của Đảng Cộng sản là tập trung dân chủ. Song, các tư liệu lịch sử cho thấy, mặc dù chưa gọi tên cụ thể nhưng tư tưởng xây dựng một đảng vô sản trên cơ sở những nội dung cốt lõi của nguyên tắc tập trung dân chủ đã được các ông thể hiện rõ trong Điều lệ Liên đoàn những người cộng sản từ năm 1847. Và được tiếp tục khẳng định trong tổ chức “Liên minh Công nhân quốc tế” (Quốc tế I) do chính C.Mác sáng lập vào năm 1864. Cụ thể, Điều lệ Liên đoàn quy định: tất cả hội viên của Liên đoàn đều bình đẳng; cơ quan lãnh đạo các cấp của Liên đoàn từ chi bộ đến Đại hội Liên đoàn do bầu cử lập ra. “Các ủy viên ban chấp hành khu bộ và Ban chấp hành trung ương được bầu hằng năm, có quyền được bầu lại và có thể bị những người bầu ra mình bãi miễn bất cứ lúc nào”. Điều lệ cũng quy định, Liên đoàn là một tổ chức theo chế độ tập trung rất chặt chẽ, như: Liên đoàn chỉ có một hệ thống tổ chức thống nhất; Đại hội Liên đoàn hằng năm là cơ cấu tổ chức có vị trí, quyền lực cao nhất của Liên đoàn. Điều 5 của Điều lệ Liên đoàn do chính C.Mác và Ph.Ăngghen trực tiếp tham gia soạn thảo quy định: “Về cơ cấu, Liên đoàn gồm chi bộ, khu bộ, tổng khu bộ, Ban Chấp hành trung ương và Đại hội”. Đại hội có quyền lực lập pháp đối với toàn Liên đoàn; các khu bộ của một nước hoặc một tỉnh phải phục tùng một tổng khu bộ; các tổng khu bộ phải báo cáo công tác với cơ quan quyền lực tối cao là Đại hội, còn giữa các kỳ đại hội thì báo cáo với Ban Chấp hành trung ương. Hội viên của Liên đoàn phải phục tùng các nghị quyết của Liên đoàn; “không tham gia vào mọi tổ chức - tổ chức chính trị hoặc tổ chức dân tộc - chống cộng sản”. Đến năm 1885, khi nói về cách tổ chức của Liên đoàn, Ph.Ăngghen khẳng định: “Bản thân tổ chức cũng hoàn toàn dân chủ, với những người lãnh đạo được bầu ra và luôn luôn có thể bị bãi miễn”. Như vậy, với những quy định nêu trên cho thấy, cách tổ chức “hoàn toàn dân chủ” mà Ph.Ăngghen nói tới chính là nguyên tắc tập trung dân chủ. Thực tế đó còn chứng tỏ: đối với C.Mác và Ph.Ăngghen, nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ là tư tưởng mà đã được vận dụng vào thực tiễn tổ chức, hoạt động của chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân.

V.I.Lênin không chỉ kế thừa, phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về nguyên tắc tập trung dân chủ, đặt tên cho nguyên tắc này mà còn vận dụng mẫu mực, sáng tạo về cách thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong thực tiễn cách mạng. Theo V.I.Lênin: “chế độ tập trung dân chủ, một mặt, thật khác xa chế độ tập trung quan liêu chủ nghĩa, và mặt khác, thật khác xa chủ nghĩa vô chính phủ”5 và “không có gì sai lầm bằng việc lẫn lộn chế độ tập trung dân chủ với chủ nghĩa quan liêu và với lối rập khuôn máy móc”6. Từ thực tiễn phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và xây dựng Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga, tại Đại hội Đảng năm 1906, V.I.Lênin đề xuất và được Đại hội nhất trí đưa vào Điều lệ nguyên tắc “tập trung dân chủ”. Sự thực trên là cơ sở khoa học khẳng định: chính C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đặt nền móng cho nguyên tắc tập trung dân chủ từ năm 1847 và V.I.Lênin là người kế thừa, bổ sung và phát triển.

Là đội tiền phong của giai cấp công nhân, Đảng Cộng sản phải có tổ chức chặt chẽ, tập trung, thống nhất, không thể là một tổ chức lỏng lẻo, vô chính phủ; là liên minh tự nguyện của những người cùng chung chí hướng đấu tranh để xây dựng chủ nghĩa xã hội - một xã hội giương cao ngọn cờ độc lập, tự do, dân chủ, công bằng và bảo vệ phẩm giá con người; Đảng Cộng sản phải có tổ chức dân chủ mới phù hợp với bản chất và mục đích đó. Bởi vậy, nguyên tắc tập trung dân chủ nằm ngay trong bản chất của Đảng Cộng sản, nên dù trong điều kiện, hoàn cảnh nào, lúc đấu tranh giành chính quyền hay khi xây dựng đất nước, Đảng Cộng sản cũng phải được tổ chức và hoạt động theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, chỉ khác ở phương pháp thực hiện nội dung và phạm vi áp dụng do tình hình, nhiệm vụ cụ thể của Đảng trong mỗi thời kỳ, xa rời nguyên tắc này là xa rời bản chất của Đảng dẫn đến tan rã Đảng. Do đó, không thể nói nguyên tắc tập trung dân chủ đã “lỗi thời”, không còn giá trị. 

