Thứ Tư, 2 tháng 10, 2024

THỰC HIỆN NGHIÊM NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ ĐỂ BẢO ĐẢM CÔNG TÁC CÁN BỘ ĐẠT CHẤT LƯỢNG TỐT

  Sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Hồ Chí Minh rất chú trọng nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng Đảng và hoạt động lãnh đạo của Đảng. Trong quá trình phát triển, Đảng ta luôn thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ, nên đã đạt được những kết quả quan trọng, song việc thực hiện nguyên tắc này ở một số tổ chức đảng còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Để xây dựng được đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc và thực hiện nghiêm nguyên tắc đặc biệt quan trọng này.

1. Mở đầu.
Ngay từ khi thành lập Đảng và trong suốt quá trình lãnh đạo Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trung thành và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về đảng cộng sản, trong đó đặc biệt chú trọng việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng. Hồ Chí Minh đề cập đến nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc Đảng đề ra và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương; là nguyên tắc tổ chức cơ bản, chi phối sâu sắc các mặt công tác và hoạt động, trong đó có công tác cán bộ của Đảng. Thực hiện nghiêm nguyên tắc này là cơ sở để ra quyết định, chủ trương đúng và thực hiện tốt công tác cán bộ.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng ta về nguyên tắc tập trung dân chủ.
Trong các bài viết, bài nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng phổ biến khái niệm “dân chủ tập trung”, đó là phong cách ngôn ngữ dịch trong thời kỳ đó và từ cuối năm 1959, Người dùng khái niệm “nguyên tắc tập trung dân chủ”. Qua các trình bày, giải thích của Hồ Chí Minh thấy rõ, quan điểm của Người về bản chất, nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ là sự quán triệt sâu sắc quan điểm về nguyên tắc tập trung dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung. Nghĩa là: có Đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương”. Người giải thích cụ thể: “có việc gì thì ai cũng được bàn, cũng phải bàn. Khi bàn rồi thì bỏ thăm, ý kiến nào nhiều người theo hơn thì được. Ấy là dân chủ. Đã bỏ thăm rồi, thì giao cho hội ủy viên làm, khi ấy thì tất cả hội viên phải theo mệnh lịnh hội ấy. Ấy là tập trung”. Người chỉ rõ sự thống nhất giữa dân chủ và tập trung trong nguyên tắc tập trung dân chủ: “Tập trung trên nền tảng dân chủ... Dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung”; “Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau... Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung”.
Về vai trò, tầm quan trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ, Người khẳng định: “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”. Đối với Đảng, nếu các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên nhận thức đúng, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ thì Đảng ngày càng vững mạnh, thống nhất cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động, để “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”.
Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức được khẳng định ngay từ Điều lệ đầu tiên của Đảng và được khẳng định nhất quán. Nhờ được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, Đảng đã phát huy được trí tuệ của toàn Đảng để đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn, nội bộ Đảng đoàn kết, tổ chức chặt chẽ, hoạt động thông suốt, lãnh đạo dân tộc Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đảng ta tổng kết: “Sự chặt chẽ về nguyên tắc là vấn đề sống còn của Đảng và bảo đảm quan trọng nhất cho sức sống, sự trong sạch và vững mạnh của Đảng”.
Điều lệ Đảng do Đại hội XI của Đảng thông qua tiếp tục khẳng định: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”. Điều 9 Điều lệ Đảng (Đại hội XI) đã xác định những nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ gồm: “1 - Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; 2 - Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc; cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên; giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ; 3 - Cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình; 4 - Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng; thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương; 5 - Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành; trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình; đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng; cấp ủy có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số; 6 - Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên”.
Các nội dung đó chi phối, điều chỉnh hoạt động lãnh đạo của Đảng và tất cả các hoạt động trong nội bộ Đảng. Tổ chức đảng nào thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ thì đoàn kết thống nhất, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao; trái lại, tổ chức đảng nào không thực hiện nghiêm nguyên tắc thì nội bộ sẽ mất đoàn kết, suy giảm năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, có thể dẫn đến các vi phạm, làm tổn hại đến sức mạnh và uy tín của Đảng. Thực tế thời gian qua cho thấy, hầu hết các tổ chức đảng, cán bộ bị xử lý kỷ luật đều do vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ.
3. Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ thời gian qua.
Với vai trò, trách nhiệm của Đảng cầm quyền, Đảng thực hiện sự lãnh đạo đối với công tác cán bộ của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị”. Do trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đều có tổ chức đảng, các tổ chức đảng ấy đều thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, nên thông qua các tổ chức đảng này, nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ được áp dụng ở tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, trước yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp từ trung ương đến cơ sở, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt, có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giữ vững độc lập tự chủ, đi lên CNXH; trên cơ sở các nguyên tắc được xác định trong Điều lệ Đảng và xuất phát từ thực trạng công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tập trung chỉ đạo nghiên cứu, ban hành nhiều nghị quyết, quyết định, quy chế, quy định để cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ, góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thực hiện.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chú trọng chỉ đạo việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống các quy chế làm việc của các cơ quan lãnh đạo đảng (cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, đảng đoàn, ban cán sự đảng), trong đó xác định rõ thẩm quyền của tập thể lãnh đạo, trách nhiệm của cá nhân cán bộ lãnh đạo, mối quan hệ công tác giữa cơ quan lãnh đạo với cấp ủy, cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy cấp trên; với cơ quan lãnh đạo đảng cấp dưới trực tiếp; với các tổ chức đảng có liên quan; v.v..
Các quy chế làm việc này là văn bản thể hiện cụ thể nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của cơ quan lãnh đạo đảng, trong đó có công tác cán bộ; là căn cứ để kiểm tra, giám sát và kết luận, xử lý vi phạm (nếu có), khắc phục tình trạng chung chung, mơ hồ về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Quy định số 114-QĐ/TW ngày 11-7-2023 của Bộ Chính trị “Về kiểm soát quyền lực và phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ” giúp cho việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ được nghiêm túc, chặt chẽ hơn.
Đồng thời, để đề cao vai trò của cá nhân người đứng đầu trong công tác cán bộ, ngày 23-4-2024, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 142-QĐ/TW thí điểm giao quyền, trách nhiệm cho người đứng đầu trong công tác cán bộ, gồm: giới thiệu nhân sự bầu cử, bổ nhiệm cấp phó của người đứng đầu; bầu bổ sung ủy viên ban thường vụ cấp ủy cùng cấp; bổ nhiệm, miễn nhiệm cấp trưởng cấp dưới trực tiếp thuộc thẩm quyền quản lý. Tuy nhiên, người đứng đầu chỉ giới thiệu nhân sự, còn thẩm quyền quyết định vẫn thuộc về tập thể cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị theo nguyên tắc tập trung dân chủ; đây là chủ trương thí điểm, người đứng đầu có thể thực hiện hoặc không thực hiện thẩm quyền này và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng được quy định trong Điều lệ Đảng đã cơ bản bảo đảm tính bao quát, toàn diện, đầy đủ và phù hợp... các nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng quy định trong Điều lệ Đảng và các quy định, hướng dẫn của Trung ương đã được các cấp ủy, tổ chức đảng tuân thủ và thực hiện nghiêm túc” Để bảo đảm ngăn chặn kịp thời các tác động tiêu cực, gây cản trở việc xem xét, xử lý vi phạm đối với cán bộ, ngày 23-5-2024, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định 148-QĐ/TW về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, việc tạm đình chỉ công tác chỉ là việc buộc cán bộ dừng thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao trong thời hạn nhất định, không phải là hình thức kỷ luật; việc xử lý kỷ luật đối với cán bộ vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật vẫn thuộc thẩm quyền của tập thể cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra của cấp ủy theo quy định của Điều lệ Đảng.
Hầu hết các cấp ủy, tổ chức đảng đã quán triệt, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ. Do đó, các chủ trương về công tác cán bộ và việc thực hiện các khâu trong công tác cán bộ được các cấp ủy, tổ chức đảng bàn bạc, thảo luận dân chủ và quyết định theo đa số.
Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng được quy định trong Điều lệ Đảng đã cơ bản bảo đảm tính bao quát, toàn diện, đầy đủ và phù hợp... các nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng quy định trong Điều lệ Đảng và các quy định, hướng dẫn của Trung ương đã được các cấp ủy, tổ chức đảng tuân thủ và thực hiện nghiêm túc”.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, Đảng ta đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động lãnh đạo nói chung, trong công tác cán bộ nói riêng. Hội nghị Trung ương 4 khóa XI nêu: “Nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân; khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm; tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân”.
Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số tổ chức đảng còn chưa nghiêm, thậm chí vi phạm”; “Nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số cấp ủy, tổ chức đảng thực hiện chưa nghiêm, thậm chí có nơi còn vi phạm nghiêm trọng… Một bộ phận cấp ủy viên chưa nắm vững và chấp hành nghiêm Điều lệ Đảng, vi phạm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng; thực hiện chưa đầy đủ trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn của đảng viên và của cấp ủy viên”.
Những biểu hiện vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ thường thấy là: một số người đứng đầu lợi dụng việc nguyên tắc này có nội dung chưa được quy định cụ thể, nhất là về mối quan hệ, trách nhiệm giữa tập thể, cá nhân người đứng đầu, chưa có chế tài trách nhiệm của cá nhân khi xảy ra sai phạm để áp đặt, thực hiện ý muốn của cá nhân mình, dẫn đến việc bổ nhiệm, bố trí cán bộ không trong sáng, “thần tốc”, cục bộ địa phương, vì “nhóm lợi ích”… quá trình thực hiện đúng quy trình, thủ tục, nhưng bổ nhiệm không đúng người, để lọt người không xứng đáng hoặc để sót người xứng đáng, một số cán bộ sau khi đã chuyển công tác, nghỉ công tác bị phát hiện có sai phạm, thậm chí bị xử lý hình sự.
4. Giải pháp để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ.
