Thứ Năm, 2 tháng 5, 2024

Điện Biên Phủ - Sự phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc

 

Ngay khi thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn (23-9-1945), mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ hai, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm tất cả những gì có thể để ngăn chặn một cuộc chiến tranh xảy ra. Song mọi cố gắng, nỗ lực của phía Việt Nam đã bị dã tâm xâm lược của thực dân Pháp chối bỏ. Trước tình thế đó, ngày 12-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra bản Chỉ thị Toàn dân kháng chiến. Bản chỉ thị nêu rõ: Mục đích cuộc kháng chiến là giành độc lập và thống nhất Tổ quốc; tính chất: Trường kỳ kháng chiến, toàn diện kháng chiến; các chính sách của cuộc kháng chiến là đoàn kết toàn dân, xây dựng thực lực về mọi mặt để chống thực dân Pháp. Tiếp đó, nhằm chống lại những hành động xâm lược trắng trợn của thực dân Pháp, ngày 19-12-1946, thay mặt Đảng, Chính phủ và toàn thể nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến với quyết tâm sắt đá: “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ… Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”(1).

Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh là những văn kiện cơ bản hợp thành đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp. Đường lối đó hợp lòng dân nên đã nhanh chóng quy tụ và phát huy được sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đứng lên đấu tranh giành độc lập và tự do cho đất nước, dân tộc.

Với đường lối chiến lược đúng đắn, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta từng bước giành những thắng lợi to lớn. Từ năm 1945 đến năm 1953, quân và dân ta liên tiếp làm thất bại mọi kế hoạch chiến lược của địch, từ kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh”, kế hoạch phong tỏa biên giới và “làm chủ vùng đồng bằng”, đến kế hoạch “giành quyền chủ động chiến lược”. Thất bại dồn dập về quân sự, hao tổn về tài chính, buộc thực dân Pháp phải dựa hẳn vào đế quốc Mỹ, xin thêm nhiều viện trợ nhằm đẩy mạnh chiến tranh với mong muốn giành thắng lợi quân sự để kết thúc chiến tranh trong danh dự. Với ý đồ đó, Kế hoạch Navarre - một kế hoạch đầy tham vọng của cả thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ra đời. Mục tiêu của kế hoạch là giành thắng lợi quyết định về quân sự trong vòng 18 tháng để kết thúc chiến tranh có lợi cho cả Pháp và Mỹ. Với tham vọng giành lại quyền chủ động trong thế bị động, H. Navarre đã đổ quân tinh nhuệ của Pháp xuống Điện Biên Phủ và xây dựng ở đây một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương. Theo đó, quân địch chiếm đóng ở Điện Biên Phủ với quân số lúc cao nhất lên tới 16.200 tên, gồm những đơn vị tinh nhuệ, bố trí trong 49 cứ điểm, chia làm ba phân khu: Bắc, Nam và Trung tâm. Ỷ vào thế mạnh về quân sự, vào ưu thế của vũ khí, trang bị và khả năng tiếp tế, thực dân Pháp và cả đế quốc Mỹ đều đi đến một nhận định, Điện Biên Phủ là “pháo đài bất khả xâm phạm”, một “con nhím” hoàn hảo được tổ chức phòng ngự theo kiểu hiện đại, là nơi “nghiền nát chủ lực của Việt Minh”. Trái với những tham vọng và tuyên bố huênh hoang, hiếu chiến của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, một lần nữa lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam lại khẳng định sự tất thắng của sức mạnh khối đoàn kết toàn dân tộc trước kẻ thù có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh, vũ khí tối tân, hiện đại. Trong lịch sử, chính sức mạnh đó đã “nhấn chìm” không ít kẻ thù hung bạo khi chúng đến xâm lược Việt Nam.

Sau khi phân tích tình hình trên các chiến trường, đầu tháng 12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị quyết định tập trung lực lượng mở chiến dịch tiêu diệt tập đoàn cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà cả đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”(2). Từ đây, một cuộc động viên sức người, sức của của toàn dân tộc đã được triển khai rầm rộ, với quy mô lớn chưa từng có. Công nhân, nông dân, trí thức, học sinh, nhà buôn và cả một số địa chủ, tư sản, ai ai cũng sẵn lòng góp công, góp của. Đâu đâu cũng có phong trào ra quân rầm rộ. Hội đồng Cung cấp Mặt trận Trung ương nhanh chóng được thành lập, do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch, đã chỉ đạo các địa phương, các ngành kinh tế, tài chính, tổ chức động viên nhân tài, vật lực của cả nước cho cuộc kháng chiến. Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”, mọi địa phương đều thi đua chi viện cho mặt trận. Đồng bào các dân tộc Tây Bắc, dù nhiều nơi mới được giải phóng, còn rất nhiều thiếu thốn, nhưng đã tích cực đóng góp cho chiến dịch đến 1.200 tấn gạo, 300 tấn thịt và gần 100 tấn rau. Liên khu Việt Bắc đóng góp 7.311 tấn lương thực, riêng tại Lai Châu (nay là tỉnh Điện Biên và tỉnh Lai Châu) là 2.266 tấn. Ở Liên khu III (do đồng chí Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng chỉ đạo), tuy còn nhiều vùng địch chiếm đóng nhưng cũng huy động được 1.183 tấn gạo, 57 tấn muối. Ở Liên khu IV, chủ yếu là tỉnh Thanh Hóa, mặc dù đồng bào còn rất khó khăn, nhưng vì tiền tuyến, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Chí Thanh, nhân dân đã sẵn sàng và huy động hơn 8.000 tấn thức ăn khô. Đặc biệt, dù là nơi đang trực tiếp chiến đấu với địch, nhân dân huyện Điện Biên cũng đóng góp được 555 tấn lương thực (vượt mức trên giao 64 tấn), 226 tấn thịt (vượt 43 tấn)(3).

Cùng với những đóng góp tích cực của nhân dân cả nước về lương thực, thực phẩm cho tiền tuyến, lực lượng dân công của các địa phương cũng được huy động đủ đáp ứng yêu cầu cho chiến dịch. Liên khu III tổ chức mỗi đoàn từ 300 đến 500 người. Tỉnh Hòa Bình huy động 5.000 dân công làm đường. Huyện Mỹ Đức (Hà Đông) mới giải phóng đã có 800 người tình nguyện đi dân công phục vụ chiến dịch, huyện Gia Viễn (tỉnh Ninh Bình) huy động đội xe thồ 150 chiếc làm nhiệm vụ vận chuyển lương thực. “Ngay tại hỏa tuyến, đồng bào Điện Biên cũng đưa 3.000 người đi dân công với 64.670 ngày công phục vụ. Hậu phương tại chỗ, khu Tây Bắc huy động 31.818 dân công. Việt Bắc, căn cứ địa kháng chiến chung của cả nước cũng cung cấp cho mặt trận 36.518 dân công. Trong vùng địch hậu tỉnh Kiến An đã đóng góp 230.294 ngày công. Trong vùng tạm chiếm của các tỉnh Bắc Bộ, đồng bào đã chuyển ra vùng tự do hơn 20 vạn tấn thóc và 7,5 triệu ngày công đi dân công”(4).

Tính chung trong chiến dịch, ngoài 16 đại đội ô tô vận tải của quân đội, các phương tiện thô sơ của các địa phương là lực lượng hết sức quan trọng và vận chuyển hiệu quả hàng hóa, điển hình có tới hơn hai vạn xe đạp thồ được huy động. Ngoài việc tham gia vận tải gạo, đạn cho chiến trường, lực lượng dân công còn tích cực tham gia vận chuyển thương binh ra hậu cứ để cứu chữa, trực tiếp vào tận chiến hào để phục vụ chiến đấu. Đồng bào nhiều địa phương cùng sát cánh bên nhau xẻ núi, san đồi, làm đường, phá thác để mở lối cho quân đi, cho thuyền chở hàng qua lại. Nhờ những nỗ lực đó mà điều lo lắng và khó khăn nhất tưởng chừng như không thể vượt qua là vấn đề hậu cần chiến dịch đã được giải quyết thành công. Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã góp phần tạo nên thành công vượt bậc đó.