Hai là, nhóm quan điểm sai trái về bản chất, nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ. Họ cho rằng tập trung và dân chủ là hai mặt đối lập, giống như lửa với nước, là hai khái niệm “không thể dung hòa”, không thể kết hợp, do đó không thể có nguyên tắc tập trung dân chủ. Cũng theo họ, nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa và Đảng Cộng sản ở Liên Xô và các nước Đông Âu bị mất quyền lãnh đạo xã hội là do thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ quá lâu và họ “khuyên” Đảng ta từ bỏ nguyên tắc này “càng sớm, càng tốt”; đồng thời, họ kêu gọi bỏ “chế độ thiểu số phục tùng đa số” thì mới thực sự có “dân chủ”, “sáng tạo”, v.v.

Cần khẳng định rõ: đây là luận điệu nhằm tầm thường hóa nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng với mưu đồ phá hoại hòng làm cho Đảng ta từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc chia cắt nguyên tắc vốn thống nhất, hoặc đem dân chủ đối lập với tập trung là không hiểu đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Với cách lập luận sai trái này, họ đã không hiểu bản chất, hoặc cố tình lừa dối người khác để hạ bệ nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự thống nhất biện chứng giữa hai thành tố tập trung và dân chủ. Tập trung trên cơ sở dân chủ, dân chủ có sự lãnh đạo được sự bảo đảm của tập trung. Có giữ vững tập trung mới có thể phát huy, mở rộng được dân chủ và bảo đảm dân chủ thực chất. Phát triển dân chủ luôn gắn liền với giữ vững và tăng cường tập trung, trên cơ sở đó, dân chủ càng phát triển thì tập trung càng vững chắc. Dân chủ chỉ đối lập với tình trạng độc đoán, chuyên quyền chứ không đối lập với tập trung; tập trung chỉ đối lập với tình trạng tản mạn, tự do, tùy tiện, vô tổ chức, vô kỷ luật chứ không đối lập với dân chủ. Tập trung trên cơ sở dân chủ hoàn toàn khác với tập trung quan liêu. Dân chủ có sự bảo đảm của tập trung cũng hoàn toàn khác về bản chất với dân chủ hình thức, dân chủ vô chính phủ.

Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc nền tảng để xây dựng Đảng thành một tổ chức chiến đấu chặt chẽ, vừa phát huy sức mạnh của mỗi cá nhân, vừa tạo nên sức mạnh tổng hợp của tổ chức. Đây là nguyên tắc chỉ đạo toàn bộ, xuyên suốt quá trình xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động lãnh đạo của Đảng; quy định cơ cấu, hình thức tổ chức, phương thức, chế độ thiết lập các cơ quan lãnh đạo của Đảng; xác lập các quy tắc giải quyết các mối quan hệ trong nội bộ Đảng và cũng là nguyên tắc giữ vai trò chi phối các nguyên tắc khác của Đảng. Nó làm cho Đảng được xây dựng thành một đội ngũ có kỷ luật chặt chẽ, có sức chiến đấu cao, phát huy được tính chủ động, năng động và sáng tạo của cán bộ, đảng viên; bảo đảm cho Đảng luôn là một tổ chức lãnh đạo, một tổ chức chiến đấu mà không phải là một câu lạc bộ.

Sức mạnh của Đảng là sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; sự thống nhất đó chỉ có thể giữ vững và biến thành sức mạnh vật chất khi được bảo đảm bằng sự thống nhất về mặt tổ chức thông qua thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Tập trung dân chủ là cơ sở bảo đảm cho Đảng thực sự là một tổ chức chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất từ Trung ương tới cơ sở. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ vừa phát huy được tính chủ động, sáng tạo, trách nhiệm cao của mỗi cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng, vừa tập trung được trí tuệ và sức mạnh vật chất của toàn Đảng, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người.