Một là, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp ủy viên, thành viên đảng đoàn, ban cán sự đảng, cán bộ, đảng viên về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, chỉ đạo toàn bộ công tác tổ chức và hoạt động của Đảng, đồng thời có quan hệ mật thiết với các nguyên tắc tổ chức và hoạt động khác của Đảng. Công tác cán bộ là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng nên việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ có ý nghĩa, vai trò hết sức quan trọng, phải được nhận thức đúng để có hành động đúng, phải thống nhất về nhận thức để có sự thống nhất trong hành động.
Tiếp tục quán triệt sâu rộng đến các cấp ủy, tổ chức đảng và toàn thể cán bộ, đảng viên những quy định của Điều lệ Đảng; các nghị quyết của Đại hội Đảng; các nghị quyết, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương; các nghị quyết, kết luận, chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư liên quan đến nguyên tắc tập trung dân chủ và công tác cán bộ. Trên cơ sở nhận thức đầy đủ, sâu sắc, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp xác định rõ trách nhiệm của mình trong thực hiện nghiêm nguyên tắc; định kỳ kiểm điểm việc thực hiện nguyên tắc, thẳng thắn chỉ ra những biểu hiện lệch lạc, vi phạm nguyên tắc để kịp thời chấn chỉnh, khắc phục. Chú trọng việc rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy chế làm việc của cấp ủy, đảng đoàn, ban cán sự đảng, nhất là những quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể cấp ủy, tập thể ban thường vụ cấp ủy, tập thể đảng đoàn, ban cán sự đảng và bí thư, phó bí thư cấp ủy, đảng đoàn, ban cán sự đảng; của cấp ủy viên, thành viên đảng đoàn, ban cán sự đảng đồng thời là người đứng đầu cơ quan nhà nước; về các chế độ thông tin, báo cáo, giải trình.
Cán bộ, đảng viên cần nhận thức đầy đủ tầm quan trọng, yêu cầu cấp bách và nội dung của việc thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ, từ đó vừa tự giác thực hiện đúng, vừa góp phần cùng tổ chức đảng thực hiện nghiêm nguyên tắc.
Hai là, cụ thể hóa, quy chế hóa nội dung nguyên tắc tập trung dân chủ trong các khâu của công tác cán bộ.
Cũng như mọi nguyên tắc, nguyên tắc tập trung dân chủ mang tính khái quát, trừu tượng. Khi đã khẳng định vai trò của nguyên tắc và trách nhiệm phải thực hiện nghiêm nguyên tắc và có quan điểm, chủ trương đúng đắn, cần có cách thức, quy trình, biện pháp nhằm thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong từng khâu của công tác cán bộ, tránh sai phạm.
Mặc dù Điều lệ Đảng đã xác định các nội dung của nguyên tắc, Ban Chấp hành Trung ương đã có các hướng dẫn thi hành Điều lệ Đảng và Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ trong các quy định, nhưng vẫn không thể quy định cụ thể, chi tiết cho từng tổ chức đảng ở từng cấp, từng lĩnh vực. Vì vậy, trên cơ sở các quy định của Trung ương, các cấp ủy, tổ chức đảng cần vận dụng, cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ phù hợp với thẩm quyền của cấp mình và đặc điểm đội ngũ cán bộ ở địa phương, cơ quan, đơn vị để bảo đảm công tác cán bộ được thực hiện đúng nguyên tắc nhưng không máy móc.
Để công tác cán bộ được thực hiện thống nhất, nền nếp, tránh tùy tiện, cần tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh các quy chế, quy định đối với từng khâu trong công tác cán bộ. Trong các quy chế, cùng với việc hoàn thiện quy trình, thủ tục thực hiện, cần quy định rõ trách nhiệm của từng chủ thể: tập thể ban chấp hành, tập thể ban thường vụ, bí thư, ủy ban kiểm tra, ban tổ chức của cấp ủy; cấp ủy viên phụ trách tổ chức đảng cấp dưới. Đối với những việc dễ xảy ra sai phạm, cần quy định chế tài xử lý vi phạm để phòng ngừa từ sớm, từ xa. Rút kinh nghiệm từ thực tế một số nơi thực hiện đúng quy trình nhưng vẫn không lựa chọn, bổ nhiệm đúng cán bộ để hoàn thiện các quy chế về công tác cán bộ.
Ba là, mở rộng dân chủ, đồng thời xác định rõ trách nhiệm của tập thể lãnh đạo và các cán bộ có trách nhiệm trong công tác cán bộ.
Thực chất của nguyên tắc tập trung dân chủ là hướng tới sự tập trung, thống nhất trên cơ sở dân chủ, sau khi đã thảo luận một cách thật sự dân chủ, không phải là tập trung quan liêu, tập trung độc đoán. Theo đó, trong công tác cán bộ, cần mở rộng và phát huy mạnh mẽ dân chủ trong tổ chức đảng. Thực hiện công khai các quy định của Đảng và Nhà nước về cán bộ và công tác cán bộ, công khai tiêu chuẩn từng loại cán bộ, công khai quy hoạch cán bộ, công khai kê khai tài sản và thu nhập của cán bộ theo quy định…
Trong quá trình xây dựng các văn bản, chủ trương về công tác cán bộ, cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy thực hiện dân chủ thật sự, tạo điều kiện để các cấp ủy viên, ủy viên ban thường vụ cấp ủy phát biểu thẳng thắn ý kiến của mình, trao đổi kỹ lưỡng, có thể yêu cầu bí thư cấp ủy, ban tổ chức và ủy ban kiểm tra của cấp ủy cung cấp thêm thông tin, giải trình các dư luận về cán bộ (nếu có); chỉ khi đã thảo luận, làm rõ mọi khía cạnh mới tiến hành biểu quyết; nếu thấy chưa có đủ căn cứ xác đáng, ý kiến của các thành viên còn nhiều khác nhau, thì có thể để lại xem xét sau, chưa biểu quyết quyết định.
Từng cấp ủy viên, ủy viên ban thường vụ cấp ủy phải phát huy đầy đủ trách nhiệm trong tập thể lãnh đạo khi thảo luận, quyết định các vấn đề về công tác cán bộ và quyết định đối với cán bộ. Muốn vậy, mỗi thành viên trong tập thể cấp ủy phải nắm vững các chủ trương, quy định của Đảng về công tác cán bộ; có kiến thức nhất định về các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực mà cán bộ xem xét bổ nhiệm đang công tác; phản ánh kịp thời, đầy đủ, chính xác, trung thực đến cấp có thẩm quyền những nội dung có liên quan đến nhân sự thuộc thẩm quyền được phân công theo dõi, quản lý; có thái độ thật sự công tâm, khách quan, trong sáng, không cục bộ, “lợi ích nhóm”; có dũng khí bảo vệ cán bộ tốt và mạnh dạn chỉ ra những hạn chế, biểu hiện chưa xứng đáng của cán bộ được xem xét đưa vào quy hoạch, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử; am hiểu đối tượng cán bộ thuộc thẩm quyền cấp ủy quản lý; lắng nghe dư luận của cán bộ, công chức trong cơ quan, đơn vị và nhân dân về cán bộ và công tác cán bộ; v.v..
Để phát huy dân chủ và đồng thời với mở rộng dân chủ, cần xác định rõ trách nhiệm của cấp ủy và cán bộ có trách nhiệm trong công tác cán bộ, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu. Bí thư cấp ủy, đảng đoàn, ban cán sự đảng là người chủ trì việc thực hiện dân chủ trong tập thể lãnh đạo, nên cần có ý thức đầy đủ về phát huy trí tuệ tập thể trong công tác cán bộ, chỉ đạo chuẩn bị đầy đủ các thông tin cần thiết phục vụ việc thảo luận trong tập thể lãnh đạo; triệu tập đủ và đúng thành phần khi họp bàn về công tác cán bộ; bố trí đủ thời gian; bảo đảm dân chủ trong thảo luận, ghi phiếu biểu quyết, phiếu giới thiệu, phiếu tín nhiệm đúng quy định; động viên các thành viên phát biểu đầy đủ, thẳng thắn ý kiến của mình; không áp đặt ý kiến cá nhân cho tập thể; kết luận trung thành với ý kiến của đa số và thực hiện đúng quy định về bảo lưu ý kiến của thành viên có ý kiến khác; báo cáo đầy đủ các ý kiến khác nhau trong thảo luận với cấp ủy cấp trên.
Thực hiện nghiêm túc Quy định số 114-QĐ/TW ngày 11-7-2023 của Bộ Chính trị về việc kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ. Bí thư cấp ủy, đảng đoàn, ban cán sự đảng chịu trách nhiệm của người đứng đầu; các thành viên cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo chịu trách nhiệm khi để xảy ra tiêu cực, sai phạm trong công tác cán bộ ở địa phương, cơ quan, đơn vị, lĩnh vực thuộc thẩm quyền được giao phụ trách; người đứng đầu các cơ quan tham mưu, cán bộ tham mưu thực hiện đầy đủ trách nhiệm trong công tác cán bộ theo quy định, nhất là khi để xảy ra tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ.
Bốn là, tập trung tháo gỡ các vướng mắc, chỉ đạo thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong các công việc, các khâu có nhiều vấn đề phức tạp.
Công tác cán bộ có nhiều nội dung, nhiều khâu có mối liên hệ, gắn bó mật thiết với nhau, làm cơ sở cho nhau, thực hiện không tốt một nội dung, một khâu sẽ dẫn đến kết quả công tác cán bộ không đạt yêu cầu. Thực tế cho thấy, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong một số công việc, một số khâu còn có những vấn đề vướng mắc và thường xảy ra vi phạm, như: đánh giá cán bộ, bổ nhiệm cán bộ, quản lý cán bộ. Do vậy, cần tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để xác định rõ định hướng giải quyết các vấn đề đặt ra, các khó khăn, vướng mắc và tập trung hoàn thiện, bổ sung các quy chế, quy định để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong những khâu dễ xảy ra sai phạm.
Trong những năm qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có chủ trương, thực hiện nhiều thí điểm trong công tác cán bộ. Vấn đề hiện nay là chỉ đạo tổ chức thực hiện khẩn trương, có chất lượng các thí điểm này và sớm tổng kết, kết luận để hình thành chủ trương chính thức, áp dụng rộng rãi gắn với những vấn đề mới trong tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, nhất là việc sắp xếp lại các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã; xây dựng chính quyền đô thị; thực hiện chuyển đổi số quốc gia; v.v..
Năm là, tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm tổ chức, cá nhân vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất đề cao việc kiểm tra, kiểm soát cán bộ: “phải luôn luôn kiểm soát cán bộ”; “Có kiểm tra mới… biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời”. Đối với công tác kiểm tra việc thực hiện công tác cán bộ, Người phê bình: “Công tác kiểm tra còn bị động và nặng về giải quyết những vụ vi phạm kỷ luật trước mắt, chưa chủ động về việc giải quyết toàn diện vấn đề giữ gìn kỷ luật và chấp hành Điều lệ của Đảng, để nâng cao ý thức của đảng viên và cán bộ một cách căn bản và lâu dài”.
Thực tế các vụ việc vi phạm của các cấp ủy, đảng đoàn, ban cán sự đảng về công tác cán bộ bị xử lý kỷ luật vừa qua đều do vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ. Điều này cho thấy, công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ nói chung, trong công tác cán bộ nói riêng cần được xem là nội dung trọng yếu trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Theo đó, các cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp cần xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ; việc kiểm tra, giám sát phải bảo đảm đúng nguyên tắc, phương pháp, phát huy dân chủ, tăng cường đoàn kết, kỷ luật trong Đảng, đồng thời xử lý nghiêm tổ chức, cá nhân vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ.
5. Kết luận.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nội dung cốt lõi trong công tác cán bộ. Thực hiện tốt nguyên tắc này là điều kiện cơ bản bảo đảm công tác cán bộ đạt chất lượng tốt, xây dựng được đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu, tránh được các tiêu cực trong công tác cán bộ. Thời gian qua, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ có nhiều ưu điểm, nhưng cũng bộc lộ không ít hạn chế, khuyểt điểm. Để thực hiện tốt nguyên tắc này cần nâng cao nhận thức của các cơ quan lãnh đạo và cán bộ, đảng viên; tiếp tục hoàn thiện quy chế, quy định và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguyên tắc./.
St

TẠI SAO PHẢI BẢO VỆ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

 

Đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin cũng là bảo vệ đường lối chính trị của Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng, là yêu cầu tất yếu của cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào.  Bác Hồ  luôn khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”. Người khẳng định: “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”. Vì vậy, bảo vệ sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác – Lênin là bảo vệ đường lối của Đảng.

