Từ việc phủ nhận những chủ trương, chính sách về phát triển Thủ đô và đổ lỗi cho hệ thống chính trị, chỉ trích đội ngũ cán bộ của TP Hà Nội, các thành phần chống phá thỏa sức đưa ra những “kế sách bẩn” với nhiều thủ đoạn hòng mị dân, lôi kéo, kích động dư luận và gây bất ổn xã hội!
Chủ Nhật, 3 tháng 3, 2024
BÁNH VẼ VÀ GIẤC MỘNG PHÙ DU!
MƯỢN DANH “YÊU HÀ NỘI” ĐỂ NÉM ĐÁ GIẤU TAY!
MƯỢN DANH “YÊU HÀ NỘI” ĐỂ NÉM ĐÁ GIẤU TAY!
QUY CHỤP HIỆN TƯỢNG THÀNH BẢN CHẤT!
BÁNH VẼ VÀ GIẤC MỘNG PHÙ DU!
TRÁNH XA NHỮNG KẺ ĐẶT ĐIỀU!
BẢN SẮC KHÔNG THỂ MẬP MỜ, LỊCH SỬ KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC!
Thứ Bảy, 2 tháng 3, 2024
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: XUẤT BẢN SÁCH ĐIỆN TỬ BÀI VIẾT CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG!
Bác bỏ luận điệu xuyên tạc quan điểm “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” của Đảng
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”1, nhằm đưa đất nước ta từng bước phát triển hùng cường, thịnh vượng. Đây cũng là vấn đề được các thế lực thù địch “quan tâm”, tập trung chống phá quyết liệt. Vì vậy, cùng với đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt, triển khai sâu rộng, sớm đưa Nghị quyết vào cuộc sống, cần kiên quyết đấu tranh bác bỏ các luận điệu xuyên tạc quan điểm trên, quyết tâm hiện thực hóa khát vọng lớn lao của toàn dân tộc.
Quan điểm “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” là sự phát triển mới, lần đầu tiên được xác định trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Đây là điểm nhấn quan trọng trong tư duy, sự phát triển nhận thức của Đảng về sức mạnh nội sinh của dân tộc và phương thức phát triển đất nước trong bối cảnh mới; được toàn Đảng, toàn dân và toàn quân biểu thị sự nhất trí cao (thông qua đại hội Đảng các cấp, các hình thức lấy ý kiến đã tham gia thảo luận rộng rãi trong toàn dân), góp phần xây dựng nên Nghị quyết. Ngay sau thành công của Đại hội, các cấp, ngành từ Trung ương đến các địa phương, đơn vị cơ sở đã có chương trình, kế hoạch quán triệt, triển khai thực hiện trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, nhằm phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng đất nước: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mặc dù vậy, với âm mưu, thủ đoạn chống phá toàn diện nước ta, các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; trong đó, tập trung xuyên tạc quan điểm “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” trong văn kiện của Đại hội. Họ ra sức rêu rao rằng, “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” là quan điểm duy tâm chủ quan, một “khẩu hiệu” trống rỗng, phản khoa học, thiếu cơ sở lý luận và thực tiễn, rơi vào chủ quan, duy ý chí, v.v. Hùa theo đó, những phần tử cơ hội, phản động hoặc bất mãn chính trị tích cực móc nối với các thế lực bên ngoài đẩy mạnh tuyên truyền xuyên tạc với nhiều hình thức khác nhau, nhằm gây nên sự hoài nghi trong các tầng lớp nhân dân đối với nội dung này. Bên cạnh đó, các nhóm đối tượng lợi dụng việc thiếu thông tin, trình độ nhận thức chưa đầy đủ của một bộ phận nhân dân, nhất là ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, từng bước làm phai mờ ý chí, quyết tâm, thui chột khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, hùng cường, thịnh vượng của dân tộc Việt Nam; làm suy giảm uy tín, vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
Những luận điệu trên, dù được các thế lực cố tô vẽ, thêu dệt thế nào chăng nữa cũng không thể phủ nhận được tính cách mạng, khoa học của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nói chung, quan điểm “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” nói riêng. Đó là quan điểm hoàn toàn đúng đắn, là nguyên vọng chính đáng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta; được Đảng xây dựng trên cơ sở lý luận, thực tiễn.