Ba lànhóm quy kết tình trạng vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ là “lỗi từ gốc” do độc đảng; Việt Nam muốn dân chủ, tiến bộ thì “phải chấm dứt sự độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản”, từ đó cổ súy tư tưởng đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Đây là âm mưu hết sức thâm độc nằm trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa; kêu gọi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Thực tiễn cho thấy: dân chủ ở một quốc gia không phụ thuộc vào việc ở đó có một hay nhiều đảng mà phụ thuộc vào bản chất chính của đảng cầm quyền và mức độ dân chủ không tỷ lệ thuận với sự gia tăng của số lượng các đảng chính trị. Chẳng hạn, Ácmênia có khoảng 40 đảng, Hà Lan có 25 đảng, Na Uy có 23 đảng,... nhưng không thể kết luận Ácmênia dân chủ hơn Hà Lan, Na Uy. Hiện nay, trên thế giới có khoảng hơn 30 quốc gia theo chế độ một đảng, như: Ăngtigoa, Ảrập Xêút, Baren, Bênanh, Bôxnia, Cuba, Cômô, Gana, Bờ Biển Ngà, Lào, Libi, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Mông Cổ, Namibia, Ruanđa, Xômali, Tôgô, Tôbagô,... và Việt Nam. Hơn nữa, ngay trong chủ nghĩa tư bản, có thời kỳ một số quốc gia và vùng lãnh thổ theo chế độ một đảng duy nhất cầm quyền vẫn bảo đảm dân chủ và phát triển mạnh mẽ. Ví dụ: cho đến cuối những năm 1980, Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan,... vẫn theo chế độ một đảng duy nhất cầm quyền, nhưng vẫn vươn lên phát triển mạnh mẽ. Điều này cho thấy hai vấn đề: (1). Chế độ chính trị do một đảng cầm quyền không phải là đặc điểm chỉ có ở các nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo; (2). Không phải các nước theo chế độ một đảng không bảo đảm dân chủ.

Trong điều kiện ở Việt Nam, một đảng lãnh đạo, đó là đảng của giai cấp công nhân, lấy lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc làm mục tiêu xuyên suốt và luôn xây dựng, chỉnh đốn để đảng thực sự trong sạch, vững mạnh thì tính chất dân chủ, tiến bộ phụ thuộc vào bản chất, mục đích phục vụ chứ không phụ thuộc số lượng bao nhiêu đảng. Năm 2010, đồng chí Nguyễn Phú Trọng (khi đó là Chủ tịch Quốc hội) đã trả lời phỏng vấn báo chí quốc tế rằng: “Không phải có nhiều đảng thì dân chủ hơn, ít đảng thì ít dân chủ hơn, mỗi nước có hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau, điều quan trọng là xã hội có phát triển không, nhân dân có được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc không và đất nước có ổn định để ngày càng phát triển đi lên hay không? Đó là tiêu chí quan trọng nhất”.

Từ những luận giải trên, có thể khẳng định: nguyên tắc tập trung dân chủ đến nay vẫn còn nguyên giá trị, không “lỗi thời”, các đảng cộng sản và mỗi đảng viên cộng sản không được phép xa rời, từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ. Đây là vấn đề sống còn của Đảng. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu, quán triệt, cụ thể hóa thực hiện nghiêm nguyên tắc này trong tổ chức và hoạt động của Đảng, làm cơ sở để đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch./.

ST.

CÙNG ĐỌC VÀ SUY NGẪM: GIỮ PHẨM CHẤT BỘ ĐỘI CỤ HỒ SAU KHI NGHỈ HƯU!

         Nhận diện những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII chỉ rõ: “Sa sút ý chí phấn đấu...”; “Cơ hội, vụ lợi, chỉ lo vun vén cá nhân...”; “Mê tín dị đoan”; “Cấu kết với doanh nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi”... Soi chiếu vào hành vi, việc làm thiếu chuẩn mực của một số ít cán bộ Quân đội sau khi nghỉ hưu, chúng tôi thấy cần thiết phải lên tiếng góp ý, đấu tranh, nhằm khắc phục những biểu hiện “lệch chuẩn”, góp phần giữ vững phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ trước những cám dỗ, cạm bẫy...

Xin kể một chuyện...
Tôi lên mạng tìm kiếm thông tin chữa bệnh khớp theo phương pháp y học cổ truyền cho người thân. Ngay sau đó, trang Facebook cá nhân xuất hiện nhan nhản thông tin quảng cáo liên quan đến nội dung này. Tôi tương tác vào tài khoản của một sĩ quan Quân đội nghỉ hưu. Chủ tài khoản giới thiệu, bản thân từng là bộ đội tham gia chiến đấu trên chiến trường K, bị bệnh khớp âm ỉ lâu năm, đau nhức, rất khổ sở.

Mặc dù đã đi điều trị tại các bệnh viện uy tín trong và ngoài Quân đội nhưng không khỏi. Chỉ đến khi được người quen mách cho một bài thuốc Đông y, kiên trì điều trị sau 3 tháng thì bệnh khỏi hẳn. Vì muốn giúp ích cho đời nên anh sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm cho những ai đang bị bệnh khớp hành hạ. Chủ tài khoản nhấn mạnh rằng, việc này hoàn toàn là “làm phúc”, không đòi hỏi bất cứ điều gì từ người bệnh...