 

NÊU GƯƠNG LÀ GÌ?

 

Nêu gương là tuyệt đối trung thành với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, với mục tiêu, con đường cách mạng gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Đó là sự lựa chọn duy nhất đúng, bảo đảm đưa sự nghiệp cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và thành công như ngày nay. Dù thế giới có đổi thay, dù còn phải vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, song lý tưởng và mục tiêu cao cả của cách mạng mãi soi sáng nhận thức và hành động của mọi cán bộ, đảng viên và mỗi người bằng hành động, việc làm cụ thể, phấn đấu hết sức mình, nêu gương trước nhân dân vì khát vọng độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

 

Phòng, chống "diễn biến hòa bình": Đừng yêu nước kiểu mù quáng

 

Tranh thủ cuối tuần về thăm nhà sau những ngày dài miệt mài học tập trên phố, Phương rất háo hức. Nhưng vừa bước chân qua cổng thì thấy bà Loan đặt tờ báo xuống hiên nhà, buông tiếng thở dài não nề.

PHÊ PHÁN QUAN ĐIỂM CHO RẰNG ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÀ "THIẾU KHOA HỌC, KHÔNG KHẢ THI"

 Sau gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy vậy, một số thế lực thiếu thiện chí vẫn có cái nhìn phiến diện, cho rằng đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam là “thiếu khoa học, không khả thi”, không tạo ra được chuyển biến căn bản cho sự nghiệp phát triển đất nước. Đây là vấn đề hết sức nguy hiểm, đòi hỏi chúng ta phải đề cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh bác bỏ.

Với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà đất nước ta đạt được trong gần 40 năm đổi mới là minh chứng cho thấy, đường lối đổi mới của Đảng là hoàn toàn đúng đắn, khả thi, đáp ứng với đòi hỏi của thực tiễn, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Tuy nhiên, với mưu đồ thâm độc, thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động đã “tung ra” không ít những luận điệu sai trái, thù địch cho rằng: đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam là “thiếu khoa học, không khả thi”, không tạo ra được sự chuyển biến căn bản cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Chúng còn xuyên tạc rằng, sự phát triển của Việt Nam là chậm so với các nước trong khu vực và thế giới. Hơn thế nữa, chúng rêu rao “võ đoán” rằng, những thành tựu mà đất nước ta đạt được gần 40 năm qua chỉ là “ăn may”, chứ không phải là do đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, khoa học, khả thi, v.v. Phải khẳng định ngay rằng, những quan điểm trên là hoàn toàn sai trái, phản khoa học, mang động cơ chính trị xấu, nhằm mục đích phủ nhận đường lối đổi mới, từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; làm giảm sút lòng tin, cũng như tính tích cực chính trị - xã hội của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mục tiêu cuối cùng của chúng là lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Tính khách quan, khoa học và khả thi của đường lối đổi mới của Đảng
Thực tế cho thấy, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, được mở đầu từ Đại hội VI của Đảng năm 1986, đó là một tất yếu khách quan, xuất phát từ quá trình vận động, biến đổi và phát triển của đất nước, do những quy luật khách quan chi phối, cùng với những đòi hỏi bức thiết của cuộc sống, nhằm đưa đất nước vượt qua những khó khăn, thử thách, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Mặc dù sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chúng ta đã tạo ra được những tiền đề nhất định để xây dựng chủ nghĩa xã hội; trong đó, tập trung vào phát triển kinh tế, xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị, cải biến các mặt của đời sống xã hội, xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, đất nước còn đứng trước nhiều thử thách, khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng làm cho kinh tế chậm phát triển, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, v.v. Để đưa đất nước vượt qua khó khăn, có bước phát triển mạnh mẽ mang tính đột phá, nhất thiết phải thực hiện một sự thay đổi mang tính cách mạng, nhằm chuyển đổi mô hình quản lý và phát triển kinh tế - xã hội cho phù hợp với tình hình mới. Đó là cơ sở để Đảng ta đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước vào năm 1986.
Có thể khẳng định, đường lối đổi mới của Đảng là khoa học, cách mạng và khả thi. Bởi đường lối ấy được xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - học thuyết khoa học và cách mạng vì sự nghiệp giải phóng nhân loại, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, cũng như xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở nền tảng tư tưởng ấy, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới khoa học và cách mạng, mang tính sáng tạo, đột phá, được thể hiện tập trung ở ba trụ cột chủ yếu là: lý luận kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Theo đó, lý luận “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là một sáng tạo đột phá của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lý luận về đường lối đổi mới. Lý luận này được đề xuất trên cơ sở tổng kết thực tiễn chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới thế kỷ XX, cũng như xuất phát từ thực tế khủng hoảng kinh tế - xã hội trong nước theo mô hình kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu, bao cấp đã tồn tại lâu dài trong chủ nghĩa xã hội. Lý luận này tạo ra bước ngoặt căn bản cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tạo tiền đề cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội IX của Đảng xác định mô hình kinh tế tổng quát ở Việt Nam là “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”1. Từ Đại hội IX đến Đại hội XIII, lý luận kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa càng được nhận thức, bổ sung, phát triển đầy đủ, sâu sắc. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”2.
Tiếp đó, sự hình thành khái niệm “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” là một trong những đóng góp quan trọng bổ sung, phát triển cơ sở lý luận về nhà nước của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, làm thay đổi căn bản lý luận về quyền lực chính trị trong chủ nghĩa xã hội hiện thực. Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng là bước đột phá trong đổi mới tư duy chính trị của Đảng ta, đánh một dấu mốc quan trọng trong đổi mới hệ thống chính trị nói chung, đổi mới Nhà nước ở nước ta nói riêng, góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cùng với đó, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của chủ nghĩa xã hội cũng là sự phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng. Thực tế cho thấy, dân chủ là một nội dung của cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo từ khi mới thành lập - cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Sau 40 năm đổi mới đất nước, từ quan điểm “Dân là gốc”, “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đến “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã tạo cơ sở, điều kiện cho toàn thể nhân dân lao động Việt Nam thực hiện được những quyền và thụ hưởng được những lợi ích căn bản của mình, góp phần giải phóng, phát triển con người và hoàn thiện xã hội.
Như vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được coi là trụ cột của đường lối đổi mới. Bởi lẽ, ba yếu tố này tạo nên nền tảng cho chế độ kinh tế, chế độ chính trị và chế độ xã hội của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ba yếu tố này làm điều kiện, tiền đề cho nhau, vừa tạo ra sự vững chắc, ổn định, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo ra nền tảng vật chất cho nhà nước xã hội chủ nghĩa, thông qua vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; đồng thời, tạo ra cơ chế tự do, tự chủ thúc đẩy sự tiến bộ của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở cho sự giải phóng và phát triển con người. Nhà nước xã hội chủ nghĩa đảm bảo tính định hướng, cơ chế, chính sách thúc đẩy sự phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng và minh bạch; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, dân chủ trong xã hội. Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Chỉ khi nào có dân chủ thực sự thì kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mới có môi trường phát triển đầy đủ, lành mạnh và khi có dân chủ thực sự thì quyền lực của nhà nước xã hội chủ nghĩa mới được thực thi một cách thực chất. Do đó, không thể phán bừa rằng đường lối đổi mới của Đảng là không khoa học, không có cơ sở lý luận và thực tiễn,... như những luận điệu xuyên tạc thường rao giảng.
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử gần 40 năm qua là minh chứng rõ nhất khẳng định tính đúng đắn, khả thi của đường lối đổi mới
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sau gần 40 năm đổi mới đất nước, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử: “Kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố”3. Có được kết quả đó là nhờ có đường lối phát triển đúng đắn, “phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”4. Chính vì vậy mà cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước đang ngày càng được tăng cường, củng cố. Điều đó được thực tế minh chứng, bác bỏ những quan điểm, nhận định sai trái, phiến diện của các thế lực thù địch.
Hiện nay, Việt Nam là một quốc gia độc lập, toàn vẹn, có chủ quyền, được tất cả các nước trên thế giới trong Liên hợp quốc công nhận. Việt Nam có tiềm lực ngày càng mạnh mẽ về kinh tế, quân sự, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…; tham gia các tổ chức quốc tế lớn, như: Liên hợp quốc, Hội đồng nhân quyền và nhiều tổ chức quốc tế khác. Những giá trị bản sắc văn hóa truyền thống, con người Việt Nam đang được phát huy mạnh mẽ, góp phần định hình những giá trị chung cho nhân loại.
Trên lĩnh vực kinh tế, quy mô GDP của Việt Nam năm 2023 đạt khoảng 433,3 tỷ USD, xếp thứ 5 trong khu vực Đông Nam Á và là nền kinh tế lớn thứ 34 trên thế giới. Năm 2024, quy mô GDP của Việt Nam được dự báo đạt khoảng 469,67 tỷ USD5. Thu nhập bình quân đầu người đạt ngưỡng 4.000 USD/người/năm; tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt mức kỷ lục 732 tỷ USD, đưa Việt Nam vào trong nhóm 20 nước có quy mô thương mại lớn nhất thế giới và duy trì xuất siêu năm thứ bảy liên tiếp6. Đặc biệt, giai đoạn 1986 - 2022, Việt Nam nằm trong top 5 nước có quy mô kinh tế tăng nhiều nhất thế giới.
Về chính trị, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc được củng cố; dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát huy được quyền làm chủ của nhân dân. Đảng Cộng sản cầm quyền ngày càng khẳng định vai trò lãnh đạo đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được xây dựng và ngày càng hoàn thiện, góp phần quan trọng trong bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân phát huy tốt quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng hệ thống chính trị và đời sống xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Về xã hội, việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển đạt được nhiều tiến bộ vượt bậc. Con người trở thành mục tiêu, động lực của sự phát triển. Người dân được thụ hưởng những thành quả của sự nghiệp đổi mới, chất lượng cuộc sống được nâng cao rõ rệt. Tuổi thọ trung bình, giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe,… đạt mức độ tương xứng với trình độ phát triển của nhiều nước trên thế giới. Năm 2023, tuổi thọ trung bình của cả nước là 73,7 (năm 2022 là 73,6 tuổi), trong đó nam là 71,1 tuổi và nữ là 76,5 tuổi7. Chỉ số Phát triển con người (HDI) của Việt Nam ngày càng tăng cao; từ năm 1990 đến năm 2022, giá trị HDI của Việt Nam thay đổi từ 0,492 lên 0,726, tăng gần 50%. Việt Nam liên tục đạt được tiến bộ trong 30 năm qua8.
Về văn hóa, những giá trị cốt lõi của văn hóa, con người Việt Nam như lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng, ý chí tự lực, tự cường, tự tôn, tự hào dân tộc, nhân cách, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ,… được phát huy mạnh mẽ. Tính tích cực xã hội, sức sáng tạo, những năng lực bản chất nhất của con người Việt Nam được khơi dậy mạnh mẽ. Đây là sức mạnh vĩ đại, nguồn lực to lớn, mạnh mẽ, sống động,… thúc đẩy sự phát triển của quốc gia - dân tộc trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Về quốc phòng, an ninh, gần 40 năm đổi mới, đất nước luôn giữ được ổn định về an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; quốc phòng được củng cố và bảo vệ vững chắc “Năm 2023, Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia cải thiện thứ hạng về chỉ số hòa bình, tăng 4 hạng lên vị trí 41/163 quốc gia và vùng lãnh thổ”9. Với chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động tích cực hội nhập quốc tế, là bạn là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, vì hòa bình, hợp tác và phát triển, Việt Nam trở thành địa điểm gặp gỡ, giao lưu văn hóa, kinh tế, đối thoại an ninh, chính trị an toàn của nhiều quốc gia và nhiều tổ chức quốc tế lớn trên thế giới, như: Chủ tịch ASEAN-2020, AIPA-41, Ủy viên không Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên Hợp Quốc khóa 77; tổ chức thành công Hội nghị Diễn đàn Kinh tế Thế giới về ASEAN, Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều lần 2; Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch AIPA, Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014 - 2016, 2023 - 2025, Ủy ban Di sản Thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013 - 2017, Hội đồng Kinh tế - Xã hội của Liên hợp quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016 - 2018, v.v.
Thế giới đánh giá cao lực lượng gìn giữ hòa bình của Việt Nam tại Phái bộ Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Nam Sudan, Khu vực Abyei và đội tham gia tìm kiếm, cứu nạn ở Thổ Nhĩ Kỳ..., qua đó góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình, nhân văn và có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế, v.v.
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 40 năm đổi mới đất nước đã minh chứng cho tính ưu việt về bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, tính đúng đắn, khả thi của đường lối đổi mới và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng như những nỗ lực của toàn thể nhân dân Việt Nam trong hành trình gian nan đó. Điều này bác bỏ hoàn toàn những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận, bóp méo sự thật của các thế lực thù địch, phản động đối với đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo./.
St