Tổng kết toàn chiến dịch, nhân dân cả nước huy động được 23.126 tấn gạo, 266 tấn muối, 992 tấn thịt, 800 tấn rau, 917 tấn thực phẩm khác... Huy động 216.451 lượt dân công bằng 12 triệu ngày công, 20.991 xe đạp thồ, 736 xe súc vật kéo, 11.400 thuyền bè mảng(5). Ghi nhận kết quả này, tại Hội nghị tổng kết chiến dịch, thay mặt cho toàn quân, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp khẳng định: “Trên mặt trận Điện Biên Phủ, vấn đề cung cấp đạn dược là nhân tố vô cùng quan trọng, quan trọng không kém các vấn đề chiến thuật; khó khăn về cung cấp lương thực không kém khó khăn về tác chiến. Tình hình cung cấp khẩn trương từng ngày từng giờ, không kém tình hình chiến đấu… quân địch không bao giờ tưởng tượng được rằng, chúng ta có thể khắc phục khó khăn này. Bọn đế quốc, phản động không bao giờ đánh giá được sức mạnh của nhân dân. Sức mạnh đó có thể khắc phục tất cả mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù”(6). Đánh giá kỳ tích này, tướng Pháp Y. Gra nhận xét rất đúng rằng: “Cả dân tộc đã tìm ra giải pháp cho vấn đề hậu cần và giải pháp này đã làm thất bại mọi toan tính cũng như dự kiến của Bộ Tham mưu Pháp”(7).

Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc còn được huy động ở mức cao nhất trong phối hợp tiến công trên các hướng chiến lược để căng kéo quân địch, buộc chúng phải phân tán ra các chiến trường theo ý định của ta. Quân và dân ta ở khắp các địa phương trong cả nước, từ Tây Bắc, Liên khu III, Tả ngạn, đến Bình - Trị - Thiên, Liên khu V, Bắc Tây Nguyên, Sài Gòn - Gia Định, Nam Bộ… đều đẩy mạnh các hoạt động phối hợp, liên tiếp tiến công tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai và nhân dân, buộc thực dân Pháp phải phân tán lực lượng khắp nơi để đối phó. Tại Liên khu III, ta tăng cường tiến công tập kích Đường 5 - tuyến đường vận tải chiến lược của địch từ Hải Phòng về Hà Nội; đồng thời, liên tiếp tập kích các sân bay Gia Lâm và Cát Bi để phá tuyến vận tải đường không của địch chi viện cho Điện Biên Phủ… Ở chiến trường Nam Bộ, theo chủ trương của Bộ Chính trị, Trung ương Cục miền Nam đã chỉ đạo dốc toàn lực đẩy nhanh nhịp độ tiến công để phối hợp với Chiến dịch Điện Biên Phủ. Các đơn vị chủ lực của các khu và các tỉnh đã kết hợp với lực lượng vũ trang địa phương tiến công vào vùng địch hậu các tỉnh: Thủ Biên, Long Châu Sa, Mỹ Tho, Cần Thơ, Sóc Trăng, Rạch Giá, Bạc Liêu… Bằng nhiều hình thức, như phục kích, tập kích, công đồn, các lực lượng vũ trang Nam Bộ đã diệt nhiều sinh lực địch, phá nhiều đồn bốt. Trong cả nước, nhân dân từ Nam chí Bắc, từ thành thị đến nông thôn liên tiếp mở nhiều cuộc đấu tranh, vùng lên diệt ác, phá tề, giành quyền làm chủ. Các lực lượng thanh niên, phụ nữ từ thành thị đến nông thôn, từ vùng núi đến đồng bằng tích cực tham gia đấu tranh chính trị, phá tề trừ gian. Qua đó, ta đã phân tán một bộ phận quan trọng lực lượng địch, buộc chúng phải căng sức đối phó, bị giam chân ở nhiều chiến trường. Đây là những hoạt động phối hợp kịp thời của cả nước có tác động tích cực tới chiến trường Điện Biên Phủ.

Để huy động sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, vấn đề quan trọng là phải giải quyết hợp lý quyền lợi giữa các tầng lớp nhân dân ở vùng hậu phương. Nhiệm vụ tối cao lúc này là kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại độc lập dân tộc; song, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chú trọng giải quyết thỏa đáng những quyền lợi giữa các tầng lớp nhân dân, không làm ảnh hưởng đến quyền lợi tối cao dân tộc và không làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nổi bật trong thời gian này ở hậu phương (vùng mới giải phóng), Đảng đã có chủ trương và chính sách nhằm đem lại mục tiêu, quyền lợi dân chủ, nhất là cho nông dân - lực lượng đông đảo nhất trong xã hội. Theo đó, năm 1953, Đảng phát động quần chúng triệt để giảm tô, tiến hành cải cách ruộng đất, thực hiện “Người cày có ruộng”. Tháng 12-1953, Luật Cải cách ruộng đất được ban hành. Trên thực tế, từ tháng 4-1953 đến tháng 7-1954, Đảng đã lãnh đạo tiến hành 5 đợt giảm tô và 1 đợt cải cách ruộng đất ở vùng tự do. Điều đó đã động viên được các tầng lớp nhân dân ở vùng tự do và sau lưng địch, làm cho cán bộ, chiến sĩ ở tiền tuyến càng tin tưởng sâu sắc vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo thành khối đại đoàn kết, dồn sức người, sức của cho chiến dịch. Bên cạnh đó, trong suốt cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp cũng như trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, ta đã có thành công lớn trong vận động nhiều địa chủ, tư sản dân tộc cùng con em, gia đình họ tham gia kháng chiến.

Lực lượng công an đã góp phần tích cực trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, tích cực phối hợp hoạt động, thành lập “Ban Công an tiền phương” làm nhiệm vụ bảo vệ các lực lượng tham gia chiến dịch, bảo vệ dân công, bảo vệ giao thông vận chuyển, kho tàng, các cuộc hành quân, trú quân của bộ đội chủ lực. Từng đơn vị tổ chức ra các ban bảo vệ dân công và phát động phong trào “phòng gian bảo mật”; giữ bí mật, phổ biến cách thức phòng, chống do thám, điều tra của địch; quy định việc đi lại, tiếp xúc giao dịch… Tính từ tháng 1 đến tháng 5-1954, Công an Liên khu II, IV, khu Tây Bắc, Việt Bắc đã bắt hàng trăm tên tình báo gián điệp chuyên theo dõi thu thập tin tức về các cuộc hành quân, đóng quân của bộ đội ta từ các hướng lên Điện Biên Phủ(8). Phong trào “phòng gian bảo mật” được phát động rộng khắp trên toàn mặt trận, công tác chống gián điệp, bảo vệ nội bộ được triển khai một cách chủ động, vững chắc và đạt hiệu quả cao; vì vậy, địch hoàn toàn bất ngờ và bị động trước sự tiến công của ta. Đồng thời, lực lượng công an đã làm tốt công tác bảo vệ lãnh tụ, bảo vệ các cơ quan đầu não chỉ đạo kháng chiến, bảo đảm tuyệt đối an toàn trong mọi tình huống…

Sức mạnh đoàn kết, sự đồng tâm hiệp lực của cả dân tộc Việt Nam đã quyết định thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: “Nhờ sự đoàn kết chặt chẽ và anh dũng hy sinh của toàn quân và toàn dân ta, chúng ta đã đại thắng ở Điện Biên Phủ”(9). Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy cao độ và làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ bắt nguồn từ đường lối chiến lược đúng đắn của Đảng; sự chỉ đạo kiên quyết và tham gia tích cực của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương bằng những hình thức, biện pháp hết sức linh hoạt, sáng tạo và đặc biệt là sự tham gia đông đảo của mọi giai cấp, tầng lớp nhân dân để “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”. Chính sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc ấy được phát huy cao độ trong Chiến dịch Điện Biên Phủ mà tướng H. Navare - Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương - đã phải thừa nhận: “Quân viễn chinh Pháp không những phải chống chọi với một đội quân chính quy mà còn phải đương đầu với cả một dân tộc”

 

NHẮC LẠI GIÚP BẠN: KHI TỘI ĐỒ DÂN TỘC, TỘI NHÂN THIÊN CỔ CỦA NƯỚC VIỆT TRƯƠNG VĨNH KÝ ĐƯỢC LÊN SÓNG TRUYỀN HÌNH QUỐC GIA!