Nhìn thấy hình ảnh chủ tài khoản là cựu chiến binh (CCB), quân phục chỉnh tề, quân dung tươi tỉnh, kèm những lời thoạt đọc có vẻ rất chân tình, nhiều người đã vào tài khoản này tương tác. Tôi được chủ tài khoản cung cấp số điện thoại. Khi gọi nói chuyện, anh thể hiện thái độ rất niềm nở, hỏi thăm sức khỏe bản thân, gia đình tôi, tâm sự về đời binh nghiệp rồi dẫn dắt vào câu chuyện bị bệnh khớp do phải “ăn bờ, ngủ bụi” trên chiến trường nhiều năm.

“Đời binh nghiệp của anh em mình khổ lắm em ạ! Lăn lộn trên thao trường mưa nắng, ai rồi về già cũng bị thấp khớp cả thôi. Mắc bệnh rồi thì chữa. Chưa mắc bệnh thì phòng ngừa. Bài thuốc này tốt lắm. Có tốn kém ban đầu một chút còn đỡ gấp trăm lần bệnh diễn biến nặng phải đi bệnh viện”, anh nói và đề nghị tôi cung cấp thông tin cá nhân, địa chỉ để gửi thuốc đến tận nơi. Liên tục những ngày sau đó, tôi nhận được điện thoại của một người phụ nữ, xưng là nhân viên chăm sóc khách hàng của một cơ sở y học cổ truyền tại miền Trung. Người này nói, đã nhận được hồ sơ đăng ký chữa bệnh của tôi, do bác “X”, là thượng tá Quân đội nghỉ hưu chuyển đến. Một liệu trình điều trị 3 tháng, hết 10 triệu đồng. Người này đề nghị tôi chuyển tiền cọc và cam kết sẽ gửi thuốc đến đúng địa chỉ, chữa khỏi bệnh.

“Anh là bộ đội, cứ kiểm chứng thông tin qua bác “X” là rõ. Bên em bảo đảm uy tín, không làm ăn nhập nhèm đâu”, người này nhấn giọng.

Đến đây thì tôi đã rõ! Thượng tá CCB nọ đã sắm vai “chim mồi” để dụ khách hàng là bệnh nhân trên mạng xã hội, sau đó cung cấp thông tin cho “cơ sở chữa bệnh”. Tôi liên lạc lại, khuyên anh không nên lấy hình ảnh, danh dự của một CCB ra cho người ta lợi dụng mồi chài làm ăn. Chẳng biết khi “dụ” được một “con mồi”, anh được chia phần trăm bao nhiêu, nhưng cái kiểu chữa bệnh mà không cần khám, không cần gặp bệnh nhân, chỉ liên lạc qua mạng xã hội rồi gửi thuốc cho bệnh nhân uống thì đủ biết, chất lượng của cái gọi là “cơ sở Đông y” đó như thế nào? Cái đánh mất không chỉ là tiền và sức khỏe của các bệnh nhân bị “dụ”, mà quan trọng nhất là hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ trong trường hợp này đã bị ảnh hưởng rất xấu.

Vì tin vào bộ quân phục anh mặc, tin vào quân hàm anh mang, tin một sĩ quan Quân đội đã trải qua chiến trường... nên nhiều bệnh nhân mới làm theo. Đến khi “tiền mất tật mang”, khó tránh khỏi việc người ta quay lại chửi anh, xúc phạm nhân phẩm Bộ đội Cụ Hồ, anh thấy thế nào? Nghe tôi khuyên, anh im lặng. Sau đó, trên nền tảng Facebook, tôi không thấy tài khoản mang tên anh xuất hiện nữa.

Khi danh nghĩa Bộ đội Cụ Hồ bị lợi dụng
Trên đây là một ví dụ cụ thể trong rất nhiều kiểu hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ sau khi nghỉ hưu bị không ít tổ chức, cá nhân lợi dụng nhằm trục lợi, xuất hiện nhan nhản trên không gian mạng hiện nay. Phổ biến là lấy danh nghĩa bộ đội để mồi chài chữa bệnh, bán hàng, cung cấp dịch vụ dưỡng sinh, chăm sóc sức khỏe người cao tuổi... Thậm chí, có một số trường hợp núp bóng các hình thức dưỡng sinh để truyền đạo trái phép.

Trên mạng xã hội đang lan truyền clip cổ xúy phương pháp chữa bệnh ung thư theo "đạo pháp" của một số sĩ quan cao cấp nghỉ hưu, với những phát ngôn thiếu chuẩn mực. Không chỉ có CCB xuất hiện với danh nghĩa bệnh nhân, trong các nội dung liên quan đến sức khỏe, còn có những clip lan truyền hình ảnh của những “bác sĩ quân y”, kèm thông tin cá nhân cụ thể.

Điều đáng bàn là phát ngôn của những “bác sĩ quân y” này rất phản khoa học. Mới đây, trên nền tảng TikTok lan truyền clip của một người xưng là “sĩ quan cao cấp, bác sĩ quân y” nghỉ hưu, ca ngợi hết lời một phương pháp chữa bệnh bằng phương thức tín ngưỡng. Người này nói rằng, cả một đời đi làm thầy thuốc, chỉ đến khi gặp được phương pháp này mới tìm thấy “chân ái cuộc đời”. Từ việc ca ngợi hết lời một hình thức tín ngưỡng, “bác sĩ quân y” này đã phủ nhận, xổ toẹt cả nền y học hiện đại mà anh vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của chính môi trường ấy.