QUÂN ĐỘI LÀ MÔI TRƯỜNG ĐỂ RÈN LUYỆN THANH NIÊN

 Hàng năm, vào đầu xuân mới hàng vạn thanh niên cả nước lại lên đường nhập ngũ. Đây vừa là nghĩa vụ, là vinh dự cũng là trách nhiệm của thanh niên Việt Nam.

Được học tập, rèn luyện trong quân đội là điều kiện tốt để thanh niên tô luyện những phẩm chất nhân cách cần thiết đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước. Có thể nói, môi trường quân đội với kỷ luật nghiêm minh nhưng sẽ giúp cho thanh niên hình thành và phát triển những phẩm chất mà môi trường khác khó có thể mang lại. Khi mới nhập ngũ, thanh niên phải tuân thủ nghiêm khắc với những quy định, điều lệnh, điều lệ quân đội, phải chấp hành mệnh lệnh của người chỉ huy.
Thực tế, thanh niên bước vào quân đội với nhiều đặc điểm tâm lý khác nhau, hội tụ từ nhiều vùng miền khác nhau, những thói quen cũ như sự tùy tiện, buông lỏng, tự do vô kỷ luật thì nay vào quân đội họ phải chuyển hóa một cách nhanh chóng theo yêu cầu quân đội.
Đó cũng chính là sự thay đổi từ nhận thức, thói quen, ngôn ngữ, cử chỉ, tác phong… đạt ở mức độ chuẩn hóa và thống nhất trong một tập thể quân sự. Môi trường quân đội cũng giúp cho thanh niên chuyển biến nhanh chóng về mặt nhận thức, đó chính là sự vững vàng về phẩm chất chính trị, về lập trường quan điểm…, từ đó hình thành nên sự đề kháng tốt giúp cho thanh niên luôn có ý thức được nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong môi trường quân đội, thanh niên cũng được hình thành lối sống mới như quan hệ đồng chí, đồng đội, ý thức tập thể, quan hệ quân dân, giải quyết các vấn đề lợi ích phù hợp theo chuẩn mực xã hội.
Bên cạnh đó, khi thanh niên vào quân đội cũng được hình thành những phẩm chất chuyên môn nghề nghiệp theo các lĩnh vực cụ thể, điều đó sẽ làm cơ sở để mỗi quân nhân có thể vận dụng kiến thức vào cuộc sống sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự của mình.
Trong môi trường quân đội, với đội ngũ cán bộ các cấp, họ vừa là người chỉ huy, vừa là nhà giáo dục có thể giúp quân nhân hình thành những tính cách tốt đẹp như sự trung thực, thẳng thắn, tính kiên cường…, điều này cũng giúp ích cho thanh niên có thể vững bước trong cuộc sống sau này. Có thể nói, được học tập, rèn luyện ở môi trường quân đội là điều kiện tốt cho thanh niên phát huy trên nhiều lĩnh vực./.
st

NÊU CAO TINH THẦN CẢNH GIÁC, ĐẤU TRANH BẢO VỆ NỀN TẢNG, TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

 

Chúng ta phải thường xuyên đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chủ động nhận diện thủ đoạn chống phá tinh vi của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị, với mưu đồ vu cáo, xuyên tạc, phủ nhận hiện thực lịch sử; đồng thời cảnh giác trước những âm mưu “làm mới” hệ tư tưởng để xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với vai trò là nền tảng tư tưởng của Đảng; những thủ đoạn “dân túy”, nhân danh “cách mạng”, “yêu nước”, “lợi ích dân tộc” để kích động, chia rẽ, lôi kéo quần chúng. Ngoài ra, cần xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật đối với những đối tượng có hành vi xuyên tạc, chống phá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh dưới bất kỳ hình thức nào. Hơn lúc nào hết, toàn Đảng, từng cán bộ, đảng viên của Đảng, trước hết là cấp ủy, cán bộ chủ trì các cấp phải tỉnh táo, thận trọng, sáng suốt và nhạy bén trong nhìn nhận, đánh giá những biểu hiện của các trào lưu tư tưởng phi mácxít, đặc biệt là chủ nghĩa cơ hội, xét lại, từ đó đề xuất chủ trương, biện pháp đấu tranh quyết liệt, phù hợp, kịp thời và hiệu quả, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mãi là nền tảng tư tưởng của Đảng, là ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam.

Sự phản khoa học của luận điệu xuyên tạc chính sách quốc phòng Việt Nam

 

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD) vững mạnh là chủ trương chiến lược, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta, nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng, khả năng phòng thủ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống. Với mưu đồ chống phá, làm suy yếu Việt Nam, các thế lực thù địch xác định lĩnh vực quốc phòng là một trong những trọng điểm, với âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc; nội dung chống phá trên nhiều phương diện, từ quan điểm, chủ trương, đường lối đến chính sách quốc phòng Việt Nam.

ĐÒI “ĐA NGUYÊN CHÍNH TRỊ, ĐA ĐẢNG ĐỐI LẬP” LÀ ÂM MƯU MUỐN XOÁ BỎ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

 

 Các thế lực thù địch tiếp tục tuyên truyền thuyết “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, phủ nhận tính hợp pháp và tính chính đáng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ yêu cầu đòi xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 2013 về hiến định quyền lãnh đạo của Đảng, đòi thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” vì cho rằng “đa nguyên, đa đảng sẽ khơi dậy sự sáng tạo của toàn dân, tốt hơn cho sự phát triển của xã hội”.

Bằng luận thuyết, luận điểm này, các thế lực phản động, thù địch muốn phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phủ nhận những thành quả mà Đảng và dân tộc Việt Nam đã giành được trong 94 năm qua; đồng thời qua đó muốn hợp pháp hóa sự ra đời của các tổ chức chính trị đối lập với Đảng ta. Chúng ta cần biết rằng: “Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”

 

ĐỂ NÊU GƯƠNG, CÁN BỘ PHẢI LÀM GÌ?

 

Trách nhiệm nêu gương đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên gương mẫu, tự giác chấp hành Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; không có bất cứ hành động hay phát ngôn trái với đường lối, quan điểm của Đảng, gây tổn hại đến uy tín và vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; hoàn thành tốt nhất trọng trách, nhiệm vụ được giao với tinh thần suốt đời phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với Đảng, Nhà nước, nhân dân. Khi trách nhiệm được đề cao, có thể khắc phục được những khó khăn, hạn chế, yếu kém. Đảng cũng nhấn mạnh trách nhiệm của người đứng đầu trong xử lý các mối quan hệ với tổ chức đảng và chính quyền; gương mẫu thực hiện nghiêm nguyên tắc lãnh đạo của Đảng.