Nói đến “khát vọng” là nói đến yếu tố tinh thần, là sự mong muốn, khao khát, quyết tâm dồn hết sức lực, trí tuệ, sự sáng tạo để đạt được mục tiêu đã xác định; là nguồn động lực có sức mạnh to lớn để mỗi người thực hiện thành công những nhiệm vụ quan trọng nhằm đạt được ước mơ, hoài bão của mình; không khuất phục trước mọi khó khăn, thử thách. Đối với quốc gia, dân tộc, đó là động lực để mọi tầng lớp nhân dân phát huy cao nhất sức mình nhằm hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước. Khát vọng của dân tộc Việt Nam là đưa đất nước đi tới phồn vinh, hùng cường, thịnh vượng, từng bước sánh vai với các cường quốc trong khu vực và thế giới. Như vậy, “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” không phải là cái gì xa vời, trừu tượng khi Việt Nam đã có đủ điều kiện để thực hiện khát vọng đó. Vấn đề này, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã cụ thể hóa thành những phương thức rõ ràng, gắn với yêu cầu về hành động, việc làm thiết thực của mỗi cấp, ngành, tổ chức và mỗi người dân Việt Nam. Quan điểm đó, vừa là yêu cầu, vừa là lời hiệu triệu của Đảng, của đất nước đối với mỗi người Việt Nam có lương tri, trách nhiệm trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong suốt chiều dài lịch sử đất nước, với khát vọng độc lập, hòa bình đã trở thành động lực to lớn, nguồn lực nội sinh của dân tộc, tạo nên sức mạnh to lớn, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân, phát huy được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc nền độc lập của dân tộc, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Thời đại ngày nay - Thời đại Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường bảo đảm cho đất nước ta hiện thực hóa “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”, hùng cường, thịnh vượng, khẳng định vị thế, sánh vai cùng các nước trong khu vực và quốc tế. Trên cơ sở phân tích sâu sắc, cùng những dự báo khách quan, khoa học về tình hình, xu hướng phát triển của thế giới và đất nước, Nghị quyết khẳng định, bên cạnh khó khăn, thách thức, nước ta đang đứng trước nhiều cơ hội, thời cơ thuận lợi để xây dựng, phát triển đất nước. Đó là, chúng ta có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam; sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; có nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà ở đó, nhân dân là người làm chủ, mọi quyền lợi đều thuộc về nhân dân; có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển, hoàn thiện. Cùng với đó, khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được củng cố vững chắc; nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; nguồn nhân lực được đào tạo có chất lượng cao, v.v. Đó là cơ sở vững chắc cho việc Đảng ta “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” để xây dựng đất nước; đó hoàn toàn không phải là vấn đề “trừu tượng”, “trống rỗng”, “chủ quan”, “duy ý chí”,... như một số kẻ ngộ nhận, rao giảng. Song, để thực hiện thắng lợi quan điểm “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”, cũng như đấu tranh bác bỏ các luận điệu xuyên tạc, thù địch, cần tiếp tục thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu sau:
1. Tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”, làm cho mọi người có khả năng miễn dịch với sự chống phá của các thế lực thù địch. Theo đó, các bộ, ban, ngành từ Trung ương đến địa phương, đơn vị cơ sở cần tập trung giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về tính đúng đắn, khoa học của các quan điểm, chủ trương mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định; làm cho các tầng lớp nhân dân nhận rõ âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động đối với vấn đề quan trọng này. Đồng thời, đề cao trách nhiệm, tích cực tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. “Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” là thực hiện khát vọng phát triển đất nước giàu mạnh, thịnh vượng, hùng cường trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng chế độ chính trị, xã hội mới, phù hợp với xu thế thời đại, mang lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân; từng bước hội nhập và vươn lên khẳng định vị thế, tầm vóc của Việt Nam trên trường quốc tế.
2. Xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ ngang tầm nhiệm vụ. Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Cán bộ, đảng viên phải thực hiện trách nhiệm nêu gương theo các quy định của Đảng. Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
3. Tập trung xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới. Trong đó, cần làm rõ vấn đề đổi mới đồng bộ, phù hợp giữa kinh tế với chính trị, văn hóa, xã hội; giữa đổi mới kinh tế với đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trên cơ sở phát huy mạnh mẽ vai trò giám sát của nhân dân theo hướng “Nhà nước của dân, do dân và vì dân”. Cùng với đó, hệ thống pháp luật cũng cần phải được nghiên cứu cụ thể, đảm bảo chặt chẽ, thống nhất, đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn cách mạng. Cải cách hành chính, cải cách tư pháp phải đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trước xu thế hội nhập trong khu vực và thế giới trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương cần có sự đổi mới mạnh mẽ, đủ sức lãnh đạo các địa phương, cơ sở phát triển kinh tế - xã hội, tạo đột phá cho phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng. Muốn làm được điều đó, các cấp cần có cơ chế cụ thể, hiệu quả, phù hợp yêu cầu thực tiễn để lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài; tích cực khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám thể hiện khát vọng cống hiến vì cộng đồng, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Bên cạnh đó, cần tiếp tục đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, làm trong sạch nội bộ cấp ủy đảng, chính quyền ở các cấp, tạo niềm tin của nhân dân đối với quan điểm, đường lối lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
4. Về kinh tế, Chính phủ cần chỉ đạo các bộ, ban, ngành tiến hành khẩn trương các biện pháp hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với tất cả các thành phần kinh tế; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Chú trọng nghiên cứu ứng dụng khoa học - công nghệ để tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; làm cho kinh tế - xã hội phát triển tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của đất nước, phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Cùng với đó, cần tiếp tục phát huy vai trò của các bộ, ngành, tập trung các nguồn lực, vận dụng linh hoạt các phương pháp, tích cực đổi mới giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, để các lĩnh vực quan trọng này phải thực sự trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, các bộ, ngành từ Trung ương đến địa phương, đơn vị cơ sở cần có nhiều chủ trương, biện pháp đột phá đạt hiệu quả cao trong lĩnh vực văn hóa, xã hội và bảo vệ môi trường; thường xuyên nhân rộng mô hình, cách làm hay, gương điển hình tiên tiến ở các cấp. Bên cạnh đó, cần có giải pháp phù hợp để phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; ngăn chặn, đẩy lùi sự xuống cấp của một số mặt văn hóa, đạo đức, lối sống, gây bức xúc xã hội, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, hướng tới một xã hội thịnh vượng, văn minh, hiện đại.
Hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước là sự nghiệp cách mạng to lớn, đầy khó khăn, thử thách, nhiều cam go, phức tạp nhưng cũng rất vẻ vang, đáng tự hào. Vì vậy, thực hiện đầy đủ, hiệu quả các giải pháp trên sẽ góp phần quan trọng để “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” trong mỗi người dân Việt Nam; đồng thời, là cơ sở vững chắc để đấu tranh bác bỏ luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch, phản động; tạo sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi quan điểm, mục tiêu, phương hướng Đại hội XIII của Đảng./.
ST.
Thúc đẩy “Xã hội dân sự” ở Việt Nam - hình thức chống phá nguy hiểm của các thế lực thù địch
Xã hội dân sự đúng nghĩa là một bước tiến quan trọng của xã hội loài người trong tiến trình hướng tới một xã hội phi nhà nước. Tuy nhiên, một số tổ chức đã mượn danh “xã hội dân sự” nhằm làm phức tạp tình hình chính trị - xã hội, hướng đến mục tiêu thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam như đã từng xảy ra ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây. Vì vậy, cần đề cao cảnh giác, nhận diện đúng và vạch trần thủ đoạn chống phá nguy hiểm này.