Những biểu hiện tương tự xuất hiện trên các nền tảng mạng xã hội khiến nhiều CCB bức xúc, phản ánh về Báo Quân đội nhân dân, đề nghị tòa soạn lên tiếng góp ý, đấu tranh chấn chỉnh, khắc phục. Rõ ràng, việc lấy hình ảnh, danh nghĩa Bộ đội Cụ Hồ như một kiểu bình phong để quảng bá các hình thức, sản phẩm nhằm trục lợi đã gây nhiễu thông tin, ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Điểm chung dễ nhận thấy là những cá nhân CCB bị lợi dụng, khi xuất hiện trong các bức ảnh, clip nêu trên thường mặc quân phục chỉnh tề, một số người còn đeo cả huân, huy chương. Theo dõi một cách có hệ thống những hiện tượng này, không khó để nhận ra hình ảnh, lời nói của những CCB đó chính là sản phẩm được dàn dựng tinh vi, bài bản, rất có ý đồ của các tổ chức, cá nhân, nhằm lèo lái, dẫn dụ để tạo dựng lòng tin từ công chúng.

Từ những biểu hiện trục lợi về tiền bạc, một số trường hợp sẽ bị dẫn dụ, mua chuộc, phát ngôn phục vụ cho ý đồ tuyên truyền mang sắc màu tôn giáo, chính trị, trái quan điểm của Đảng. Nó để lại những hệ quả khó lường đối với môi trường văn hóa, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng.

Cùng với các biểu hiện lợi dụng hình ảnh, danh nghĩa Bộ đội Cụ Hồ, thời gian gần đây, trên các nền tảng mạng xã hội, phổ biến nhất là Facebook, YouTube..., còn diễn ra tình trạng nhiều tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ thẩm mỹ, chăm sóc sức khỏe mạo danh các bệnh viện, bác sĩ Quân đội để trục lợi. Hiện tượng này xuất hiện nhan nhản như một “mê hồn trận”, gây nhiễu loạn thông tin. Hậu quả là người dân, bệnh nhân nhẹ dạ cả tin lãnh đủ.

Tại sao hình ảnh, danh nghĩa Bộ đội Cụ Hồ sau khi nghỉ hưu lại bị lợi dụng? Ai cũng biết rõ, xưa nay trong đời sống xã hội, trong lòng nhân dân, Bộ đội Cụ Hồ là một danh xưng mang giá trị di sản văn hóa phi vật thể. Bộ đội là niềm tin, là chỗ dựa, là niềm tự hào của nhân dân.

Chính vì vậy, nhiều tổ chức, cá nhân trong chiến lược xây dựng, phát triển thương hiệu sản xuất, kinh doanh, rất muốn hợp tác, liên kết với các doanh nghiệp Quân đội, CCB có tên tuổi, uy tín, như một cách để tạo dựng lòng tin, xây dựng thương hiệu trên thương trường. Những đối tượng có tư tưởng trục lợi, các thành phần bất mãn, cực đoan chính trị cũng bám vào đặc điểm này để dụ dỗ, lôi kéo, thậm chí mua chuộc một số CCB để phục vụ ý đồ riêng. Họ có sẵn kịch bản để thực hiện một cách tinh vi, khiến không ít người khi đã rơi vào vòng xoáy này rất khó cưỡng.

Khi danh nghĩa Bộ đội Cụ Hồ bị lợi dụng để thực hiện các hành vi trái đạo đức xã hội, vi phạm pháp luật, hậu quả để lại rất khó lường. Dễ thấy nhất là nó làm méo mó, hoen ố hình ảnh, phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, gây xói mòn lòng tin của nhân dân, tổn hại đến nền tảng tư tưởng của Đảng. Chính vì vậy, việc nhận diện để đấu tranh phê bình là vô cùng cần thiết.

Vài dòng viết thêm
Thực lòng khi ngồi trước máy tính viết bài này, chúng tôi rất cân nhắc, đắn đo. Các cán bộ Quân đội nghỉ hưu là đồng đội thế hệ đàn anh của chúng tôi. Đại đa số các bác, các chú, các anh đều là những tấm gương sáng, là điểm tựa tinh thần cho thế hệ Bộ đội Cụ Hồ đang tại ngũ học tập, noi theo. Hoàn toàn trong thâm tâm, chúng tôi không có ý định “lên lớp”, “dạy đời”, “trứng khôn hơn vịt”...

Những trường hợp như đã nêu trên chỉ là thiểu số. Tuy nhiên, trong không gian mạng, những hiện tượng tiêu cực, chưa tốt, chưa đẹp và không nên có như đã nêu trên chả khác gì vết dầu loang, là “con sâu làm rầu nồi canh”.