 

MẠNG XÃ HỘI KHÔNG PHẢI LÀ CÔNG CỤ KÍCH ĐỘNG HẬN THÙ, CHIA RẼ ĐOÀN KẾT

 



       Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, Internet và mạng xã hội đang tác động, ảnh hưởng ngày càng lớn đến mọi mặt đời sống xã hội. Chúng ta không phủ nhận những tiện ích to lớn mà mạng xã hội đem lại cho cộng đồng. Thế nhưng các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lại triệt để lợi dụng những ưu thế mà mạng xã hội đem lại để tăng cường tuyên truyền, xuyên tạc nhằm thực hiện “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam.

Thực tiễn tổ chức bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch hiện nay của Bộ đội Biên phòng

 


Bộ đội Biên phòng (BĐBP) là lực lượng vũ trang nhân dân, thành phần của Quân đội nhân dân Việt Nam, là lực lượng nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, với đường biên giới đất liền dài khoảng 5.044,806 km, bờ biển dài khoảng 3.260 km. Khu vực biên giới có 1.083 xã, phường, thị trấn/233 huyện, thị thuộc 44 tỉnh, thành phố; dân số khoảng 2,4 triệu hộ/9,7 triệu nhân khẩu (dân tộc thiểu số chiếm khoảng 14,4%) với 51 dân tộc, 06 tôn giáo chính. Trong thời gian qua, BĐBP đã thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái:

NHẬN DIỆN VÀ ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI TRÊN MẠNG XÃ HỘI

 

Trong thời thời gian gần đây các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đang ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, đã triệt để lợi dụng các trang mạng xã hội để chống phá Việt Nam với nhiều phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn. Các hoạt động chống phá của chúng diễn ra trên phạm vi rộng, cường độ cao, cả ở trong và ngoài nước. Về nội dung, chúng tập trung tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá đường lối lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta bằng các luận điệu sai trái, thù địch phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đối lập Đảng với Nhà nước, tiến tới xóa bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; đồng thời, lợi dụng một bộ phận cán bộ đảng viên yếu kém, suy thoái về đạo đức lối sống để đồng nhất cả về tổ chức, sự lãnh đạo của Đảng và phẩm chất của cán bộ, đảng viên. Đối với các lực lượng vũ trang, chúng tìm mọi thủ đoạn, biện pháp để gây mâu thuẫn giữa Quân đội và Công an, cổ súy cho việc xây dựng một quân đội nhà nghề, nhằm phi chính trị hóa quân đội.

CÁI GIÁ ĐÃ TRẢ CHO SỰ ĐỘC LẬP VÀ ĐI TÌM CÂU HỎI: "HỌC SỬ ĐỂ LÀM GÌ"

 



 

“Người Việt Nam không biết quỳ gối. Chúng mày tới đây, chúng mày sẽ chết”.

Đó là câu trả lời của Liệt sĩ Đỗ Sĩ Họa khi quân Trung Quốc kêu gọi đầu hàng trong cuộc chiến Biên giới 1979. Và... đó cũng là câu trả lời của dân tộc Việt Nam trong suốt 4.000 năm qua. Chưa bao giờ chúng ta chịu quỳ gối chấp nhận làm kiếp nô lệ. Thủ tướng Anh Winston Churchill có một câu nói nổi tiếng thế này: "Một đất nước né tránh chiến tranh bằng cách chịu nhục, thì dân tộc đó sẽ phải lãnh đủ cả hai thứ: chiến tranh và sự nhục nhã". Trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủ Tịch Hồ Chí Minh khẳng định: ''...Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ...'' Đáng tiếc, những kẻ thù của chúng ta chưa bao giờ hiểu được cái gọi là: ''Ý chí và sức mạnh của cả một dân tộc''.

Thứ Ba, 1 tháng 10, 2024

“Nước Việt Nam ta sau này thịnh hay suy, mạnh hay yếu, trách nhiệm ở toàn thể quốc dân“.

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Thư gửi một Việt kiều báo tin nước nhà đã độc lập”, Bác viết cuối tháng 9 năm 1945.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, tạo ra một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc, chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ra đời, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam, kết thúc hơn 80 năm nhân dân ta sống dưới ách đô hộ của chính quyền thực dân phát xít. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Đảng cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền. Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Tuy nhiên, Nhà nước non trẻ đứng trước muôn vàn khó khăn, hiểm nguy được ví như “ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều chủ trương, biện pháp để đoàn kết và tập hợp lực lượng, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia phong trào cách mạng; trong đó có cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, để họ hướng về Tổ quốc bằng những “tấm lòng vàng” và hành động thiết thực đã góp phần tạo nên sức mạnh giúp cách mạng nước ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những thành tựu đó đã góp phần tăng cường sức mạnh và tiềm lực mọi mặt của đất nước, đồng thời ngày càng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Vì vậy, bất cứ ai ở cương vị nào, là công dân Việt Nam cần hiểu xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là quyền lợi, nghĩa vụ, vinh dự và trách nhiệm của mình.

Đinh ninh lời Bác dạy, cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam luôn tận trung với Đảng, tận hiếu với dân, vượt mọi khó khăn, thực hiện tốt nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, khắc phục hậu quả của chiến tranh; tham gia phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, sự cố môi trường, cứu hộ cứu nạn và tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc; chủ động, tích cực tham gia có hiệu quả các chương trình, dự án, phong trào lớn của quốc gia như: “Xây dựng nông thôn mới”, “Xóa đói, giảm nghèo”, thực hiện tốt công tác dân vận, xây dựng cơ sở chính trị địa phương, củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc ngay từ cơ sở, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Sưu tầm

Đấu tranh đẩy lùi bệnh “Công thần”

Theo từ điển Tiếng việt, về danh từ, công thần là những quan có công lớn với triều chính. Bệnh công thần là những người có tư tưởng dựa vào công lao đóng góp của mình mà sinh ra kiêu ngạo và đòi hỏi đãi ngộ quá đáng. Đây là căn bệnh đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo từ lâu. Khi nhắc đến bệnh công thần, Người đã từng phân tích bệnh công thần là: “Cậy mình có một ít thành tích, thì tự kiêu tự đại, cho mình là “cứu tinh” của dân, “công thần” của Đảng. Rồi đòi địa vị, đòi danh vọng. Việc to không làm được, việc nhỏ không muốn làm”.

Hiện nay, một số cán bộ đảng viên và quần chúng dựa vào chút công lao đóng góp ít ỏi thuộc nghĩa vụ, trách nhiệm của mình cho mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương trong quá trình chiến đấu, lao động, công tác... nhưng có lối sống thực dụng, kiêu ngạo, hay đòi hỏi đãi ngộ quá đáng, nếu không được đáp ứng thì lập tức có những phản ứng cực đoan để rồi nói, làm, viết trái với chủ trương, đường lối của Đảng; pháp luật của Nhà nước, thậm chí coi thường kỷ cương, kỷ luật Đảng, bất chấp pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Quân đội, quy định của địa phương.

Đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân đều ý thức được rằng, quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Do đó, việc đem trí tuệ, sức lực, thậm chí sinh mạng để lao động, sáng tạo, phấn đấu là hiển nhiên, thể hiện sâu sắc quyền, nghĩa vụ đã được hiến pháp quy định. Tuy nhiên, vẫn còn một số ít cán bộ, đảng viên và quần chúng có tư tưởng, hành động so đo, xét lại từ lối sống thực dụng. Coi chút thành tích, công trạng của mình là to lớn, hơn người mà tỏ ra huênh hoang; coi thường tổ chức, coi thường người khác. Thậm chí, vì những quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước, quy chế của cơ quan, đơn vị mà tổ chức không thể đãi ngộ thỏa đáng thì tỏ ra tiêu cực, chống đối, coi thường, thù hằn và có những hành động nói, làm, viết trái với quan điểm, đường lối của Đảng. Đương nhiên, họ không tự biết mình đang nhiễm căn bệnh “công thần, kiêu ngạo” và tự đánh mất mình.

Bệnh “công thần” là loại “siêu vi rút” ẩn nấp, luồn lách khắp nơi trong cuộc sống của chúng ta. Tuy vậy, những người “mắc bệnh” thường có những biểu hiện rất dễ nhận biết. Đối với cán bộ, đảng viên thì biểu hiện đầu tiên là kiêu ngạo, sa vào lối sống thực dụng, sa sút ý chí phấn đấu; giảm sút niềm tin vào Đảng; phai nhạt lý tưởng cộng sản, sa vào chủ nghĩa cá nhân. Lâu dần trong quá trình tự thúc đẩy từ bên trong của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tiến đến viển vông chủ nghĩa, so đo, đố kị, không còn ý thức rèn luyện, phấn đấu, tách mình ra khỏi tổ chức, coi thường tổ chức, thực hiện nói, viết và làm trái với cương lĩnh, xa rời nền tảng tư tưởng của Đảng. Đấu tranh đòi hỏi quyền lợi, chế độ một cách vô lý, không có trong quyền và nghĩa vụ chính đáng mình được hưởng.

Để đấu tranh, ngăn chặn, loại bỏ bệnh “công thần”, trước tiên, mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt là cán bộ, chiến sĩ trong Quân chủng cần tự soi, tự sửa để xem mình và những người xung quanh mình đã nhiễm “căn bệnh” đó chưa để có biện pháp kịp thời “chữa trị”. Đi đôi với đó, các cơ quan, đơn vị cần tăng cường quan tâm chăm lo xây dựng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng. Đây là một trong những nhiệm vụ, giải pháp cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay. Để làm được như vậy, cần đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XII) về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”... Thông qua đó, tạo sự chuyển biến thành hành động cho mỗi cán bộ, đảng viên, tại mỗi tổ chức cơ sở đảng bằng cách gắn thực hành đạo đức cách mạng với phòng chống, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; phát huy cái tích cực, đẩy lùi tiêu cực, lấy cái đẹp dẹp cái xấu,góp phần quan trọng xây dựng Đảng thật sự trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.

Điều không kém phần quan trọng để đẩy lùi, ngăn chặn bệnh “công thần” là cần kiên quyết đấu tranh phòng chống lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, lợi ích nhóm, nói không đi đôi với làm gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên trong thực hiện rèn luyện đạo đức cách mạng, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, chấp hành kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước...