Nhận diện về xã hội dân sự và tổ chức “xã hội dân sự”
Xét về bản chất, xã hội dân sự (Civil Society) là xã hội tự lập phi nhà nước, được hình thành, hoạt động trong không gian công cộng và tư nhân, nằm ngoài vùng ảnh hưởng trực tiếp của yếu tố nhà nước. Không thể phủ nhận xã hội dân sự là một bước tiến của loài người trong tổ chức cộng đồng, bên cạnh sự tiến bộ của các thiết chế nhà nước ngày càng hợp lý (nhà nước chuyển từ cai trị sang phục vụ, nhà nước của dân, do dân, vì dân,…) thì xã hội cũng hình thành một loạt các thiết chế xã hội đa dạng, phong phú. “Điều này phù hợp với xu thế: nhà nước sẽ nhỏ đi và xã hội sẽ lớn lên, được C. Mác đề cập trong lý luận về chủ nghĩa xã hội”. Theo đó, chặng đường tiến bộ đáng kể của nhân loại biểu hiện ở vai trò tự quản trong cộng đồng ngày càng mạnh lên. Vai trò tự quản ấy chính là nằm ở các tổ chức xã hội với các thiết chế riêng bên cạnh thiết chế nhà nước, đó là các bộ phận hợp thành của xã hội dân sự.
“Giá trị đáng ghi nhận của xã hội dân sự là những phát kiến, kiến nghị, đề xuất có cơ sở lý luận và thực tiễn, phù hợp với quan điểm, đường lối của đảng cầm quyền. Theo C. Mác: chủ quyền của nhân dân phải trở thành vấn đề trung tâm trong một xã hội dân sự đích thực, làm cơ sở cho một chế độ dân chủ và một nhà nước dân chủ chân chính”. Đây là tư tưởng cách mạng sâu sắc, có tính định hướng cho việc nhìn nhận, đánh giá và xác định tính đúng đắn của một tổ chức được coi là xã hội dân sự đích thực hay giả danh để chống phá chính quyền nhân dân.
Hiện nay, xu hướng mang tính phổ biến trong quá trình phát triển của nhiều quốc gia là mối quan hệ hữu cơ giữa kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự. Theo đó, xã hội dân sự được cộng đồng quốc tế rất quan tâm, coi đó là một nhân tố của xã hội hiện đại, một tiêu chí đánh giá trình độ phát triển của chế độ xã hội ở một quốc gia. Nhiều văn kiện của các tổ chức quốc tế và khu vực đã có các quy định về quyền con người, về xã hội dân sự, tổ chức “xã hội dân sự”. Nhiều tổ chức “xã hội dân sự” đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; bảo đảm thực thi dân chủ, nhân quyền; góp phần tích cực vào thúc đẩy dân chủ hóa và xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển các lĩnh vực giáo dục, y tế, v.v.
