Thứ Tư, 2 tháng 10, 2024

NHỚ BÁC HỒ NGHĨ VỀ CHỮ "DÁM" CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

 Dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm để dám đương đầu trước mọi khó khăn, thử thách, hành động quyết liệt vì lợi ích chung. Đó là phẩm chất, năng lực, bản lĩnh mà mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, chủ chốt các cấp hiện nay phải nêu gương thực hiện theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

1. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, gần 40 năm qua đất nước ta đã thực hiện công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đảng và nhân dân ta đã thu được nhiều thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục phấn đấu đến năm 2045, khi chính thể Cộng hòa Dân chủ do Bác Hồ sáng lập, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tròn 100 năm, nước ta sẽ trở thành nước phát triển, có thu nhập cao.
Nhân tố quan trọng và quyết định đến sự thành công trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là nhân tố con người. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực và là chủ thể của đổi mới và phát triển để Việt Nam phát triển nhanh, bền vững. Con người là "nguồn vốn" quan trọng nhất, là tài nguyên quý giá nhất của phát triển, chấn hưng đất nước. Nguồn tiềm năng, trữ năng lớn nhất tạo nên tiềm lực và thực lực phát triển quốc gia dân tộc, không gì khác chính là nguồn lực con người. Trong đó, đặc biệt quan trọng là phẩm chất, năng lực, uy tín của cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp trong thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, Đảng ta xác định: “... Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu các cấp đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”; “... Có chính sách khuyến khích và cơ chế phù hợp bảo vệ những cán bộ, đảng viên có ý chí chiến đấu cao, gương mẫu thực hiện nguyên tắc của Đảng và pháp luật của Nhà nước, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”. Đây là một trong những điểm mới, quan trọng và đặc sắc mà Đảng xác định trong Văn kiện Đại hội XIII.
Việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức trong sáng, ra sức thực hành 4 đức tính quý báu cần, kiệm, liêm, chính để suốt đời theo đuổi lẽ sống chí công vô tư, vì dân, vì nước theo gương sáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là vô cùng quan trọng. Những cán bộ, đảng viên như thế sẽ là những người có năng lực sáng tạo với tư duy đổi mới, có ý chí chiến đấu, bản lĩnh đi tiên phong, tự giác, đương đầu với mọi khó khăn, thử thách. Phong trào cách mạng ngày càng phát triển, nhiều nhiệm vụ khó khăn, phức tạp đặt ra, nhất là vào thời điểm này Đảng ta đang đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng; cương quyết chống lại tham nhũng, tiêu cực và tệ nạn xã hội... thì cán bộ, đảng viên phải nêu cao trách nhiệm, không lùi bước, không nản chí, thoái thác nhiệm vụ. Đảng và nhân dân đang đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tính Đảng, tính tiền phong, gương mẫu “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, không chỉ thể hiện trách nhiệm, nghĩa vụ, bổn phận của người cán bộ, đảng viên mà còn là dũng khí, bản lĩnh của người chiến sĩ tiên phong trong đổi mới, một phẩm chất cơ bản của tư cách đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam như Đảng ta đã xác định.
Trong Đảng ta có biết bao cán bộ, đảng viên thể hiện được tấm gương cao quý đó. Song vẫn còn không ít đảng viên giảm sút ý chí chiến đấu, xa rời lý tưởng, mục tiêu của Đảng, không chịu khó rèn luyện cả phẩm chất và năng lực, thậm chí còn thờ ơ, vô cảm, sa vào chủ nghĩa cá nhân, mắc vào vòng tội lỗi, phải xử lý kỷ luật theo Điều lệ Đảng và luật pháp của Nhà nước. Thực tế đã và đang xuất hiện một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, kể cả người giữ trọng trách lãnh đạo, quản lý bộc lộ sự bạc nhược, làm việc cầm chừng, sợ trách nhiệm không dám hành động, thấy sai không dám nói, thấy việc cần làm không làm và không dám làm, thấy lỗi không đủ can đảm nhận lỗi và sửa lỗi.
Bởi thế, Đảng ta không chỉ tìm tòi chính sách, khuyến khích cán bộ, có cơ chế bảo vệ cán bộ tốt mà còn xác định rõ những biện pháp và chế tài để kịp thời xử lý cán bộ, đảng viên suy thoái. Hơn 75 năm trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu tường tận những điều đó. Những chỉ dẫn về khuyến khích cán bộ có gan nói, có gan làm, có gan đương đầu trước mọi khó khăn thử thách, có gan chịu trách nhiệm... được Người đề cập trong “Sửa đổi lối làm việc” (tháng 10/1947 với bút danh X.Y.Z) vẫn nóng hổi tính thời sự và là kim chỉ nam dẫn dắt chúng ta hành động ngày nay.