Nếu không kịp thời góp ý, đấu tranh phê bình, để nó tái diễn, phát triển, sẽ rất nguy hại, ảnh hưởng xấu đến hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ mà các thế hệ ông, cha, anh và lớp trẻ hôm nay trong quân ngũ đã dày công vun đắp bằng xương máu, mồ hôi, trí tuệ, tâm hồn... suốt gần 80 năm qua. Trong các nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận... Đảng ta đã cảnh báo, chỉ rõ những hành vi sai trái nêu trên là biểu hiện của suy thoái đạo đức, lối sống, tư tưởng chính trị, là mầm mống của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, cần phải đấu tranh thẳng thắn để chấn chỉnh, phòng ngừa.

Hầu hết cán bộ Quân đội nghỉ hưu đều tham gia sinh hoạt, hoạt động ở chi bộ, hội CCB địa phương. Chính vì vậy, hội CCB các cấp, tổ chức đảng nơi đảng viên CCB sinh hoạt, cần nêu cao hơn nữa vai trò, trách nhiệm quản lý hoạt động của hội viên, đảng viên; kịp thời phát hiện, góp ý phê bình, đấu tranh trên tinh thần xây dựng, trên tình đồng chí, đồng đội để phòng ngừa hiệu quả ngay từ gốc.

Còn với những CCB, nếu ai đó đã, đang rơi vào những biểu hiện sai trái này, nên bình tâm suy xét mọi nhẽ để có suy nghĩ và hành động đúng đắn, chuẩn mực. Xin trích lời phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Phiên họp của Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2026 triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội khóa XV về phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025, diễn ra tại Hà Nội ngày 11-8-2021 để khép lại bài này: “Tiền bạc lắm làm gì, chết có mang theo được đâu. Danh dự mới là điều thiêng liêng, cao quý nhất!”./.


Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: XÂY DỰNG TIỀN LƯƠNG TẠO ĐỘNG LỰC ĐỂ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC PHẤN ĐẤU!

     Bộ Nội vụ đang nỗ lực đến tháng 10-2024 hoàn thành nghiên cứu đề xuất sửa đổi Luật Cán bộ, công chức; Luật Viên chức, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Chính quyền địa phương. Trong đó, nội dung tiền lương phải đánh giá đúng, công bằng, tạo động lực để cán bộ, công chức phấn đấu!

Trao đổi với báo chí, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà cho biết, cùng với xây dựng thể chế, Bộ Nội vụ sẽ hoàn thiện các chính sách để thu hút và trọng dụng người có tài năng, tiếp tục đổi mới chế độ công vụ, công chức. Theo đó, sẽ đưa ra những tiêu chí, tiêu chuẩn, quy định cụ thể, cơ cấu, tỷ lệ phù hợp để các bộ, ngành, địa phương có căn cứ thực hiện việc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức và nghiên cứu việc xét nâng ngạch công chức.

Nhấn mạnh quan điểm về chính sách tiền lương, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà cho rằng, phải đánh giá đúng, công bằng, đồng thời tạo động lực để cán bộ, công chức phấn đấu.

"Trong đó có người phấn đấu đi theo hướng chuyên gia cao cấp, một nhánh nữa nếu đủ năng lực, điều kiện sẽ quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, bổ nhiệm các chức danh, chức vụ lãnh đạo. Chúng ta phải phân luồng như thế chứ không thể để tất cả đều hướng tới mục tiêu có chức danh, chức vụ lãnh đạo, mà phải tính đến phát triển đội ngũ công chức theo hướng chuyên nghiệp và xây dựng đội ngũ chuyên gia cao cấp. Tiền lương của những chuyên gia cao cấp sẽ tương đương với lương của Bộ trưởng, Thứ trưởng, như vậy mới khuyến khích được đội ngũ chuyên gia. Chúng tôi sẽ xây dựng cơ chế thuê chuyên gia cao cấp, thu hút và trọng dụng nhân tài", Bộ trưởng Bộ Nội vụ nói.

Cũng theo Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà, Bộ Nội vụ đặc biệt vừa tập trung tham mưu, tổ chức thực hiện các chủ trương lớn của Đảng trên lĩnh vực ngành, vừa giải quyết những vấn đề phát sinh từ thực tiễn bảo đảm yêu cầu, mục tiêu, nhiệm vụ trước mắt và chiến lược lâu dài.

Theo Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà, theo phương án cải cách tiền lương, từ ngày 1-7 tới đây, dự kiến tiền lương bình quân chung của cán bộ, công chức, viên chức sẽ được tăng khoảng 30% (tính cả lương cơ bản và phụ cấp). Từ năm 2025, mức lương này sẽ tiếp tục được điều chỉnh tăng thêm bình quân hằng năm khoảng 7%/năm.