     Người Việt Nam luôn có truyền thống uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây. Nhân dân Việt Nam từ xưa đến nay luôn biết ơn các thế hệ cha anh đã chiến đấu, hy sinh, đóng góp to lớn để xây dựng đất nước, để lại giang sơn tươi đẹp cho cháu con muôn đời sau. Những Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp... là những tượng đài trong lòng dân tộc.
Đó là những đại diện tiêu biểu nhất trong thế hệ của họ, có những đóng góp vĩ đại cho dân tộc. Nhân dân Việt Nam đời đời biết ơn các vị anh hùng dân tộc, căm ghét những kẻ bán nước, thờ giặc với mục đích vinh thân phì gia. Ấy thế mà lâu nay, chẳng biết lý do gì, bỗng nhiên người ta tô vẽ lên những bộ xương khô trong mả của những kẻ bán nước, hại dân như Nguyễn Ánh, Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký...xem lũ bán nước như những anh hùng dân tộc, thờ cúng linh đình.

Trương Vĩnh Ký kẻ trọn một đời phục vụ cho mục đích xâm lược, đô hộ của người Pháp, hiện được đặt tên đường, tên trường và được Nguyễn Minh Thuyết bê vào sách giáo khoa lớp 3 để ca ngợi. Mới đây lại được VTV1 đưa lên sóng Truyền hình Quốc gia... Trương Vĩnh Ký tội nghiệt chồng chất, cao hơn cả đỉnh Hoàng Liên Sơn và dù có lấy hết nước của 4 bể dưới gầm trời này thì chẳng bao giờ rửa sạch tội phản quốc của ông ta. Ký là kẻ phục vụ đắc lực cho lợi ích của Pháp; ông ta được chính phủ Pháp ban tặng huy chương Đệ Ngũ Đẳng Bắc Đẩu Bội Tinh, và được chính phủ thuộc địa bỏ tiền mua sách, cấp cho tiền lương mỗi năm là 13.800 quan (kể cả tiền dạy học). Để so sánh, lúc đó lương của Thống đốc Nam Kỳ cũng chỉ có 18.000 quan, lương của ông Tổng thư ký là 15.000 quan. 

Như vậy lương của Trương Vĩnh Ký đứng hàng thứ ba, chỉ sau hai viên chức cao cấp nhất người Pháp. Người Pháp đã bỏ số tiền đó ra để nuôi kẻ có công giúp họ trong việc chống lại nghĩa quân Cần Vương và vùi dập những người yêu nước, kháng Pháp trong biển máu. Những thành tích nổi bật của Ký như: Bày mưu, tính kế để người Pháp tàn sát, giết hại người yêu nước tham gia phong trào Cần Vương chống pháp, là kẻ bày mưu “dùng người Việt trị người Việt” khi đề xuất Toàn quyền Pháp hỗ trợ vũ khí, đào tạo kỹ thuật cho những kẻ tay sai là người Việt, dùng những người đó để đàn áp các cuộc khởi nghĩa chống Pháp của nhân dân ta (Đây là kế “đổi màu da trên xác chết mà sau này người Mỹ học để xâm lược Việt Nam). 

Trong các bức thư gửi Toàn quyền Pháp, Pétrus Ký bày cho ông ta cách đàn áp phong trào kháng chiến Cần Vương như sau: "Nay họ chỉ còn cách thần phục nước Pháp. Xứ Trung kỳ mà ngài vừa ban cho nền tự trị sẽ phải bắt buộc ở dưới sự giám hộ của người bảo hộ nó. Bọn phiến loạn (nghĩa quân Cần vương) không đáng sợ; họ chỉ có những khí giới cổ lỗ của chính quyền An Nam và vài võ khí mới mua lại được của bọn buôn lậu Trung Hoa".

Tự tưởng thần phục, cam chịu làm khuyển mã cho người Pháp, ông ta xem người Pháp là những người khai hóa văn minh: “về phương diện chính trị và kinh tế, nước Pháp là người đi đồng hóa, còn người An Nam là kẻ chịu đồng hóa. Ông tin rằng việc người Pháp tấn công Việt Nam là một "sứ mệnh mà Thiên Chúa giao phó", và người Pháp với tư cách là "chủ nhân", cần giảng dạy người An Nam những tư tưởng và khái niệm cần thiết cho việc cải tạo người An Nam”.

Năm 1886, Paul Bert được Trương Vĩnh Ký tư vấn, ép vua Đồng Khánh nhượng cho Pháp khu đất nằm giữa trấn Bình Đài và Linh Hựu Quán để Pháp xây dựng thêm doanh trại, đồn bốt, nhà thương, kho hậu cần... Linh Hựu Quán bị triệt giải từ đó. Và cũng từ đó người dân ở Huế gọi khu nhượng địa mới này là Mang Cá Lớn, khu Trấn Bình Đài cũ là Mang Cá Nhỏ.

Chẳng biết từ bao giờ những kẻ bán nước, làm tay sai cho ngoại Bang như Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký lại được vinh danh, đặt tên trường và tên đường ở nhiều tỉnh thành. Ngày xưa, Ngụy Sài Gòn là tay sai, là tôi tớ của Đế quốc Mỹ, thân phận của Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu…và Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký là như nhau.

Nếu ngụy ca ngợi và vinh danh ngụy cũng không có gì là lạ. Thế nhưng chẳng hiểu tại sao, ngành truyền thông của đất nước ta, đất nước của những người anh hùng chống ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc lại làm cái việc vong luân, bại lý thế này? Xin dành câu hỏi này cho các vị có trách nhiệm quản lý lĩnh vực “văn hóa tư tưởng”, các vị phải có trách nhiệm trả lời cho nhân dân Việt Nam câu hỏi này.

Chương trình Khát vọng non sông do Dương Trung Quốc cố vấn thì mùi khắm thối là phải rồi. Chính ông Quốc là người tiên phong trong việc rửa mặt cho Trương Vĩnh Ký. Ông ta từng cho rằng “dù theo Pháp nhưng Trương Vĩnh Ký yêu nước theo cách của Ông ấy”. Xin hỏi, Trương Vĩnh Ký yêu nước là yêu nước nào, nếu không phải là nước Pháp? Một đám u mê trong nhận thức, bại hoại trong tư tưởng và phản động về mặt động cơ. Trương Vĩnh Ký yêu nước ư? Rặt một đám phản quốc. Cần loại bỏ tên đường, tên trường, lễ hội cũng giỗ đối với các nhân vật phản quốc như Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký. Đáng buồn đáng trách VTV1 khi đưa tội đồ dân tộc, tội nhân thiên cổ của nước Việt lên sóng truyền hình Quốc gia./.


Yêu nước ST.

Luận điệu chống phá lực lượng Công an Nhân dân

 

 

          Nhằm thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện âm mưu và các hoạt động “phi chính trị hóa” lực lượng công an nhân dân, tìm mọi cách làm cho cán bộ, chiến sỹ công an suy yếu về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, từ đó thúc đẩy các hoạt động “tự diễn biến”, phá vỡ bức tường thép quan trọng trong bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân. Do vậy, cần nhận diện thủ đoạn, hoạt động mà các đối tượng thường sử dụng trong thời gian qua như sau:

          Thứ nhất, các đối tượng ra sức tuyên truyền, xuyên tạc về bản chất cách mạng, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức lực lượng công an nhân dân, cho rằng “Công an là công cụ đàn áp của Đảng Cộng sản”, hay rêu rao rằng “Bộ Công an lấn quyền và tạo hình ảnh bất khả xâm phạm”; tìm mọi cách chia rẽ Công an với nhân dân, với Quân đội và các lực lượng khác trong hệ thống chính trị ở nước ta.

          Thứ hai, lợi dụng việc một số tin báo điện tử trong nước đăng tin bài, hình ảnh phản ánh sai phạm của lực lượng Công an địa phương trong điều tra một số vụ án và hành vi tiêu cực của cảnh sát giao thông để thổi phồng các vụ việc, lấy sai phạm của một số cá nhân để quy kết, xuyên tạc, vu cáo, bóp méo sự thật nhằm bôi đen, làm mất uy tín lực lượng Công an, kích động quần chúng chống cán bộ Công an thi hành công vụ.

          Thứ ba, cố ý bôi nhọ, hạ bệ hình ảnh cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm các đồng chí lãnh đạo Bộ Công an.

          Thứ tư, đối với một số vụ việc gây rối trật tự công cộng, có tính chất nguy hiểm đối với xã hội, phải sử dụng lực lượng Cảnh sát cơ động, đặc nhiệm để giải quyết, các đối tượng cho rằng lực lượng Công an nhân dân ngày nay không còn là của nhân dân, bảo vệ nhân dân, mà là công cụ để bảo vệ quyền lợi của một nhóm người có chức, có quyền, qua đó nhằm đối trọng nhân dân với lực lượng Công an.