2. Trong “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trước hết phải “sửa đổi lối làm việc của Đảng”. Người thẳng thắn phê bình những khuyết điểm của cán bộ, đảng viên thường hay mắc phải và Người gọi đó là những chứng bệnh phải ra sức sửa chữa. Đó là bệnh chủ quan, ích kỷ, hẹp hòi, mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Mỗi kẻ địch bên trong là bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn vì nó phá hoại từ trong phá ra. Phải chữa hết những chứng bệnh đó. Người còn nói tới thói ba hoa, là khuyết điểm trong cách nói và cách viết. Nếu không chữa ngay, để nó lây lan thì nguy hại vô cùng, nhất là trong cách cư xử, đối đãi với quần chúng. Tự phê bình nghiêm khắc, thẳng thắn để tẩy cho sạch sẽ những khuyết điểm, bệnh tật đó. Tổng kết thực tiễn, Người khái quát thành lý luận, rút ra những bài học kinh nghiệm thể hiện rõ tư tưởng, đạo đức, phong cách lãnh đạo của Người.
Người nêu lên một tư tưởng quan trọng về cách tổ chức và cách làm việc, phải sẵn sàng đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm: “Bao nhiêu cách tổ chức và cách làm việc, đều vì lợi ích của quần chúng, vì cần cho quần chúng. Vì vậy, cách tổ chức và cách làm việc nào không hợp với quần chúng thì ta phải có gan đề nghị lên cấp trên để bỏ đi hoặc sửa lại. Cách nào hợp với quần chúng, quần chúng cần, thì dù chưa có sẵn, ta phải đề nghị lên cấp trên mà đặt ra. Nếu cần làm thì cứ đặt ra, rồi báo cáo sau, miễn là được việc”. Thật là tỏ rõ tính chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm, tôn trọng tổ chức, nhất là tôn trọng nhân dân, luôn xuất phát từ ý nguyện và lợi quyền của dân chúng mà hành động. Người phê bình cán bộ “chỉ biết khư khư giữ nếp cũ. Cái không hợp cũng không dám sửa bỏ, cái cần thiết cũng không dám đặt mới. Đó là thói không phụ trách "quá hữu", gặp sao hay vậy”. Người cũng nói tới “thói không phụ trách "quá tả”, không suy nghĩ chín chắn, so sánh kỹ càng, hôm nay đặt ra cái này, hôm sau sửa lại cái khác, làm cho quần chúng hoang mang. Như thế, không phải là dám nghĩ một cách đúng đắn, thận trọng, mà là tùy tiện, cẩu thả, trái với khoa học.
Theo Người, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước hết phải là người có đạo đức, năng lực, trí tuệ, lòng can đảm, động cơ phải hoàn toàn vì nước, vì dân. Đó là các phẩm chất: Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Theo Người, nhân là thật thà, thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí, đồng bào. Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng; sẵn sàng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ, không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền. Nghĩa là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có gì phải giấu Đảng; không sợ người khác phê bình và phê bình đúng đắn người khác. Trí là đầu óc trong sạch, sáng suốt, không có việc tư túi làm cho mù quáng. Biết làm việc lợi, tránh việc có hại cho Đảng; vì Đảng mà cất nhắc người tốt, đề phòng người gian. Lại phải có dũng và liêm. Gặp việc có gan làm, khuyết điểm có gan sửa chữa; cực khổ, khó khăn có gan chịu đựng; không tham địa vị, tiền tài, sung sướng; sẵn sàng hy sinh tính mệnh cho Đảng, Tổ quốc.
Người còn chỉ trích, phê phán những thói hư tật xấu. Người cho rằng, trăm nghìn "thứ bệnh" đều sinh ra từ một thứ “bệnh mẹ”, “bệnh gốc” đó là chủ nghĩa cá nhân, là giặc nội xâm-một thứ giặc ở trong lòng. Muốn tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân, phải rèn đạo đức cách mạng suốt đời và phải có dũng khí để vượt qua. Người phê phán, chỉ trích gay gắt những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân ở “những đảng viên và cán bộ đầu cơ” (cơ hội), “những đảng viên và cán bộ ươn hèn, yếu ớt”. Những "tật bệnh" này khiến Đảng chuệch choạc, kỷ luật lỏng lẻo, chính sách không thi hành được triệt để nên dẫn đến Đảng xa rời dân chúng. Phải kiên quyết chống lại bệnh cá nhân đó.