Sưu tầm

“Học có tốt, hành mới tốt. Học và hành tốt mới làm trọn nhiệm vụ người thanh niên cách mạng”

Đây là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Bài nói chuyện tại Đại hội thanh niên Thủ đô”, ngày 30 tháng 9 năm 1964, đăng trên Báo Nhân dân, số 3836, ra ngày 01 tháng 10 năm 1964.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục cho thanh niên nhận thức sâu sắc mục đích, ý nghĩa và động cơ của việc học tập trong chế độ mới, khắc phục những cách tư duy cũ do nền giáo dục thực dân, phong kiến để lại. Người dạy: Học để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, làm cho dân giàu nước mạnh, tức để làm tròn nhiệm vụ người chủ nước nhà. Bên cạnh việc xác định động cơ, thái độ học tập đúng đắn, Người yêu cầu tuổi trẻ phải thực hiện học tập toàn diện và học tập phải gắn liền với rèn luyện. Người dạy thanh niên phải sức học tập nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật và quân sự để cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân dân.

Bởi vậy, theo Bác muốn thành công trong công việc phải biết kết hợp giữa học và hành một cách chặt chẽ và xuyên suốt. Lấy lí thuyết hỗ trợ cho hành động và ngược lại lấy hành động để khẳng định sự đúng đắn của lí thuyết. Vận dụng lí thuyết vào hành động thì lí thuyết được kiểm chứng. Từ đó rút kinh nghiệm, nâng cao hơn hiệu quả công việc. Thực tiễn cho thấy, phương châm học đi đôi với hành là hoàn toàn đúng đắn. Những kiến thức mà chúng ta tiếp thu được từ nhà trường, sách vở… phải được áp dụng vào thực tiễn cuộc sống trước hết là để hoàn thiện kĩ năng con người. Sau đó là tạo ra những thành quả vật chất, tinh thần phục vụ con người.

Khắc ghi lời Bác dạy, cán bộ, chiến sĩ toàn quân đi sâu tìm hiểu và làm rõ giá trị hiện thực của quan điểm của Bác trong định hướng lý luận cũng như chỉ đạo thực tiễn; quán triệt và thực hiện nghiêm 03 quan điểm, 08 nguyên tắc, 06 mối kết hợp trong huấn luyện bộ đội; bám sát phương châm huấn luyện “Cơ bản, thiết thực, vững chắc”, coi trọng huấn luyện đồng bộ và chuyên sâu, sát thực tế chiến đấu; kết hợp chặt chẽ huấn luyện quân sự với giáo dục chính trị; giáo dục, đào tạo gắn với huấn luyện chiến đấu; huấn luyện sát nhiệm vụ, phương án chiến đấu, đối tượng tác chiến, lấy thực hành là chính; kết hợp huấn luyện với rèn luyện thể lực bộ đội. Tổ chức nhiều cuộc diễn tập tác chiến hiệp đồng quân chủng, binh chủng, thực binh có bắn đạt thật, diễn tập chiến thuật vòng tổng hợp... là cơ sở để nâng cao trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu, sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang, đáp ứng yêu cầu cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Sưu tầm

“Mượn gió bẻ măng” - nhận diện chiêu trò hèn hạ của những kẻ chống đối

Bài viết không đề cập đến vấn đề phải, trái hoặc đúng, sai xoay quanh cuộc xung đột giữa Nga và Ukraina, bởi đấy là quan điểm riêng của mỗi người, vấn đề thuộc phạm trù ý thức hệ giữa các tham chiến. Thông qua bài viết tác giả muốn làm rõ luận điệu xuyên tạc của những kẻ cơ hội mạo danh dân chủ, thành viên các hội nhóm xã hội dân sự tự xưng đang lợi dụng cuộc xung đột Nga - Ukraina để bêu xấu Đảng, Nhà nước, hạ thấp uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, qua đó tạo ra dư luận tiêu cực nhằm chống phá cách mạng Việt Nam có chủ đích.

Ngay sau khi cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina nổ ra, những kẻ cơ hội lấy danh nghĩa yêu chuộng hòa bình, phản đối chiến tranh và ủng hộ nhân dân Ukraina cấu kết với những kẻ chống đối lưu vong bày ra cái gọi là “Thư ngỏ” để bày tỏ sự ủng hộ đối với Ukraina.

Điểm mặt những kẻ “Mượn gió bẻ măng” đều là những đối tượng đã quá quen mặt trên các diễn đàn như: Nguyễn Khắc Mai, Nguyễn Đình Cống, Nguyên Ngọc, Nguyễn Quang A, Phạm Xuân Yêm, Lê Thân, Mạc Văn Trang, Nguyễn Xuân Diện... Đây là những tên thuộc các hội nhóm, gồm: “Ban vận động văn đoàn độc lập Việt Nam”; “Lập quyền dân”; “Diễn đàn xã hội dân sự”... Thực chất đây chỉ là các hội, nhóm tự xưng không được pháp luật Việt Nam thừa nhận; những phần tử chống đối cực đoan đang có các hoạt động chống phá hướng vào Việt Nam trên không gian mạng.

Thông qua cái gọi là “Thư ngỏ” mà bọn dân chủ nửa vời gửi tới đại sứ quán Ukraina đã lộ rõ bộ mặt giả tạo và động cơ thấp hèn của những kẻ chống đối. Có thể nói đây là “Trò hề rẻ tiền” của những diễn viên kém cỏi, chúng thậm chí còn cao giọng đại diện cho nhân dân Việt Nam khi rêu rao “Người Việt Nam chúng tôi thấu hiểu cái giá mà Ukraina phải trả để giữ vững được chủ quyền và nền dân chủ của mình trước chủ nghĩa bá quyền Putin. Chúng tôi cũng hiểu rằng, bảo vệ Ukraina lúc này không chỉ là bảo vệ hòa bình mà còn là bảo vệ một nền dân chủ non trẻ vừa mới thoát ra khỏi quá khứ độc tài”.

Cái được gọi là “Quá khứ độc tài” mà chúng đang nói ở đây, phải chăng đó là sự lật mặt phủ nhận vai trò Liên bang Xô Viết của chính phủ và nhà nước Ukraina; sự từ bỏ một chế độ đã cứu người dân Ukraina và nhân dân toàn thế giới thoát khỏi thảm họa phát xít. Thật ra cũng dễ hiểu bởi sự trở cờ, quay giáo” hay phủ nhận quá khứ và đòi xét lại lịch sử thường chỉ xuất hiện trong tư duy của những kẻ cơ hội hoặc đầu óc của họ đã không còn đủ minh mẫn để phân biệt phải, trái hoặc đúng, sai.

Đáng nói là ngay sau khi Việt Nam chúng ta đưa ra quan điểm chính thức về cuộc xung đột giữa Nga - Ukraina và bỏ phiếu trắng tại Đại Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc khi thông qua nghị quyết kêu gọi Nga rút quân khỏi ra khỏi lãnh thổ Ukraina. Một số diễn đàn trên Internet, mạng xã hội đã đưa ra hàng tá những luận điệu suy diễn và cho rằng quan điểm của Việt Nam là “Mơ hồ không rõ ràng”; một số khác cố tình xuyên tạc Việt Nam đang ngầm ủng hộ Nga, cổ xúy cho chiến tranh nhằm tạo ra dư luận tiêu cực, hoài nghi và kích động tư tưởng chống đối ở Việt Nam.

Đối với cuộc xung đột Nga - Ukraina, tại phiên họp khẩn cấp Lần thứ 11 của Đại Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc về tình hình Ukraina, Đại sứ Đặng Hoàng Giang khẳng định “Lập trường nhất quán của Việt Nam về giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế, đặc biệt là nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ, không sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”.

Đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam, bà Lê Thị Thu Hằng nhấn mạnh “Chúng tôi cho rằng, ưu tiên hiện nay là cần kiềm chế tối đa, chấm dứt các hành động sử dụng vũ lực để tránh gây thương vong và tổn thất đối với dân thường, nối lại đàm phán đối thoại trên tất cả các kênh để đạt được các giải pháp lâu dài...”.

Như vậy, quan điểm của Việt Nam là nhất quán, trước sau như một và thực tế kể từ khi xảy ra xung đột Nga - Ukraina, Việt Nam chưa có bất kỳ một lời nói hoặc hành động nào liên quan đến việc ủng hộ sử dụng vũ lực để giải quyết xung đột. Luận điệu cho rằng Việt Nam “Đứng bên này chống bên kia” hay đang “Cổ xuý chiến tranh” chỉ là chiêu trò “Tát nước theo mưa” của những kẻ cơ hội. Những kẻ chống đối này lấy tư cách gì để đại diện cho nhân dân Việt Nam trong khi chính họ đang lợi dụng tình hình ở Ukraina và cuộc xung đột giữa Nga - Ukraina để mưu cầu lợi ích riêng và chống lại chính đồng bào mình.

Họ đang dẫm đạp lên chính nỗi đau của dân tộc trong quá khứ để chống lại chính đất nước mình khi cho rằng cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam là “Nội chiến”. Thử hỏi những kẻ cơ hội này đã ở đâu, làm gì khi giới cầm quyền Mỹ xua quân càn quét khắp miền Nam, đưa B52 rải thảm miền Bắc và sát hại đồng bào ta vô cùng tàn ác ở miền Trung.

Đứng lên chống lại cường quyền, đấu tranh giành độc lập và bảo vệ hòa bình mà họ lại cho là “Nội chiến”.  Thực chất đây là những chuyên gia “Trở cờ quay giáo”, cao thủ “Ăn cháo đá bát” và là “Anh hùng” bám gót giày Tây, bởi một công dân Việt Nam chân chính không ai làm vậy cả.

Trong thực tế các cá nhân, tổ chức chống đối đã lợi dụng những bất ổn xung quanh cuộc xung đột Nga - Ukraina và những hệ lụy của nó đang diễn ra phức tạp trên phạm vi toàn thế giới để bẻ cong sự thật, hướng lái dư luận theo ý định của phương Tây, từ đó hạ thấp uy tín của Việt Nam và thực hiện mưu đồ đen tối của chúng đối với cách mạng Việt Nam. Luận điểm mà những thành viên các hội nhóm đưa ra chỉ mang tính cá nhân chứ không hề đại diện cho bất kỳ một tổ chức hay đảng phái nào ở Việt Nam. Bởi nó không hề có tôn chỉ, mục đích hay tính hợp pháp và không có được sự đồng thuận của nhân dân ta.

Hơn ai hết, dân tộc Việt Nam trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước với rất nhiều cuộc chiến tranh lớn nhỏ khác nhau. Để giành vững độc lập, bảo vệ tự do và hòa bình; dân tộc Việt Nam đã chịu nhiều hy sinh mất mát nhiều. Vì vậy, chúng ta luôn trân trọng hòa bình, phản đối chiến tranh và mong muốn xây dựng thế giới ngày càng tốt đẹp hơn. Đối với Việt Nam, cả Nga và Ukraina đều là đối tác quan trọng, bạn bè truyền thống nên chúng ta mong muốn hai nước nhanh chóng đàm phán, chấm dứt chiến tranh và sớm lập lại hòa bình.