          Thứ năm, lợi dụng không gian mạng như: Youtube, Blog, Facebook…, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị tạo lập hàng trăm tài khoản ảo, cắt ghép một số hình ảnh, video liên quan đến lực lượng Công an để đưa ra những bình luận ác ý, tung tin sai sự thật, bịa đặt nhằm công kích vào tâm lý người dân, gây sự hoài nghi, làm giảm sút lòng tin đối với chế độ.

          Những âm mưu, thủ đoạn và những việc làm của các thế lực thù địch là rõ ràng, càng chứng minh tính chất phản động, phản cách mạng của họ, thay vì có những đóng góp cho việc giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội thì họ lại cố ý phá vỡ tính ổn định đó bằng những luận điệu phi lý, lố bịch./.

 

KỶ NIỆM 134 NĂM NGÀY SINH CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH ( 19/5/1890 - 19/5/2024 )

 


          Trong không khí những ngày tháng 5 lịch sử, cả nước  đang ra sức thi đua lập nhiều thành tích chào mừng kỷ niệm 133 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại - vị Cha già, Người lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hoá thế giới. Người cống hiến trọn đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, mang lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

Hàng năm, vào ngày 19 tháng 5 cùng với cả nước, lòng chúng ta lại bâng khuâng tưởng nhớ đến Bác Hồ kính yêu. Ngày 19/5/1946, lần đầu tiên nhân dân ta kỷ niệm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của Ðảng, Nhà nước và nhân dân ta. Từ đó trở đi, cứ đến dịp 19/5, toàn dân ta cùng sống những giờ phút đặc biệt, niềm vui dâng trào, kính yêu Bác vô hạn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, lớn lên đi học lấy tên là Nguyễn Tất Thành, hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc) sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình nhà nho yêu nước, tại làng Hoàng Trù, xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

Sự thống trị tàn bạo của thực dân Pháp đã làm cho mâu thuẫn dân tộc diễn ra hết sức gay gắt, hàng loạt phong trào yêu nước theo các khuynh hướng khác nhau liên tiếp nổ ra nhằm giải quyết mâu thuẫn chủ yếu đó. Các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tuy diễn ra quyết liệt, song cuối cùng đều bị thất bại, vì thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn, thiếu một tổ chức lãnh đạo có khả năng tập hợp sức mạnh của toàn dân tộc.

 Với tinh thần yêu nước nồng nàn, thương dân sâu sắc, sự nhạy bén về chính trị, Người đã bắt đầu suy nghĩ về những nguyên nhân thành bại của các phong trào yêu nước lúc bấy giờ và quyết tâm ra đi tìm con đường để cứu dân, cứu nước.

Trong bối cảnh đó, ngày 5 tháng 6 năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc ra đi tìm con đường cứu nước giải phóng dân tộc với khát vọng cháy bỏng tìm đường cứu nước để đem lại: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”.  Sau gần 10 năm tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã đi đến nhiều châu lục, tiến hành khảo sát chủ nghĩa thực dân, đế quốc ở các nước tư bản và nhiều nước thuộc địa. Sớm nhận thức được xu hướng phát triển của thời đại, Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Năm 1920 Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin con đường giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân các nước thuộc địa. Người nói: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin đã soi rọi cho Nguyễn Ái Quốc: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc thì trước hết phải có “Đảng cách mệnh” để “trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Từ nhận thức đó Nguyễn Ái Quốc ra sức chuẩn bị mọi mặt cho việc thành lập một chính đảng vô sản ở Việt Nam, Người từng bước truyền bá có hệ thống chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước, đưa phong trào công nhân chuyển dần từ trình độ tự phát lên tự giác; đưa phong trào yêu nước chuyển dần sang lập trường cộng sản.

Để chuẩn bị cho việc thành lập Đảng của những người cộng sản Việt Nam, năm 1925, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Quảng Châu (Trung Quốc) và tổ chức Cộng sản Đoàn làm nòng cốt, đào tạo cán bộ cộng sản để lãnh đạo Hội và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Năm 1929, nhiều tổ chức cộng sản đã ra đời ở Việt Nam: Đông Dương Cộng sản Đảng; An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Năm 1930 được sự phân công của Quốc tế Cộng sản lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị thống nhất ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam.

Mùa Xuân năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập, cùng với sự lãnh đạo sáng suốt tài tình của Người, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã đồng lòng, chung sức làm nên những chiến thắng vang dội trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập cho Tổ quốc, kết thúc bằng cuộc tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh đã giành thắng lợi hoàn toàn đưa Tổ quốc ta về một mối; mở ra một kỷ nguyên mới: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, từ đây toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cùng nhau đoàn kết trong cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

 Ngày 02 tháng 9 năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, để lại muôn vàn tiếc nuối cho toàn Đảng, dân tộc Việt Nam và nhân dân thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vô cùng vĩ đại, có những cống hiến xuất sắc cho dân tộc và cho nhân loại tiến bộ.

Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi là tấm gương sáng cho lớp lớp thế hệ người Việt Nam học tập và noi theo. Tên tuổi và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ còn mãi với non sông đất nước, sống mãi trong lòng mỗi chúng ta. Người là Anh hùng giải phóng dân tộc, lãnh tụ thiên tài của Đảng và nhân dân, nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam, người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được thể hiện qua những nội dung như: Một là, trung với nước, hiếu với dân: đây là điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Hai là, yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình. Ba là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Bốn là, có tinh thần quốc tế trong sáng.

Phong cách Hồ Chí Minh, gắn liền với nhân cách trí tuệ lỗi lạc, đạo đức trong sáng của Hồ Chí Minh, với tư cách là một vĩ nhân, một nhà văn hóa kiệt xuất. Đó là một phong cách vừa dân tộc vừa hiện đại, vừa khoa học vừa cách mạng, vừa cao cả vừa thiết thực. Những nội dung chủ yếu của phong cách Hồ Chí Minh bao gồm:  Phong cách tư duy, Phong cách làm việc, Phong cách lãnh đạo, Phong cách diễn đạt, Phong cách ứng xử, Phong cách sinh hoạt.

Để tưởng nhớ công ơn của Bác, tháng 5 lịch sử, cả nước ta đang ra sức thi đua lập nhiều thành tích chào mừng kỷ niệm 133 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại - vị Cha già, Người lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hoá thế giới. Người cống hiến trọn đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, mang lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập với thế giới, tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thiết thực chào mừng kỷ niệm 133 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ, chính quyền, nhân dân xã Hải Tân ra sức thi đua, quyết tâm thực hiện thắng lợi cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, phát huy truyền thống cách mạng kiên cường, đoàn kết, năng động, sáng tạo, xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc…phấn đấu hoàn thành tốt kế hoạch, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 và những năm tiếp theo, góp phần xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng giàu đẹp, văn minh./.

 

CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ- SỨC MẠNH VIỆT NAM, TẦM VÓC THỜI ĐẠI

 


Chiến thắng Điện Biên Phủ của dân tộc ta đã chứng minh một chân lý của thời đại: các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng đắn, sáng tạo, biết đoàn kết đấu tranh vì độc lập tự do thì dân tộc đó nhất định thắng lợi.

Nguyên nhân thắng lợi

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ - chiến thắng của lòng yêu nước nồng nàn, ý chí bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử; là chiến thắng của đường lối kháng chiến, đường lối quân sự độc lập, đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ngay từ ngày đầu chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm 3 thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, kết hợp chặt chẽ chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy; tiến công quân sự, địch vận và nổi dậy của quần chúng; đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại giao.

Nhân dân ta từ nông thôn đến thành thị, từ miền núi đến miền xuôi, từ trẻ đến già theo lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát huy cao độ tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng ra sức thi đua xây dựng hậu phương vững chắc, thi đua giết giặc lập công, đóng góp sức người, sức của, bảo đảm cho chiến trường, tiếp thêm ý chí quyết chiến, quyết thắng cho các lực lượng ngoài mặt trận.