Những phê phán, chỉ trích của Người, giờ đây, sau hơn 75 năm, nay đọc lại ta thấy không khỏi dằn vặt, xót xa. Người thức tỉnh chúng ta hãy nêu cao dũng khí, danh dự, trách nhiệm, liêm sỉ để “tự soi, tự sửa”, làm cho mỗi đảng viên và toàn Đảng trở nên trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là một Đảng chân chính.
Mấu chốt của vấn đề là nêu cao tự phê bình và phê bình, giữ gìn và củng cố đoàn kết, thắt chặt mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với dân, dựa vào dân mà xây dựng Đảng, tăng cường kỷ luật, kỷ cương và ra sức kiểm soát quyền lực để quyền lực không bị tha hóa.
Xét đến cùng, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm để dám đương đầu trước mọi khó khăn, thử thách, hành động quyết liệt vì lợi ích chung. Đó là phẩm chất, năng lực, bản lĩnh mà mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, chủ chốt các cấp hiện nay phải nêu gương thực hiện theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh./.
St

LÒNG SON SẮT CỦA NGƯỜI CAO TUỔI ĐỐI VỚI ĐẢNG, NHÀ NƯỚC

 Hơn 94 năm qua, dù bất kỳ trong hoàn cảnh lịch sử nào, người cao tuổi nước ta cũng đều tỏ rõ hào khí “Diên Hồng” trong đánh thắng giặc ngoại xâm và triệt tiêu giặc nội xâm, bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ, hun đúc ý chí tự lực, tự cường, cùng con cháu nuôi dưỡng khát vọng dân tộc hùng cường.

Khẳng định sứ mệnh lịch sử của người cao tuổi
Năm 1941, sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc, cùng một số đồng chí lãnh đạo tiền bối của Đảng trực tiếp nhóm lên ngọn lửa cách mạng ở Cao Bằng. Qua những tư liệu lịch sử và những câu chuyện truyền miệng của người dân trong vùng cho thấy, người cao tuổi là đồng bào dân tộc thiểu số ở Cao Bằng đã sớm giác ngộ đi theo cách mạng, hết lòng ủng hộ vật chất và tinh thần, che chở an toàn tính mạng cho lãnh tụ và cán bộ. Vì thế, khi viết “Lời hiệu triệu đoàn kết tất cả các bậc phụ lão” (6/6/1941), Hồ Chí Minh đã có cảm xúc lịch sử và sự trải nghiệm thực tiễn cách mạng của đồng bào Cao Bằng, đặt niềm tin tưởng vững chắc vào sức mạnh ý chí, nghị lực và lòng yêu nước của người cao tuổi Việt Nam dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng. Nhờ có người cao tuổi làm rường cột, anh dũng tham gia hoạt động cách mạng, Mặt trận Việt Minh (do Đảng làm hạt nhân lãnh đạo) đã mau chóng trở thành lực lượng đoàn kết rộng khắp vùng Việt Bắc, rồi lan tỏa khắp mọi miền, cùng hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc. Chớp thời cơ “ngàn năm có một” đến, người cao tuổi mọi miền đất nước đã làm ngọn đuốc sáng trong đoàn quân vùng lên tổng khởi nghĩa, như nước vỡ bờ, nhấn chìm bọn đô hộ, giành lại độc lập.
Sau Tuyên ngôn độc lập, nước nhà rơi vào cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”, người cao tuổi tiếp tục là chỗ dựa vững chắc cho chế độ mới. Họ gương mẫu thực hiện chính sách của Chính phủ về diệt giặc dốt, đẩy lùi giặc đói, cản bước thù trong giặc ngoài; hưởng ứng “Tuần lễ Vàng” do Chính phủ Hồ Chí Minh phát động đã đón nhận được hàng trăm ki lô gam vàng, thể hiện tấm lòng yêu nước, quyết chí bảo vệ thành quả cách mạng do Đảng lãnh đạo. Trải qua 30 năm kháng chiến trường kỳ vệ quốc, các cụ bạch đầu quân từ Nam ra Bắc, từ núi rừng cheo leo tới đồng bằng, vùng biển, dù là người Kinh hay người dân tộc thiểu số, không phân biệt giàu, nghèo, tôn giáo…, hết thảy đều nêu cao ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Họ là lực lượng đặc biệt, vừa xông trận vừa động viên con cháu ra tiền tuyến.