Ở Việt Nam, quyền con người, quyền công dân là thành quả cách mạng được thể chế hóa và phát huy trên thực tế. Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) là sự kế thừa, phát triển những giá trị quyền con người, quyền công dân của nhân loại trong thời đại mới. Trong các bản Hiến pháp (năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013) đều thể hiện rõ bản chất của chế độ ta là tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; là chế độ dân chủ do nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Pháp luật Việt Nam đã quy định các điều kiện cụ thể để thành lập, hoạt động của tổ chức xã hội dân sự. Trên thực tế, bên cạnh các tổ chức chính trị, đoàn thể quần chúng, nhiều hội, tổ chức phi chính phủ đã và đang được thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, hoạt động công khai, hợp pháp, mang lại những lợi ích đáng kể cho xã hội và cộng đồng. Tuy nhiên, vẫn còn các hội, tổ chức quần chúng tự phát thành lập, không có tư cách pháp nhân, mang tính hình thức, chạy theo lợi nhuận kinh tế đơn thuần, hoạt động tùy tiện, kém hiệu quả, không phát huy được vai trò đại diện cho lợi ích của hội viên; cá biệt còn một số tổ chức có nhiều hoạt động vi phạm pháp luật, gây phương hại đến an ninh quốc gia, buộc các cơ quan chức năng phải chấn chỉnh, xử lý. Lợi dụng điều này, các thế lực thù địch đã xuyên tạc, vu cáo Nhà nước ta vi phạm dân chủ, nhân quyền. Đó là sự đơm đặt vô căn cứ, mang nặng tính thù địch.
“Xã hội dân sự” trá hình - tiền đề của chế độ đa nguyên, đa đảng
Thực tế cho thấy, ngay từ ý tưởng cho đến quá trình thành lập và hoạt động, do tính chất nhạy cảm về chính trị - xã hội, nhiều tổ chức đã trượt khỏi bản chất, hình ảnh tích cực của xã hội dân sự đích thực, trở thành công cụ để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá chế độ. Các tổ chức núp bóng “xã hội dân sự” này thường trá hình dưới danh nghĩa bảo vệ “dân chủ”, “nhân quyền”, nhằm hướng lái vào phê phán vai trò lãnh đạo của Đảng, họ cho rằng: chế độ độc đảng là “độc tài toàn trị”, là nguyên nhân dẫn đến tham nhũng, sai lầm, v.v. Các thế lực thù địch còn tìm cách thao túng, lôi kéo, chi phối tổ chức “xã hội dân sự” cho mục tiêu của mình. Nhìn chung, các hoạt động chống phá dựa trên công cụ là tổ chức “xã hội dân sự” trá hình mà họ thường sử dụng, tập trung vào các thủ đoạn chủ yếu sau: Một là, đề cao vai trò “phản biện xã hội” của các tổ chức giả danh “xã hội dân sự”, hướng lái hoạt động của các tổ chức này dần đối lập về tư tưởng chính trị với Nhà nước ta. Hai là, thúc đẩy xu hướng thoát ly sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, các cơ quan chức năng và chính quyền các cấp. Một số tổ chức “xã hội dân sự” không đứng trên lập trường của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; hướng lái mục tiêu hoạt động nhằm phục vụ lợi ích của một số nhóm người, đối lập với lợi ích của quốc gia, dân tộc. Ba là, lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” để hướng lái các tổ chức “xã hội dân sự” vào các hoạt động trái với tôn chỉ, mục đích, vi phạm pháp luật. Bốn là, gia tăng các hoạt động móc nối, liên kết, hậu thuẫn cho những người “bất đồng chính kiến” trong nước hoạt động theo khuynh hướng “độc lập”, hình thành “xã hội dân sự” trái pháp luật, chống Nhà nước, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức chính trị đối lập, thiết lập chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập nhằm tiến tới mục tiêu thay đổi chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cùng với đó, họ mượn cớ “phản biện xã hội”, “kiểm soát quyền lực”, nhân danh “dân chủ”, “nhân quyền” để mị dân bằng các hoạt động xây dựng quan hệ thương mại và phát triển,... gây phương hại đến an ninh quốc gia.