Quân đội ta trưởng thành vượt bậc về tư tưởng chính trị, lực lượng, tổ chức chỉ huy, trình độ tác chiến, trang thiết bị quân sự và bảo đảm hậu cần tiếp ứng cho chiến dịch quân sự quy mô lớn chưa từng có; cán bộ, chiến sĩ mưu trí, sáng tạo, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, chấp hành nghiêm mệnh lệnh chiến trường, dũng cảm hy sinh lập nhiều chiến công, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ở chiến trường Điện Biên Phủ. Trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu đã xuất hiện nhiều tấm gương kiên cường, anh dũng, mưu trí và sáng tạo tiêu biểu như: Tô Vĩnh Diện và Nguyễn Văn Chức đã hy sinh thân mình để bảo vệ pháo, Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng, Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai và còn biết bao tấm gương chiến đấu, anh dũng hy sinh khác đã làm rạng rỡ thêm truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam anh hùng.

Trong cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ, nhân dân Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ, sự giúp đỡ quý báu của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, nhận được sự ủng hộ của nhân dân các dân tộc bị áp bức ở Châu Á, Châu Phi, Mỹ La tinh, đặc biệt là liên minh chiến đấu giữa ba nước Đông Dương và phong trào đấu tranh của nhân dân tiến bộ trên thế giới, trong đó có nhân dân tiến bộ Pháp.

Ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Điện Biên Phủ

Thứ nhất, là đỉnh cao của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tạo cơ sở căn bản và quyết định cho việc đi đến ký kết Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam.

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đánh dấu chấm hết cho sự ngoan cố, hiếu chiến của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ trên bàn Hội nghị, buộc Chính phủ Pháp cùng các bên tham dự phải ngồi vào bàn nghị sự, ký Hiệp định Giơnevơ (trừ Mỹ) đình chỉ chiến sự ở Việt Nam ngày 21/7/1954. Đây cũng là chiến thắng quyết định thắng lợi của ta trên mặt trận ngoại giao, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ở Việt Nam.

Thứ hai, mở ra giai đoạn cách mạng mới, đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước,

Chiến thắng Điện Biên Phủ đưa đến kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đã tạo ra những thay đổi căn bản trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, ngoại giao… cho cách mạng Việt Nam và mở đầu một giai đoạn mới: miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng như những đóng góp của hậu phương miền Bắc đối với tiền tuyến lớn miền Nam đã củng cố niềm tin của Nhân dân hai miền vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến.

Phát huy tinh thần chiến thắng Điện Biên Phủ - “độc lập, tự chủ, quyết chiến, quyết thắng”, vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta đã giành được nhiều thắng lợi to lớn, đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và đội quân chư hầu, giải phóng và thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Thứ ba, khẳng định đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo của Đảng và sự lớn mạnh, trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã chứng minh chân lý: Trong thời đại ngày nay, một nước nhỏ, kinh tế chậm phát triển nếu có một đảng mác xít chân chính lãnh đạo với đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, phát huy được sức mạnh toàn dân tộc, được nhân dân thế giới đồng tình, ủng hộ thì nhất định đánh thắng mọi kẻ thù, dù có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh hơn gấp nhiều lần.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ cũng cho thấy sự trưởng thành vượt bậc của Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ 34 chiến sỹ với vũ khí thô sơ năm 1944, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân đội ta đã không ngừng lớn mạnh, càng đánh càng trưởng thành. Đây là cơ sở để sau này toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, vững tin, dám đánh, biết đánh, quyết đánh và đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Thứ tư, chấm dứt sự đô hộ của chủ nghĩa thực dân Pháp ở ba nước Đông Dương, mở đầu quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới

Chiến thắng Điện Biên Phủ thức tỉnh và cổ vũ các dân tộc bị áp bức trên thế giới vùng lên đấu tranh giành độc lập, tự do; buộc chính quyền Pháp phải chấm dứt chính sách cai trị thực dân, tiến hành trao trả độc lập cho nhiều nước ở châu Á và châu Phi, đồng thời xem xét lại vị thế và các chính sách của mình đối với các nước vốn là thuộc địa cũ. Việt Nam là nước tiên phong, là biểu tượng sáng ngời trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đổ chủ nghĩa thực dân cũ, mở ra trang sử mới cho nhân loại, góp phần làm thay đổi cục diện thế giới. Giuyn Roa, ký giả kiêm sử gia, nguyên Đại tá quân đội viễn chinh Pháp khẳng định: “Trên toàn thế giới, Oatéclô trước đây không gây tiếng vang bằng, Điện Biên Phủ thất thủ gây nỗi kinh hoàng khủng khiếp. Đó là một trong những thảm bại lớn nhất của phương Tây, báo trước sự sụp đổ của các đế quốc thuộc địa và sự cáo chung của một nền cộng hòa”.

Bài học kinh nghiệm

“Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ, anh dũng của quân và dân cả nước ta chống thực dân Pháp xâm lược và sự can thiệp Mỹ. Đây là chiến thắng vĩ đại của Nhân dân ta và cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ càng làm sáng ngời chân lý của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay; chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc nhất định thất bại, cách mạng giải phóng dân tộc nhất định thành công”. Từ thắng lợi vĩ đại này, chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu:

- Một là, xác định đường lối kháng chiến đúng đắn, tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, vừa kháng chiến vừa kiến quốc vừa chống giặc đói, giặc dốt, vừa chống giặc ngoại xâm, tạo nên sức mạnh tổng hợp chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.

- Hai là, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí quyết chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta.

- Ba là, phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, sáng tạo, tìm tòi, xác định đúng đường lối cách mạng và nghệ thuật quân sự Việt Nam.

- Bốn là, xây dựng sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà nòng cốt là liên minh công nhân - nông dân - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

- Năm là, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sự ủng hộ, giúp đỡ của bè bạn quốc tế./.

 

VAI TRÒ CỦA CHÍNH ỦY, CHÍNH TRỊ VIÊN TRONG GIÁO DỤC VÀ ĐẤU TRANH CHỐNG PHỦ NHẬN GIÁ TRỊ THỜI ĐẠI CỦA CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI

 

                                                     

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười không tách rời cuộc đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, trong đó có đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa. Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, đủ mọi kẻ thù lớn tiếng vu cáo Đảng Bôn-sê-vich Nga là “đảo chính”, “tiếm quyền”, là “từ bỏ chủ nghĩa Mác”, “đi chệch” khỏi con đường phát triển chung của thế giới, thậm chí là phản bội chủ nghĩa Mác… Sau sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu, sự chống phá chủ nghĩa xã hội của các thế lực thù địch càng trở nên quyết liệt hơn và trong suốt quá trình từ đó đến nay, các thế lực thù địch luôn công kích, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin với tính cách làm nền tảng lý luận của Đảng Cộng sản.

Đội ngũ chính uỷ, chính trị viên là người chủ trì về chính trị, chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp ủy cấp mình về toàn bộ các hoạt động công tác đảng, công tác chính trị; trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn và tiến hành đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa; trong đó có đấu tranh bác bỏ các luận điệu sai trái, thù địch hòng phủ nhận giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Mười, phủ nhận giá trị chủ nghĩa Mác - Lênin. Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó, chính ủy, chính trị viên cần thực hiện tốt một số nội dung biện pháp sau:

Một là, tích cực giáo dục, nâng cao trình độ lý luận và ý thức trách nhiệm cao trong đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa.