Như vậy, luận điệu xuyên tạc đã quá rõ ràng, những kẻ chống đối đang cố tình “Lợi dụng tình hình xung quanh cuộc xung đột Nga - Ukraina” để tiến hành chống phá cách mạng Việt Nam. Đồng thời, tranh thủ ghi công tính điểm với các thế lực thù địch bằng cách xuyên tạc sự thật, bôi nhọ lịch sử... Thực chất là họ đang mưu cầu lợi ích riêng, lợi dụng chiến tranh và bước trên nỗi đau của nhiều thế hệ người Việt Nam. Thủ đoạn thâm độc, hành động đê hèn và việc làm hết sức dối trá, cần phải hết sức cảnh giác đề phòng, kiên quyết đấu tranh bài trừ nhằm trả lại sự bình yên trên không gian mạng và đời sống chính trị tinh thần của nhân dân ta./.  

Sưu tầm

LẬT TẨY NHỮNG LUẬN ĐIỆU LẠC LÕNG, XUYÊN TẠC VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔNG BÍ THƯ, CHỦ TỊCH NƯỚC TÔ LÂM TẠI HOA KỲ!

     Vừa qua, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm và phu nhân cùng đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã tham dự Hội nghị Thượng đỉnh tương lai, Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 79 và làm việc tại Hoa Kỳ!

Chuyến công tác tại Hoa Kỳ diễn ra đúng vào dịp kỷ niệm một năm hai nước nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược toàn diện và đang tích cực chuẩn bị cho các hoạt động kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ vào năm 2025. Đây là dịp quan trọng để hai bên cùng nhìn lại những thành tựu mà quan hệ hợp tác mang lại, đồng thời thảo luận về những định hướng và biện pháp lớn để tiếp tục duy trì đà phát triển tích cực, ổn định, thực chất trong thời gian tới.

Chuyến công tác của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đã thành công tốt đẹp trên tất cả các phương diện. Tuy nhiên, lợi dụng vào sự kiện này, trước, trong và sau chuyến đi, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị tìm cách xuyên tạc, chống phá chuyến công tác của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước và công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta.

Những luận điệu xuyên tạc, vu cáo
Các trang mạng, blog, website của các tổ chức phản động, các trung tâm truyền thông như VOA, RFI, RFA… tăng tần suất các bài viết có nội dung xuyên tạc mục đích, ý nghĩa chuyến công tác, bôi nhọ hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Họ kích động rằng, nhiều người Việt biểu tình đòi thả “tù nhân lương tâm”, trả tự do cho các “nhà hoạt động nhân quyền”, “nhà báo cải cách”… Một số bài viết đưa tin, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đi Mỹ là chuyến công du “củng cố quyền lực mềm” với nội dung sai sự thật, kêu gọi Chính phủ Hoa Kỳ gây sức ép vấn đề dân chủ, nhân quyền với Việt Nam; cho rằng quan hệ Việt - Mỹ sẽ không phát triển nếu dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam không được cải thiện, nếu không xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. 

Các tổ chức phản động lưu vong và số đối tượng chống đối ở nước ngoài cũng liên tục đưa bài kêu gọi người Việttại Hoa Kỳ tham gia biểu tình bên ngoài trụ sở Liên Hiệp quốc ở thành phố New York. Bên cạnh đó, một số gương mặt quen thuộc từng phải chịu án phạt tù về hành vi chống phá Nhà nước, nay đang sống lưu vong ở nước ngoài cũng đã lợi dụng hoạt động trên để tiến hành phô trương thanh thế, đánh bóng tên tuổi như Nguyễn Văn Đài, Đặng Đình Mạnh… Tuy nhiên, dù được các đối tượng kêu gọi và thông tin rầm rộ trên mạng xã hội nhưng thực chất số lượng tham gia biểu tình, phản đối chỉ có một nhóm nhỏ đứng lẻ loi, lạc lõng nơi xứ người. Trái ngược với nhóm nhỏ lẻ loi, lạc lõng đó là rất đông kiều bào Việt Nam đang sinh sống tại Hoa Kỳ đã tiếp đón Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại cuộc gặp thân mật nhóm trí thức các thế hệ người Việt Nam sinh sống tại thành phố Houston, bang Texas, Hoa Kỳ.

Không kêu gọi được đông người tham gia biểu tình, các đối tượng tiếp tục sử dụng mạng xã hội viết các bài tỏ thái độ hậm hực, dùng lời lẽ miệt thị, chế diễu hoạt động của lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta, bôi nhọ quan hệ đối ngoại Việt Nam với Hoa Kỳ. Để tăng thêm độ tin cậy, các đối tượng triệt để lợi dụng chiêu bài phỏng vấn người nước ngoài như trang tin VOA phỏng vấn dân biểu Hoa Kỳ Michelle Steel nói bà “rất lo ngại” về tình hình nhân quyền ở Việt Nam.

Tổ chức HRW ngày 23/9 còn đưa ra thông cáo nhằm kêu gọi Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden không tiếp đón Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm. Rõ ràng, những ý kiến hay tiếng nói lạc lõng trên không thể đại diện cho tiếng nói, tình cảm của kiều bào ta tại Mỹ và người Mỹ gốc Việt cũng như không thể đại diện cho quan điểm, sự quan tâm của người Mỹ và bè bạn quốc tế về các hoạt động của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại Mỹ cũng như mối quan hệ Việt – Mỹ. 

Những luận điệu sai trái trên là hành động tung hỏa mù, “chọc gậy bánh xe”, vừa cố tình vu cáo, miệt thị lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta, vừa phá hoại mối quan hệ Việt – Mỹ, hạ thấp uy tín, vai trò của Việt Nam với tư cách là thành viên của Liên hợp quốc. Lợi dụng chính sách mở cửa, hội nhập, nhiều bài viết dưới mác “phân tích cơ sở khoa học” nhằm phủ định nền tảng tư tưởng, vai trò lãnh đạo, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; cố tình suy diễn, xuyên tạc, chống phá đường lối đối ngoại, quốc phòng, an ninh, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, tác động vào niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN.

Thành tựu trong hợp tác Đối tác Chiến lược toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ góp phần khẳng định đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta 

Từ khi bình thường hóa quan hệ, nhiều lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam đã thăm Hoa Kỳ, đặc biệt là chuyến thăm lịch sử của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vào tháng 7/2015. Đồng thời, tất cả các Tổng thống Hoa Kỳ từ sau khi bình thường hóa quan hệ đều đã thăm Việt Nam, gần đây nhất là chuyến thăm của Tổng thống Joe Biden tháng 9/2023 và nâng cấp quan hệ song phương lên Đối tác Chiến lược toàn diện. Tròn một năm nâng cấp quan hệ song phương lên Đối tác Chiến lược toàn diện, hai bên đã tiếp tục cùng nhau triển khai giải quyết những vấn đề quan trọng thông qua các cơ chế đối thoại mới, tập trung thúc đẩy các mục tiêu hợp tác bao gồm: Quan hệ chính trị ngoại giao; hợp tác kinh tế - thương mại - đầu tư; hợp tác chuyển đổi số; hợp tác khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo; hợp tác về giáo dục đào tạo; biến đổi khí hậu, môi trường, y tế, quốc phòng - an ninh...

Qua đó, hai bên tích cực phối hợp tổ chức các sự kiện, hoạt động quốc tế, khu vực quan trọng; triển khai hiệu quả các sáng kiến, cơ chế trong khuôn khổ Liên hợp quốc và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Hoa Kỳ tiếp tục ủng hộ lập trường của Việt Nam đối với vấn đề Biển Đông, Tiểu vùng sông Mê Kông, ứng phó với biến đổi khí hậu; coi trọng phối hợp với Việt Nam trong giải quyết nhiều vấn đề khu vực quan trọng khác... Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong khi Việt Nam trở thành đối tác thương mại lớn thứ 8 của Hoa Kỳ, đồng thời là đối tác thương mại lớn nhất ở khu vực ASEAN. Hoa Kỳ tiếp tục là nhà đầu tư lớn vào Việt Nam với 1340 dự án với tổng vốn trên 11,8 tỷ USD tính đến tháng 3/2024. Về phía Việt Nam cũng có 230 dự án đầu tư tại Hoa Kỳ với tổng vốn đăng ký gần 1,3 tỷ USD…

Trong lĩnh vực hợp tác về an ninh - quốc phòng, hai bên tiếp tục duy trì trao đổi thường xuyên để tăng cường hợp tác. Đồng thời, tiếp tục triển khai các cơ chế đối thoại thường niên như Đối thoại Chính trị - An ninh - Quốc phòng 13 (8/2024) và Chương trình Đối tác Thái Bình Dương 24 (8/2024). Hợp tác an ninh, chống tội phạm được mở rộng, hai bên tiếp xúc duy trì, trao đổi các cấp về những vấn đề an ninh chiến lược và chuyên ngành, đồng thời thúc đẩy các khuôn khổ hợp tác mới.

Trong đối thoại về nhân quyền, hai bên trao đổi về những vấn đề này thông qua các cơ chế đối thoại thẳng thắn, trên tinh thần xây dựng như Đối thoại Nhân quyền, Đối thoại Lao động Việt Nam - Hoa Kỳ, qua đó góp phần tăng cường hiểu biết lẫn nhau và giảm thiểu khác biệt; tăng cường hợp tác nhằm bảo đảm tất cả người dân được hưởng đầy đủ quyền con người. Đồng thời Việt Nam - Hoa Kỳ tiếp tục bám sát những nguyên tắc nền tảng của quan hệ hai nước, bao gồm “tôn trọng hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau”, củng cố hơn nữa tin cậy chính trị và lòng tin chiến lược, đảm bảo nguyện vọng của nhân dân hai bên, đóng góp tích cực hơn nữa cho hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển bền vững tại khu vực cũng như trên thế giới.

Phương châm trong đối ngoại của Việt Nam là: “Độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế (Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng). Nhiều hãng truyền thông lớn trên thế giới đã đăng tải những thông điệp tích cực về các hoạt động của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại Hoa Kỳ, khẳng định uy tín, vị thế của Việt Nam.