Chế độ tiền lương mới còn sắp xếp lại nhóm ngạch và số bậc trong các ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức, khuyến khích công chức, viên chức nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ (khuyến khích phát triển chuyên môn nghiệp vụ và chuyên gia). Việc bổ nhiệm vào ngạch công chức hoặc chức danh nghề nghiệp viên chức gắn với vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức, cơ cấu chức danh nghề nghiệp viên chức do cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý công chức, viên chức thực hiện.

Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà thông tin, Bộ Nội vụ đã phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương (cơ quan chủ trì tham mưu xây dựng vị trí việc làm trong hệ thống chính trị), các bộ, ngành, địa phương kịp thời hướng dẫn, điều chỉnh các chính sách liên quan, cố gắng hoàn thành trước ngày 31-3 để kịp thời xây dựng phương án trả lương và áp dụng chính sách tiền lương mới từ ngày 1-7./.
Môi trường ST.

Vạch trần thủ đoạn cắt rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin

Cắt rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác  Lênin là thủ đoạn chống phá tinh vi, rất thâm hiểm của các thế lực thù địch, nhằm phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng. Vì vậy, chúng ta phải luôn nêu cao cảnh giác, tích cực đấu tranh vạch trần sự sai trái của thủ đoạn này.

Xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là mục tiêu xuyên suốt mà các thế lực thù địch ra sức thực hiện đối với cách mạng nước ta, nhằm làm biến chất Đảng ta, tiến tới xóa bỏ sự hiện diện và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội.

Để đạt được mục tiêu đó, một trong những thủ đoạn thâm độc mà họ thực hiện là cắt rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác  Lênin, bằng nhiều lý lẽ ngụy biện rất tinh vi, xảo quyệt. Một mặt, họ viện dẫn thực tiễn sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới vào cuối thế kỷ trước để tuyên bố: “Chủ nghĩa Mác  Lênin đã hết thời, cho nên không cần nhắc đến chủ nghĩa Mác  Lênin khi nói đến nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam”(!). Mặt khác, họ đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác  Lênin, khi cho rằng: “Hồ Chí Minh theo chủ nghĩa dân tộc, nên tư tưởng Hồ Chí Minh không có mối liên hệ gì với chủ nghĩa Mác  Lênin”(!). Tinh vi, khôn khéo hơn, họ không ra mặt bác bỏ chủ nghĩa Mác  Lênin, nhưng ngụy biện rằng: “Trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã có tinh thần chủ nghĩa Mác  Lênin, nên trong nội hàm nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ cần nêu tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ”(!).

Cần khẳng định ngay rằng, các quan điểm nói trên rất nguy hiểm, dễ làm cho những người ít nghiên cứu lý luận chính trị ngộ nhận, cả tin, không hiểu thực chất đằng sau sự “tán dương tư tưởng Hồ Chí Minh” lại là âm mưu phủ nhận cả chủ nghĩa Mác  Lênin và cả tư tưởng Hồ Chí Minh, tiến tới phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh có thể thấy rõ những quan điểm nói trên là hoàn toàn sai trái, cần vạch trần, bác bỏ.

Trước hết, tư tưởng Hồ Chí Minh có nguồn gốc lý luận chủ yếu từ chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính chủ nghĩa Mác  Lênin đã cung cấp cho Hồ Chí Minh thế giới quan, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để hình thành hệ thống quan điểm phong phú, toàn diện của Người về cách mạng Việt Nam. Nhìn lại quá trình đi tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh có thể thấy, khởi đầu với hành trang là lòng yêu nước và khát vọng giành độc lập cho dân tộc, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh vừa lao động, học tập và nghiên cứu lý luận, vừa trực tiếp tham gia các phong trào đấu tranh chính trị của giai cấp công nhân và lao động ở nhiều nước để trau dồi kiến thức và xác lập tư tưởng chính trị. Trong quá trình đó, Người đã gặp chủ nghĩa Mác  Lênin và tìm thấy ở đây cái “cẩm nang thần kỳ” soi sáng con đường cách mạng Việt Nam. Từ đó, Người đứng hẳn về Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản) và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp vào cuối năm 1920, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, đánh dấu bước ngoặt quyết định trong hình thành tư tưởng chính trị của mình. Để chuẩn bị cho quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 1927, Người viết tác phẩm “Đường kách mệnh”, trong đó khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Trong bài: “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến nguồn gốc lý luận tư tưởng của mình là chủ nghĩa Mác  Lênin. Người khẳng định: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác  Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Những dữ liệu đó cho thấy, không thể nói tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là tư tưởng dân tộc, không thể đặt tư tưởng Hồ Chí Minh ra ngoài hệ tư tưởng Mác  Lênin. Nói cách khác, không thể tách tư tưởng Hồ Chí Minh ra khỏi nguồn gốc, nền tảng lý luận của nó là chủ nghĩa Mác  Lênin.

Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Tại Đại hội XI, Đảng ta đã khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác  Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta”. Có thể thấy rất rõ, toàn bộ hệ thống quan điểm phong phú, toàn diện của Người về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, đều là kết quả sự vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác  Lênin vào điều kiện thực tiễn nước ta. Chính trên cơ sở nắm vững và quán triệt sâu sắc bản chất cốt lõi những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác  Lênin, Hồ Chí Minh đã vận dụng phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để tự tìm ra những chủ trương, giải pháp, đối sách phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, từng thời kỳ cụ thể của cách mạng Việt Nam; để hình thành nên hệ thống quan điểm phong phú, toàn diện về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Người không đi tìm những kết luận có sẵn trong sách vở kinh điển của chủ nghĩa Mác  Lênin, mà tiếp thu lý luận Mác  Lênin theo phương pháp nhận thức mác xít; đồng thời, theo lối “đắc ý, vong ngôn”, tức là cốt nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất của chủ nghĩa Mác  Lênin, chứ không tự trói buộc trong cái vỏ ngôn từ; trên cơ sở đó vận dụng vào hoàn cảnh thực tế của Việt Nam, hình thành nên những quan điểm cơ bản về mục tiêu, lực lượng, động lực, phương pháp cách mạng,… của cách mạng Việt Nam. Điều đó hoàn toàn đúng với bản chất của chủ nghĩa Mác  Lênin và lời căn dặn hậu thế của các nhà sáng lập học thuyết này rằng: học thuyết của họ không phải là một cái gì đã “xong xuôi hẳn” và “nhất thành bất biến”, mà là một “hệ thống mở”. Hiểu rõ tinh thần đó, Hồ Chí Minh luôn tự mình quán triệt, thực hiện và yêu cầu: “Học tập chủ nghĩa Mác – Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác  Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta”; là “học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác  Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”. Chính trên tinh thần đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam dần được hoàn bị, phản ánh sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác  Lênin vào điều kiện thực tiễn Việt Nam. Do vậy, không thể tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác  Lênin.

Thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần bổ sung, làm phong phú và tăng thêm sức sống cho chủ nghĩa Mác – Lênin; do vậy, là dòng chảy tiếp nối chủ nghĩa Mác – Lênin. Nghiên cứu nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam có thể thấy rất rõ Hồ Chí Minh không giáo điều khi tiếp thu lý luận Mác  Lênin, bởi theo Người: “Chủ nghĩa Mác  Lênin là kim chỉ nam cho hành động, chứ không phải là kinh thánh”7. Đứng vững trên lập trường, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác  Lênin, phân tích đặc điểm của thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện ở xã hội Việt Nam và các nước phương Đông có những đặc điểm khác với các nước phương Tây mà thời C. Mác chưa có điều kiện nghiên cứu. Từ đó, Người đã nêu nhiều luận điểm sáng tạo về con đường cách mạng Việt Nam, như: luận điểm về mục tiêu của cách mạng Việt Nam phải là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; luận điểm về quy luật ra đời và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là sự kết hợp chủ nghĩa Mác  Lênin với phong trào công nhân, mà còn kết hợp với phong trào yêu nước. Theo đó, cơ sở xã hội của Đảng không chỉ là giai cấp công nhân, mà còn là toàn thể nhân dân lao động; Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là Đảng của giai cấp công nhân, mà đồng thời còn là của nhân dân lao động và toàn dân tộc. Đó còn là luận điểm về giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp

ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, mà theo đó, trong hoàn cảnh mất nước thì quyền lợi dân tộc được đặt lên trên quyền lợi giai cấp; giải phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp, tạo điều kiện thuận lợi để giải phóng giai cấp. Vấn đề dân tộc và thuộc địa cũng là phần đóng góp rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào chủ nghĩa Mác  Lênin. Người đã nêu luận điểm về vai trò chủ động của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, theo đó cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể thành công trước cách mạng vô sản ở “chính quốc”, góp phần thúc đẩy cách mạng vô sản ở “chính quốc”. Những đóng góp quan trọng nói trên của Hồ Chí Minh, một mặt, thể hiện sự trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác  Lênin; mặt khác, góp phần làm phong phú, giàu thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác  Lênin; qua đó, tăng thêm sức sống cho học thuyết này. Chính vì thế, tư tưởng Hồ Chí Minh là dòng chảy tiếp nối chủ nghĩa Mác  Lênin trong dòng chảy văn hóa của nhân loại; không tách rời và không đối lập với chủ nghĩa Mác  Lênin như một số người xuyên tạc.

Từ những phân tích trên, khẳng định rằng: cả tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác  Lênin đều nằm trong nội hàm nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đòi hỏi vừa phải: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác  Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”, vừa phải kiên quyết đấu tranh chống lại mọi mưu toan cô lập, tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác  Lênin. Đó là nhiệm vụ vừa cơ bản, lâu dài, vừa cấp thiết trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay./.

ST.