 Đấu tranh bác bỏ các luận điệu sai trái, thù địch hòng phủ nhận giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Mười là một nội dung đấu tranh trên lĩnh vự tư tưởng - văn hóa, đầy  khó khăn và quyết liệt. Bởi lẽ, nội dung vấn đề đấu tranh có nhiều gai góc về lý luận và cả thực tiễn. Nhiều luận điệu sai trái, phản khoa học của các thế lực thù địch có thể thực hiện trắng trợn hoặc có thể được che dấu kín đáo, được ngụy trang dưới những cái vỏ có vẻ “khoa học”, “khách quan”, làm cho mọi người khó nhận biết thực chất và rất khó đấu tranh. Vì thế, phải bằng cơ sở lý luận, thực tiễn đủ sức thuyết phục mới làm rõ mức độ sai lầm về khoa học và phản động về chính trị, phản cách mạng hại dân, hại nước của các quan điểm thù địch, sai trái đó. Mặt khác, do sự bùng nổ của công nghệ thông tin, truyền thông, nên đấu tranh bác bỏ các luận điệu sai trái, thù địch hòng phủ nhận giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Mười đã trở nên hết sức khó khăn và phức tạp, nhất là khi sự công kích của các thế lực thù địch không chỉ diễn ra trên diện rộng mà ngày càng đi vào chiều sâu. Chúng lớn tiếng công kích cho rằng Cách mạng Tháng Mười là một sai lầm của lịch sử, là “quái thai đẻ non, nên dẫn đến chết yểu”; “là sự kết thúc của lịch sử”; “đã chấm dứt một thế kỷ thể nghiệm cộng sản thất bại”…; ra sức khuếch trương cho “tính đúng đắn” của đường lối cải lương tư sản về “sự chuyển hóa dần dần” từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội; cổ súy cho cái gọi là “đa nguyên, đa đảng”, phủ nhận các nguyên tắc mác-xít về Đảng Cộng sản lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa... làm cho tư tưởng hoang mang và hoài nghi về chủ nghĩa xã hội nảy sinh trong không ít cán bộ, đảng viên và quần chúng. Điều đó đòi hỏi đội ngũ chính ủy, chính trị viên vừa phải có trình độ lý luận vừa phải có phẩm chất chính trị, với tinh thần, ý thức trách nhiệm cao, biết khai thác và định hướng những thông tin vào quá trình công tác, giảm thiểu những tác hại của các thông tin xấu. Muốn vậy, đội ngũ chính ủy, chính trị viên phải thường xuyên tự học tập, tự nâng cao trình độ lý luận, có những hiểu biết rộng về các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; đặc biệt những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; bồi dưỡng thế giới quan khoa học, phương pháp luận duy vật biện chứng trong xem xét, giải quyết các vấn đề tư tưởng và có năng lực nghiên cứu dự báo tình hình, nắm chắc âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, chủ động tổ chức cho cán bộ, chiến sĩ đấu tranh vạch trần những âm mưu, thủ đoạn đó.

Hai là, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tinh thần cảnh giác chống âm mưu, thủ đoạn phủ nhận giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Mười cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị.

Giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn hòng phủ nhận giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Mười cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị là một nội dung, biện pháp rất quan trọng của chính uỷ, chính trị viên. Chính uỷ, chính trị viên phải đánh giá đúng nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ đối với âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch để chỉ đạo, tổ chức tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Tập trung giáo dục cho mọi cán bộ, chiến sĩ thấy rõ giá trị và ý nghĩa quốc tế lớn nhất của cách mạng Tháng Mười. Đó là kết quả hợp quy luật của sự phát triển tư tưởng và thực tiễn đấu tranh trong suốt quá trình lịch sử của nhân dân lao động tạo ra bước ngoặt lịch sử của loài người, mở ra một thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới và đối với nước ta, những mốc son trên con đường cách mạng là sự nối tiếp hào hùng của Cách mạng Tháng Mười.

 Giáo dục lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa, truyền thống của Đảng, quân đội và đơn vị; xây dựng tinh thần làm chủ, ý thức kỷ luật tự giác nghiêm minh của “Bộ đội Cụ Hồ”; nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật quân sự, nghiệp vụ, tinh thần cảnh giác cách mạng, nhận rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; xây dựng ý chí quyết tâm trong đấu tranh với kẻ thù theo phương châm: chủ động, kiên quyết, nhạy bén, kịp thời, liên tục, triệt để, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Trong đó lấy xây dựng nội bộ đơn vị trong sạch vững mạnh là nhân tố quyết định; khắc phục tình trạng thụ động, chủ quan, lơ là mất cảnh giác; kiên quyết, kịp thời, triệt để xử lý mọi cá nhân có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) của Đảng.

Ba là, chú trọng xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng cho cán bộ, chiến sĩ và tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ.

Hiện nay, các thế lực thù địch đã và đang tiếp tục tranh thủ lợi thế về kinh tế, khoa học - công nghệ, sử dụng nhiều âm mưu, thủ đoạn mới xuyên tạc, phủ nhận giá trị và ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga. Hơn nữa, từ thực tiễn những năm 90 của thế kỷ XX, các thế lực thù địch đã làm cho Quân đội Liên Xô và các nước Đông Âu - một lực lượng hùng mạnh, trung thành với mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động bị mất phương hướng chính trị, không còn là lực lượng chính trị, công cụ bạo lực sắc bén, tin cậy của Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Do vậy, phải chú trọng xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng cho cán bộ, chiến sĩ và tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ; tang cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội.

Chính ủy, chính trị viên phải đánh giá đúng tình hình tư tưởng của bộ đội, xác định chính xác các biện pháp công tác tư tưởng để kịp thời giáo dục xây dựng và nâng cao bản lĩnh chính trị, không để bị bất ngờ trước những diễn biến tư tưởng của bộ đội. Chỉ đạo tốt công tác tuyên truyền, khuyến khích, động viên cán bộ, chiến sĩ tham gia đấu tranh vạch trần, phản bác những luận điệu sai trái, vô hiệu hóa các luận điệu sai trái của các thế lực thù địch; giữ nghiêm kỷ luật phát ngôn và bảo vệ bí mật của quân đội, Đảng và Nhà nước. Cổ vũ mạnh mẽ các nhân tố tích cực, đẩy lùi các tiêu cực, cái xấu, phòng ngừa những biểu hiện suy thoái về tư tưởng; đồng thời nắm vững phương châm lấy “xây” để “chống”, trong đó đặc biệt chú trọng đến xây dựng, củng cố niềm tin cho cán bộ, chiến sĩ.

Chính ủy, chính trị viên phải chỉ đạo các cơ quan, đơn vị thuộc quyền tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ theo phương châm “giữ vững bên trong”, làm cho nội bộ  thật sự trong sạch vững mạnh không để địch lôi kéo, chia rẽ, lũng đoạn chống phá ta từ bên trong. Kịp thời phát hiện, kiên quyết đấu tranh với các quan điểm tư tưởng sai trái; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Thực hiện tốt việc quản lý chặt chẽ tình hình từng tổ chức, từng quân nhân trong đơn vị. Công tác quản lý phải nắm chắc từng cán bộ, chiến sĩ về mọi mặt, chú trọng việc quản lý về lập trường, quan điểm, thái độ, hành vi chính trị, các mối quan hệ chính trị, xã hội của quân nhân. Hiểu rõ cả hiện tại và quá khứ, chú trọng vào những quân nhân ở bộ phận trọng yếu có hiện tượng tiêu cực, yếu kém về phẩm chất đạo đức, lối sống, có quan hệ chính trị - xã hội phức tạp, các bộ phận hoạt động độc lập, công tác lẻ. Tổ chức tốt việc kiểm tra xác minh để kết luận những trường hợp vi phạm nguyên tắc tuyển chọn theo Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Sĩ quan, kịp thời phát hiện và kiên quyết đưa ra khỏi quân đội những trường hợp không đủ tiêu chuẩn về chính trị. Chấp hành nghiêm các quy định, hướng dẫn của trên về công tác phát triển Đảng, tuyển chọn đi đào tạo sĩ quan, nhân viên chuyên môn kỹ thuật phục vụ quân đội lâu dài. Duy trì nền nếp quản lý, phân loại chính trị chặt chẽ đối với đảng viên, đoàn viên, thực hiện đúng chế độ nắm tình hình và báo cáo tình hình về công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ, chiến sĩ bảo vệ và các cơ sở chính trị vững chắc ở địa phương nơi đóng quân, kết hợp chặt chẽ xây dựng cơ quan, đơn vị an toàn với địa bàn an toàn.

Bốn là, chăm lo xây dựng môi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh ở các đơn vị, tạo sức đề kháng tốt chống lại sự xâm nhập của văn hóa xấu độc.

Môi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh ở các đơn vị có vai trò rất quan trọng tạo ra “bức tường lửa” để đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Chính uỷ, chính trị viên phải thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện cho mọi cán bộ, chiến sĩ có lập trường chính trị tư tưởng vững vàng, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào cũng không dao động, bi quan, luôn kiên định, vững vàng với con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn - con đường Cách mạng Tháng Mười. Thường xuyên xây dựng phẩm chất đạo đức, lối sống trong sạch lành mạnh, phù hợp với các chuẩn mực văn hóa, đạo đức của “Bộ đội Cụ Hồ”. Xây dựng và thực hiện tốt các mối quan hệ ứng xử văn hóa lành mạnh trong đơn vị, làm cho các mối quan hệ này thực sự chuẩn mực, thấm đậm tính nhân văn, tình thân ái đồng chí, đồng đội, tình quân dân “cá nước”. Thường xuyên chăm lo xây dựng nếp sống văn hóa, thực hiện tốt yêu cầu chính quy, đảm bảo doanh trại xanh, sạch, đẹp và duy trì các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, vui chơi giải trí trong các ngày nghỉ, giờ nghỉ ở đơn vị. Xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh ở đơn vị trong toàn quân gắn với thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, công hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”; tạo sự chuyển biến rõ nét về nhân cách quân nhân theo các chuẩn mực “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới; chú trọng xây dựng, nhân rộng điển hình tiên tiến; gắn thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí minh với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII). Tăng cường kiểm tra sách, báo, băng hình, băng đĩa nhạc và phối kết hợp chặt chẽ với chính quyền và các cơ quan chức năng của địa phương nơi đóng quân làm tốt công tác ngăn chặn, truy quét các sản phẩm có nội dung tư tưởng xấu độc, các tệ nạn say rượu, bia và số đề, cờ bạc, cá độ, mê tín dị đoan, ma túy… có thể xâm nhập vào đơn vị.