Sử dụng công cụ tổ chức “xã hội dân sự” và chiêu bài “đa nguyên chính trị” làm mũi nhọn chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng
Với “yêu sách”, đòi mở rộng quyền tự do, dân chủ vô chính phủ ở các nước xã hội chủ nghĩa, chống lại nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện chế độ đa đảng và các tổ chức chính trị đối lập, các thế lực thù địch đã, đang thực hiện mưu đồ thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Gần đây, họ tập trung tuyên truyền luận điệu: độc quyền, thủ tiêu dân chủ là nguyên nhân của những sai lầm và yếu kém trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Họ tăng cường tập hợp lực lượng, thành lập các tổ chức, “đảng phái chính trị” đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam, như: “Đảng Dân chủ của thế kỷ XXI”, “Thanh niên dân chủ Sơn Hà”, “Liên đảng Lạc Hồng”, “Đảng Thăng tiến Việt Nam”,... với mưu đồ tác động, thiết lập chế độ đa nguyên, đa đảng, chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho sự thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam.
Thời gian tới, các thế lực thù địch tiếp tục núp bóng tổ chức “xã hội dân sự” trá hình làm công cụ quan trọng để chống phá Đảng, Nhà nước ta, với các hướng: Một là, gia tăng hoạt động truyền bá “xã hội dân sự” nhằm gây áp lực xã hội đối với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; làm tiền đề cho sự ra đời, phát triển của các tổ chức “xã hội dân sự” trá hình ở Việt Nam. Hai là, tiếp tục tác động, can thiệp vào vấn đề “dân chủ“ “nhân quyền”, coi đó như động lực để thúc đẩy sự phát triển của “xã hội dân sự” trá hình. Ba là, tập trung tuyên truyền, tác động để phá hoại nội bộ, thúc đẩy quá trình suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, nhằm gây dựng, phát triển lực lượng cho các tổ chức “xã hội dân sự” chính trị đối lập. Bốn là, gia tăng tác động nhằm chuyển hóa các tổ chức xã hội dân sự đích thực ở Việt Nam, nhất là các hội, các tổ chức phi chính phủ trở thành các tổ chức “xã hội dân sự” theo hướng đối lập với Nhà nước ta. Từ đó, trực tiếp chi phối, khích lệ các hoạt động chống phá chế độ, đòi thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Năm là, sử dụng các tổ chức “xã hội dân sự” trá hình làm công cụ tuyên truyền, tác động tư tưởng, kích động, lôi kéo, tập hợp một bộ phận quần chúng nhân dân, kết hợp với các hoạt động gây mất ổn định chính trị - xã hội nhằm chuẩn bị điều kiện để phát động các hoạt động gây rối, như: “cách mạng đường phố”, “cách mạng màu”,... để thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam.
Kiên quyết đấu tranh với hoạt động thúc đẩy “xã hội dân sự” của các thế lực thù địch
Đấu tranh ngăn chặn, vô hiệu hóa âm mưu trên, triệt tiêu mầm mống của các hoạt động gây rối, bạo loạn lật đổ là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài. Do đó, hệ thống chính trị và toàn xã hội cần thống nhất và nâng cao nhận thức, nhận diện đúng về “xã hội dân sự”; phân biệt và đánh giá đúng vai trò, vị trí, tầm quan trọng của các tổ chức xã hội dân sự đích thực; không nhầm lẫn, đánh đồng với các tổ chức “xã hội dân sự” trá hình. Làm tốt công tác thông tin tuyên truyền, nâng cao tinh thần cảnh giác cho cán bộ, đảng viên và nhân dân; vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong việc cổ súy, lợi dụng, núp bóng tổ chức “xã hội dân sự” vào mục đích thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam. Xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống âm mưu chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của các thế lực thù địch, phản động, chống đối, cơ hội chính trị.
Cùng với đó, các cơ quan chức năng cần làm tốt công tác nắm tình hình, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp tập trung lãnh đạo, định hướng các tổ chức xã hội dân sự đích thực tuân thủ và chấp hành nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Các tổ chức xã hội dân sự phát huy tốt vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị, giữ vững ổn định chính trị - xã hội; thường xuyên đề cao cảnh giác trước âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, không để bị tác động, lôi kéo, kiên quyết bảo vệ Đảng, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, đóng góp tích cực vào những thành tựu chung của đất nước trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế./.
ST.