Chuyến công tác, làm việc của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại Hoa Kỳ càng có ý nghĩa quan trọng khi diễn ra vào thời điểm tròn một năm Việt Nam và Hoa Kỳ nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược toàn diện vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững, cũng như trước thềm kỷ niệm 30 năm quan hệ ngoại giao. Đây là dịp để hai bên cùng nhìn lại chặng đường đã qua, đúc rút, chia sẻ và lan toả những bài học, kinh nghiệm hay về quan hệ giữa các quốc gia, đồng thời tôn vinh và tri ân những thế hệ bạn bè đã và đang tích cực đóng góp cho quan hệ hai nước. 

Bên cạnh mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế theo tinh thần Việt Nam là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Đảng, Nhà nước ta luôn phát huy cao độ tinh thần đại đoàn kết toàn dân, chủ động tự lực, tự cường nhằm thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Như vậy, thực tế sự phát triển mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ hay giữa Việt Nam với quốc gia nào trên thế giới đều là tất yếu khách quan, phù hợp xu thế chung của thời đại.

Điều đó chứng minh đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng ta, thể hiện nét đặc sắc “ngoại giao cây tre” vì lợi ích của mỗi quốc gia - dân tộc, đóng góp vào hòa bình, hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới, hoàn toàn không có chuyện “theo bên này, chống bên kia” như luận điệu những kẻ xấu, cố tình xuyên tạc, bịa đặt. Đó là minh chứng khách quan, sinh động, phản bác những luận điệu bôi nhọ, chống phá, những hành động trơ trẽn và lạc lõng của các thế lực xấu./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: BỨC ĐIỆN MẬT KHI BÁC HỒ QUA ĐỜI TRONG KÝ ỨC NGUYÊN PHÓ THỦ TƯỚNG VŨ KHOAN!

         Tôi không bao giờ quên tâm trạng bàng hoàng vào buổi tối 2/9/1969 khi cầm trên tay bức điện mật từ trong nước báo tin dữ: Bác Hồ đã qua đời! Bức điện yêu cầu Đại sứ quán (ĐSQ) thông báo ngay cho Trung ương Đảng bạn và đề nghị bạn đưa gấp sang Việt Nam chuyên gia, dụng cụ, vật liệu cần thiết phục vụ cho việc giữ gìn lâu dài thi hài Bác!

Số là cuối những năm 60 thế kỷ trước, sức khỏe Bác Hồ ngày một giảm sút, Trung ương Đảng đề nghị Liên Xô giúp gìn giữ thi hài Bác một khi Bác qua đời. Bạn đã chân thành đáp ứng yêu cầu của Trung ương Đảng ta và trong 50 năm qua đã hết lòng, hết sức hợp tác với ta trong công việc thiêng liêng này.

Điều dễ hiểu là trong thời điểm ấy đây là điều tuyệt mật. Trong ĐSQ chỉ có Đại sứ Nguyễn Thọ Chân, đồng chí cơ yếu và tôi biết. Chẳng may đúng lúc đó đồng chí Đại sứ lại đang ở bên Thụy Điển là nơi đồng chí kiêm nhiệm. Vì vậy, tôi phải tức tốc tới Ban đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô để thông báo.

Khi gặp anh E.Glazunov, Vụ trưởng phụ trách quan hệ với Đảng ta, hai anh em chúng tôi cứ nhìn nhau nước mắt chảy ròng ròng, không nói nên lời vì cả hai đều có diễm phúc nhiều lần trực tiếp gặp mặt và phiên dịch cho Bác Hồ. Anh hứa báo cáo ngay cấp trên, song có điều tôi nói là nội dung quá quan trọng nhưng tôi lại là quan chức ở cấp quá thấp nên không biết sẽ báo cáo thế nào. Tôi đành thông báo cho anh biết hoàn cảnh của mình, còn xử lý ra sao thì tùy anh cân nhắc!

Chẳng bao lâu sau khi về tới ĐSQ, tôi nhận được điện thoại của anh Glazunov thông báo ông Iu.Andropov, Bí thư TƯ Đảng, Trưởng Ban đối ngoại (sau này, trong những năm 1982 - 1984 ông từng là Tổng bí thư BCH TƯ Đảng Cộng sản Liên Xô) sẽ trực tiếp đến ĐSQ bàn bạc những việc cụ thể. Đây là một việc vô tiền khoáng hậu vì không bao giờ một quan chức cao cấp như vậy lại đích thân đến cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài để giải quyết công việc như vậy cả!

Đương nhiên tôi không thể đứng ra tiếp đón và làm việc với ông nên quyết định thông báo cho anh Nguyễn Tiến Thông lúc đó là Đại biện lâm thời và ông Đặng Quang Minh là Đại sứ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đứng ra tiếp vì dù sao đi nữa, việc Bác Hồ đã qua đời không còn mang tính cơ mật nữa.

Tới ĐSQ gần như vào giữa đêm, ông Iu.Andropov thay mặt Trung ương bạn bày tỏ lời chia buồn sâu sắc nhất trước cái tang lớn của nhân dân, của Đảng ta và thông báo bạn sẽ dùng chuyên cơ đưa ngay sang Hà Nội các chuyên gia cũng như thiết bị, dụng cụ, vật liệu cần thiết.

Rạng sáng hôm sau lại xảy ra một việc vô tiền khoán hậu khác. Đó là Liên Xô đã cử tới ĐSQ ta cả một đội chuyên gia, công nhân bài trí lại cơ quan đúng theo nghi thức tang lễ.

Và ngay đầu giờ sáng, toàn thể ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô đứng đầu là Tổng bí thư L.Brejnev đã tới ĐSQ viếng Bác. Sau phần nghi lễ, bạn ngồi lại rất lâu, chia sẻ những kỷ niệm không thể nào quên về tình cảm giữa Bác Hồ với lãnh đạo và nhân dân bạn. Tiếp đó trong mấy ngày liền, vô vàn người dân Liên Xô thuộc mọi lứa tuổi, tầng lớp, vùng miền nối đuôi nhau vào ĐSQ viếng Bác, trong số đó còn có rất nhiều công dân các nước ngoài đang làm việc, học tập và thăm Liên Xô.

Liên Xô đã cử sang Hà Nội dự lễ tang Bác đoàn đại biểu ở cấp cao hiếm thấy do ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng A.Kosyguine dẫn đầu. Ở đây diễn ra một sự kiện rất quan trọng mà có lẽ không nhiều người còn nhớ, thể hiện lòng mong mỏi chân thành của Bác nêu trong Di chúc về việc góp phần hàn gắn lại mối bất hòa giữa các nước XHCN, trước hết là giữa Liên Xô và Trung Quốc đã gây tác động tức thời.

Tôi còn nhớ vào giữa đêm 8/9/1969, đoàn Liên Xô đề nghị được gặp một nhà lãnh đạo cấp cao của ta để trao đổi một việc hệ trọng. Phía ta đã cử đồng chí Lê Thanh Nghị, ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng gặp bạn.

Tại cuộc gặp mà tôi được dự với tư cách phiên dịch, bạn đề nghị ta làm cầu nối thu xếp một cuộc tiếp xúc với Trung Quốc ở cấp người đứng đầu Chính phủ. Ta truyền đạt ngay yêu cầu đó cho phía Trung Quốc và phía Trung Quốc đã chấp thuận.

Cuộc gặp giữa Thủ tướng A.Kossyguine và Thủ tướng Chu Ân Lai diễn ra tại sân bay Bắc Kinh là nơi đoàn Liên Xô rẽ sang trên đường về nước. Tuy quan hệ giữa hai nước XHCN lớn nhất chưa được hàn gắn song dù sao cũng dịu bớt sau cuộc đụng độ quân sự giữa hai nước ở cồn Damansky (Trung Quốc gọi là Trần Bảo) trên sông Amur (Hắc Long Giang) vào cái năm 1969 đó.

Thời gian đã qua đi đúng một nửa thế kỷ song trong tôi không bao giờ phai nhạt những kỷ niệm đầy đau thương nhưng cũng đầy niềm tự hào về lòng yêu quý, kính trọng của nhân dân Liên Xô và nhân dân thế giới đối với Bác Hồ - người đã làm rạng rỡ non sông đất nước ta./.
Yêu nước ST.

ĐẠI TƯỚNG LÊ TRỌNG TẤN: HUYỀN THOẠI CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM!

         Đại tướng Lê Trọng Tấn là một trong những vị tướng tài ba và có công lao to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Ông sinh năm 1914 tại huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay là quận Hà Đông, Hà Nội) và tham gia hoạt động cách mạng từ rất sớm!
• Quá trình chiến đấu và công tác:
Lê Trọng Tấn bắt đầu sự nghiệp quân sự trong kháng chiến chống Pháp. Với tài năng và tinh thần trách nhiệm, ông nhanh chóng thăng tiến và trở thành một trong những chỉ huy quan trọng của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trong suốt cuộc kháng chiến, ông đã tham gia nhiều chiến dịch lớn, góp phần vào các thắng lợi quan trọng, đặc biệt là trong Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 và Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975.
• Vị tướng hai lần anh hùng:
Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng nhận xét, ông là "Người chỉ huy kiên cường, lỗi lạc, người bạn chiến đấu chí thiết". Ông cũng được gọi là vị tướng hai lần anh hùng.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại đoàn 312 dưới sự chỉ huy của ông đã đánh, chiếm hoàn toàn cứ điểm Him Lam và bắt sống tướng De Castries trong trận tấn công cuối cùng. Đại đoàn 312 đã được nhận Cờ "Quyết chiến, Quyết thắng" của Bác Hồ. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ông là Tư lệnh Binh đoàn Quyết Thắng, Tư lệnh chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng, chỉ huy cánh quân chủ lực từ phía Đông tiến vào giải phóng Sài Gòn, bắt sống toàn bộ nội các Tổng thống Dương Văn Minh. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói: "Với hai chiến công đó, Lê Trọng Tấn xứng đáng hai lần tuyên dương Anh hùng".
• Di sản và ý nghĩa:
Di sản mà đại tướng Lê Trọng Tấn để lại không chỉ nằm ở những chiến công lừng lẫy, mà còn ở tư tưởng quân sự và tinh thần quyết tâm, kiên định trong đấu tranh. Ông là hình mẫu cho nhiều thế hệ cán bộ, chiến sĩ trong quân đội, khơi dậy lòng yêu nước và tinh thần chiến đấu vì độc lập, tự do.
Với những đóng góp to lớn cho đất nước, đại tướng Lê Trọng Tấn mãi là một trong những biểu tượng sáng ngời của Quân đội Nhân dân Việt Nam và một nhân vật lịch sử đáng kính trong lòng nhân dân./.
Yêu nước ST.