Chính ủy, chính trị viên cần chỉ đạo xây dựng đơn vị thành “điểm sáng văn hóa” ở nơi đóng quân, mỗi quân nhân là một “chiến sĩ văn hóa” ở khu vực, giúp đỡ địa phương xóa mù chữ, tuyên truyền nếp sống văn hóa, giáo dục y tế cộng đồng, xây dựng gia đình văn hóa, đẩy mạnh các hoạt động xóa đói, giảm nghèo, chủ động, tích cực tuyên truyền vận động nhân dân chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và thấy rõ những lý tưởng nhân văn, nhân đạo cao cả của Cách mạng Tháng Mười đã được toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta hiện thực hóa với nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa./.

VẤN ĐỀ XÃ HỘI QUAN TÂM: BÍ THƯ TỈNH ỦY BẮC GIANG DƯƠNG VĂN THÁI BỊ BẮT TẠM GIAM!

     Bí thư Bắc Giang Dương Văn Thái bị bắt, bị tạm đình chỉ nhiệm vụ đại biểu Quốc hội!

Ông Dương Văn Thái, Bí thư Bắc Giang bị bắt giam và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tạm đình chỉ nhiệm vụ đại biểu Quốc hội đối với ông.
Tổng thư ký Quốc hội Bùi Văn Cường vừa phát đi thông cáo báo chí cho hay: Ngày 26-4, căn cứ quy định của pháp luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 1046/NQ-UBTVQH15 đồng ý đề nghị của Viện trưởng VKSND Tối cao về việc khởi tố, bắt tạm giam, khám xét nơi ở, nơi làm việc đối với ông Dương Văn Thái, đại biểu Quốc hội khóa XV theo quy định của pháp luật.

Đồng thời, tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội đối với ông Dương Văn Thái, đại biểu Quốc hội khóa XV kể từ ngày có quyết định khởi tố bị can.

Ông Dương Văn Thái, sinh năm 1970, quê Bắc Giang. Ông là Tiến sĩ Kinh tế, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang khóa XV.

Ông Dương Văn Thái làm Bí thư Bắc Giang từ năm 2020.

Từng là cán bộ Phòng Văn hóa, Thông tin, Thể dục thể thao thị xã Bắc Giang, quá trình công tác, ông Dương Văn Thái trải qua nhiều vị trí: Phó, sau đó là Trưởng Chi cục Thuế thị xã Bắc Giang; Phó Chủ tịch, Chủ tịch UBND TP Bắc Giang; Phó Chủ tịch, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang và năm 2020 ông là Bí thư Bắc Giang./.
Môi trường ST.

 THAY CÁN BỘ NHƯNG KHÔNG ĐỔI ĐƯỜNG LỐI

Nhiều cán bộ đảng viên, có cả cán bộ cấp cao trong bộ máy Đảng và Nhà nước ta do thoái hóa, biến chất, tham nhũng đã bị xử lý kỷ luật, cho thôi giữ các chức vụ.
Với tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, trong thời gian qua, nhiều cán bộ đảng viên, trong đó có cả cán bộ cấp cao trong bộ máy Đảng và Nhà nước ta do thoái hóa, biến chất, tham nhũng đã bị xử lý kỷ luật, cho thôi giữ các chức vụ.
Ngày 26/4/2024, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đồng ý cho ông Vương Đình Huệ thôi giữ các chức vụ: Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV, nhiệm kỳ 2021 – 2026 do đã vi phạm quy định về những điều đảng viên không được làm, quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và chịu trách nhiệm người đứng đầu theo các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Trước đó, vào ngày 20/3/2024, Ban Chấp hành Trung ương Đảng cũng đã đồng ý để ông Võ Văn Thưởng thôi giữ các chức vụ: Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh nhiệm kỳ 2021 – 2026 do đã vi phạm quy định về những điều đảng viên không được làm, quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và chịu trách nhiệm người đứng đầu theo các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Việc thay đổi nhân sự trong bộ máy lãnh đạo, quản lý là công việc bình thường của các quốc gia trên thế giới. Tại Việt Nam, trong mấy năm gần đây, thực hiện công cuộc chống “giặc nội xâm”, chúng ta đã cương quyết loại bỏ, đưa ra khỏi đội ngũ nhiều cán bộ thoái hóa, biến chất, tham nhũng, tiêu cực. Trong số này có cả Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng, cán bộ cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Việc loại khỏi đội ngũ những cán bộ thoái hóa biến chất như “chặt một cành sâu mọt để cứu cả cây”, “chặt một cây nhiễm bệnh để cứu cả rừng cây” với mục đích duy nhất là để Đảng ta trong sạch hơn, lãnh đạo đất nước tốt hơn, tăng thêm niềm tin của người dân với Đảng cầm quyền.
Tuy nhiên, lợi dụng các vụ việc trên, các thế lực thù địch đã và đang lợi dụng mạng xã hội, báo chí nước ngoài xuyên tạc, thổi phồng, bôi đen sự thật, với luận điệu cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam đang có sự thanh trừng, đấu đá nội bộ”; “ Việt Nam đang mất ổn định chính trị”… Chúng còn dự đoán “sắp tới ai sẽ lên… thớt”… Những thông tin này lại được một số người hiếu kỳ trong nước chuyển tiếp cho người khác, gây ra sự băn khoăn, trăn trở, lo lắng trong dư luận xã hội trong những ngày toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta hân hoan chào đón ngày Chiến thắng 30/4, kỷ niệm Ngày Quốc tế Lao động 1/5 và 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ.
Có điều chắc chắn rằng, dù có thay đổi một số vị trí cán bộ, nhưng nền tảng tư tưởng của Đảng ta vẫn không thay đổi. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Cán bộ dù có thay đổi nhưng đường lối của Đảng ta, Cương lĩnh chính trị của Đảng ta vẫn không thay đổi. Bản chất của Nhà nước của chúng ta của dân, do dân và vì dân vẫn không thay đổi.
Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo tổ chức thực hiện gần 40 năm qua là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.
Thực tiễn phong phú và sinh động của cách mạng Việt Nam từ ngày có Đảng đến nay đã chứng tỏ, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Thông qua quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta được tôi luyện và ngày càng trưởng thành, xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng và sự tin cậy, kỳ vọng của Nhân dân. Thực tiễn đó khẳng định: Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Tuyệt đại đa số người dân Việt Nam, cán bộ đảng viên, và kiều bào ta ở nước ngoài hôm nay đang đặt một niềm tin tuyệt đối vào quyết tâm chính trị, vào đường lối cách mạng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa – Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Thành quả cách mạng mà chúng ta phải đánh đổi bằng biết bao xương máu của đồng bào, chiến sĩ người con đất Việt đã hy sinh trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc để chúng ta có được hoà bình, thống nhất, độc lập và những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước để có cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín của Việt Nam hôm nay chúng ta phải quyết giữ gìn.
Người dân Việt Nam hôm nay đang vững một niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng bởi lẽ đó cũng là vận mệnh của Tổ quốc, đất nước mình. Được Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, trải qua 94 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Đảng không có lợi ích nào khác đó là vì đất nước phồn thịnh, vì hạnh phúc nhân dân. Lợi ích của quốc gia, dân tộc luôn được đặt lên trên hết, trước hết. Việc xử lý cán bộ cấp cao, thay đổi cán bộ nhưng không ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị của đất nước, bởi lẽ, đường lối cách mạng của Đảng ta đã xác định trong Cương lĩnh, Nghị quyết của Đảng, Hiến Pháp của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công khai, minh bạch, đúng đắn, ổn định, kế thừa qua các giai đoạn cách mạng, đặc biệt là những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua gần 40 năm đổi mới đất nước. Thực tế Việt Nam hôm nay đang là một đất nước hoà bình, phát triển, ổn định về chính trị, là bạn, là đối tác tin cậy của các quốc gia trên toàn cầu, vì mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

 KHÔNG MẮC MƯU CỦA ĐỊCH, KHÍ PHÁCH CỦA QUÂN ĐỘI ANH HÙNG

1. Trong bối cảnh quốc tế đặc biệt phức tạp hiện nay, Đảng ta, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và nhân dân ta vẫn nhất quán khẳng định lập trường, quan điểm, mục tiêu, con đường đi lên CNXH ở nước ta. Đó là quyết tâm chính trị rất lớn của Đảng, của đồng chí Tổng Bí thư; phản ánh tính đúng đắn, sáng tạo và sự nhất quán về đường lối đổi mới, đi lên CNXH mà Đảng ta đã khẳng định trong Văn kiện Đại hội XIII. Đồng thời, khẳng định rõ tình đoàn kết, sự chung sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu mà Đảng ta đã xác định để xây dựng quốc gia Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Thế nhưng, lợi dụng việc Đảng, Nhà nước ta tổ chức một số hội nghị bất thường để giải quyết các công việc phát sinh nhằm sớm ổn định tình hình, tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, bổ sung, hoàn thiện đường lối đổi mới; ban hành các quyết sách về phát triển kinh tế - xã hội; một số người lại nghĩ sai trái về điều ấy, cố tình đồn thổi, đẩy tình hình đi sang hướng khác, gây bất lợi cho Đảng. Họ xuyên tạc rằng, “Việt Nam đã rơi vào khủng hoảng trầm trọng”, “chính trị rối ren”, “con đường đi lên CNXH chỉ còn lại lời nói”, “Việt Nam đã đổi hướng, đổi màu”, “không thể thực hiện mục tiêu, con đường đi lên CNXH, vì nội bộ Đảng đang đấu đá nhau”... Hơn thế, một số người còn cho rằng, “Việt Nam đã “quay xe”, quyết định đi theo Mỹ và phương Tây”, “đã lựa chọn con đường TBCN”, “sắp gia nhập EU và khối NATO để khắc phục nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế” và các nguy cơ khác.
Theo đó, Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ từ bỏ chính sách quốc phòng “bốn không”, bởi “Việt Nam đã chọn phe”, “đi theo Mỹ và phương Tây”. Nhiều người còn cho rằng, quyết sách của Việt Nam là hợp lý vì Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đích thân mời Tổng Mỹ J. Biden đến thăm Việt Nam vào nửa đầu tháng 9 năm 2023. Do đó, “Việt Nam đã quên quá khứ”; “chỉ hướng đến tương lai”, không còn coi Mỹ là “kẻ thù truyền kiếp”.
2. Những câu chuyện nêu trên thật khôi hài và nực cười, là sự bịa đặt xảo trá, mang tính chủ quan, chỉ là ý kiến của một số người có quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước ta. Nó chỉ dựa vào một vài sự kiện cụ thể có thật để đồn thổi, khuếch đại, biến “con muỗi thành con voi”, gieo rắc sự hoài nghi, bi quan, chán ngán về CNXH do Đảng ta lãnh đạo.
Điều nguy hiểm nhất là nó xuất hiện trước ngày Đảng ta tổ chức Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII để bàn nhiều vấn đề quan trọng về bổ sung, hoàn thiện lý luận về đường lối đổi mới, chuẩn bị các Văn kiện trình Đại hội lần thứ XIV của Đảng. Đây là những quan điểm sai trái nhằm chỉ trích, xuyên tạc quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng ta một cách cực đoan về CNXH, phủ nhận hệ giá trị tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Qua đó, tạo ra dư luận xấu về CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng, làm nhụt ý chí phấn đấu của quân và dân ta. Sự thâm thù, nguy hiểm của các luận điểm sai trái nêu trên là nó được tán phát vào trước và sau lúc Đảng, Nhà nước ta tổ chức các hội nghị thường niên để bàn luận và ban hành quyết sách mới nhằm thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu, nhiệm vụ của năm 2024 - năm bản lề thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và chuẩn bị Đại hội lần thứ XIV của Đảng.
3. Lấy cớ và thổi phồng một số hạn chế, khuyết điểm trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, đặc biệt là công tác nhân sự của Đảng, Nhà nước thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đang chĩa “nòng súng” vào việc xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng ta; phủ nhận mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của của Đảng và nhân dân ta. Cùng với đó, họ lợi dụng sự kiện có thật là Tổng thống J. Biden đến thăm Việt Nam cũng như nâng cấp mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước để đẩy mạnh chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN ở nước ta.
Phải nói cho rõ rằng, ở Việt Nam không bao giờ có chuyện “quay xe”, “đổi hướng”, “đổi màu”; các thế lực thù địch đừng hòng lợi dụng sự kiện nêu trên để phá hoại niềm tin của nhân dân ta vào Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN.
Rõ ràng, việc phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là sự thất bại cay đắng của các thế lực thù địch và bọn theo đuôi kẻ xấu. Nhân dân Việt Nam đã nhận diện rõ bộ mặt thật của các thế lực phản động. Đằng sau chiêu trò “ném đá giấu tay” là mưu đồ đen tối: chống phá, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng; xuyên tạc, bóp méo tính ưu việt của CNXH ở Việt Nam; cản trở nhân dân ta thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; lái nước ta đi theo con đường TBCN có lợi cho kẻ xấu.
Cần nói cho rõ rằng, việc nâng cấp mối quan hệ từ đối tác toàn diện thành đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ có tính lịch sử và nguyên tắc của nó; có lợi cho hai nước, hai dân tộc. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta không bao giờ từ bỏ mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Chúng ta đã đổ máu, hy sinh qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược để bảo vệ vững chăc từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc nên mới có được thành quả cách mạng ngày nay. Những việc làm của Đảng ta đều vì lợi ích quốc gia - dân tộc; vì hạnh phúc của nhân dân.
4. Ai đó cho rằng, việc nâng cấp mối quan hệ từ đối tác toàn diện thành đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ… là Việt Nam đã đổi hướng, đổi màu, đi theo con đường TBCN là vô căn cứ, hoàn toàn không đúng. Đó là mưu toan bóp méo sự thật đầy tính vu khống, cáo buộc cần phải loại bỏ.
Những người tuyên bố “giã từ CNXH” để đi theo CNTB, đi theo con đường của “các nước lớn”, “các nước phát triển” ở phương Tây đã trải qua với hy vọng Việt Nam mau chóng trở thành “con hổ, con rồng châu Á” chỉ là ý muốn chủ quan của họ; nó hoàn toàn sai lầm, xa lạ với Việt Nam. Đối với nhân dân ta, đi theo con đường CNXH mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là thực hiện chủ nghĩa nhân đạo hiện thực, bởi vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sự khái quát cao nhất cái đẹp của cuộc sống, hạnh phúc của con người, là sự chung đúc tất cả lý tưởng giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội.
Ai đó cố tình kiếm cớ, viện dẫn chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ cùng với việc hai nước nâng cấp từ đối tác toàn diện lên đối tác chiến lược toàn diện để xuyên tạc bản chất của CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, đương nhiên, họ đã đi ngược lại lợi ích của quốc gia - dân tộc Việt Nam.
Nhận thức rõ bối cảnh hiện thời là rất phức tạp, nhưng trước sau như một, Đảng, Nhà nước ta, Quân đội ta đã và đang làm mọi cách với nhiều biện pháp khả thi, tốt nhất, chắc chắn nhất để đưa đất nước ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức để tiến lên. Vì vậy, cán bộ, chiến sĩ Quân đội và nhân dân Việt Nam không bao tin vào sự đồn nhảm, sự xuyên tạc, bôi đen sự thật của các thế lực thù địch và đương nhiên không giờ tha thứ cho “những kẻ chọc gậy bánh xe”, chống phá sự nghiệp đổi mới, xây dựng CNXH, phát triển đất nước vì hòa bình, phồn vinh, hạnh phúc của nhân dân ta.
Tán phát quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc sự thật là vi phạm Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam, kẻ xấu nhất định sẽ bị trừng trị đích đáng. Vượt lên trên hết thảy mọi khó khăn, phức tạp, quyền tối cao quyết định vận mệnh quốc gia, sự thành công của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, của cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước ta./.