Nhiều điển hình “Tuổi cao chí càng cao” của người cao tuổi Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh đã được ghi công trong sử vàng dân tộc, trở thành nguồn cảm hứng thi ca còn mãi với thời gian, được người đời tạc thành tượng đài bất tử. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng sáng ngời cho người cao tuổi học tập, noi gương, sống trọn đời cho Đảng, Tổ quốc và nhân dân. 55 năm sau ngày Bác ra đi vào cõi vĩnh hằng, Di chúc thiêng liêng của Người tiếp tục được người cao tuổi nước nhà tận tâm, tận lực hiện thực hóa. Trong các lễ biểu dương việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, có vô vàn tấm gương người cao tuổi mẫu mực. Mẹ Nguyễn Thị Thứ ở Quảng Nam, có tới 11 người ruột thịt ra đi vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, trở thành hình tượng bất tử cho tinh thần kiên trung của Mẹ Việt Nam anh hùng.
Công cuộc đổi mới đất nước qua gần 40 năm đạt nhiều thành tựu có tính lịch sử, cũng có một phần công lao to lớn của người cao tuổi nước nhà. Hiện nay, cả nước có trên 7 triệu người cao tuổi trực tiếp tham gia lao động, sản xuất kinh doanh, nhiều người thành công trong khởi nghiệp, tích cực ch.uyển đ.ổi s.ố, chuyển đổi xanh. Chương trình xây dựng nông thôn mới ngày một khang trang, cũng nhờ một phần có những người cao tuổi biết hiến công, hiến đất, cần cù lao động làm ra của cải vật chất nuôi sống xã hội, chăm hoa tỉa cành làm thi vị cuộc sống, say đắm với dân ca dân vũ, trao truyền những giá trị văn hóa truyền thống cho con cháu. Đó là bức tranh sinh động trong thực tiễn cách mạng Việt Nam suốt 94 năm qua, là tiền đề đưa dân tộc ta trở thành nước phát triển hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Phát huy trí tuệ, kinh nghiệm sống, lao động, học tập của người cao tuổi trong xã hội, cộng đồng và gia đình”, góp phần xây dựng đất nước ta ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như lòng mong muốn của Bác Hồ cách đây 55 năm.
Tiếp tục là chỗ dựa vững chắc giữ cho nước nhà ổn định, hòa bình để phát triển bền vững
Tuy là một trong những quốc gia có thu nhập bình quân còn khiêm tốn so với nhiều nước khác, song, Việt Nam đã đạt tuổi thọ bình quân cao hơn nhiều nước (người Việt Nam có tuổi thọ bình quân là 74,5 vào năm 2023). Trong vòng 10-15 năm tới, xu thế già hóa dân số nhanh sẽ hình thành một lực lượng người cao tuổi với khoảng 1/5 dân số, chuyển trạng thái từ “dân số vàng” sang “dân số bạc”. Trong số đó, còn một bộ phận vẫn ở độ chín về sự trải nghiệm, sự tích lũy tri thức ở những lĩnh vực khác nhau, nhất là ý chí, nghị lực, họ thực sự là nguồn lực quí báu, quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững và hội nhập quốc tế.
Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng gửi gắm niềm tin và sự kỳ vọng: “Hội Người cao tuổi cần làm tốt hơn nữa vai trò cầu nối giữa Đảng và nhân dân”. Thực hiện chỉ đạo nêu trên, trong gần 3 năm qua, Hội Người Cao tuổi Việt Nam đã tích cực đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, trong đó chú trọng tuyên truyền, khích lệ ý chí tự lực, tự cường của người cao tuổi cả nước; góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Ngay sau khi được Quốc hội bầu giữ chức Chủ tịch nước, đồng chí Tô Lâm đã có cuộc gặp mặt đầu tiên với Đoàn đại biểu tiêu biểu Người Cao tuổi cả nước tại Phủ Chủ tịch vào ngày 6/6/2024. Tại cuộc gặp mặt, đồng chí Tô Lâm khẳng định: “Người cao tuổi Việt Nam vẫn thực sự là chỗ dựa vững chắc, giữ cho nước nhà ổn định, hòa bình để phát triển bền vững và tiến lên cùng thời đại”. Trong mọi quyết sách chiến lược của Đảng, người cao tuổi luôn là một lực lượng chính trị làm hậu thuẫn rất đáng tin cậy để triển khai thực hiện thành công đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trong hơn 5 triệu đảng viên hiện nay, người cao tuổi là thành trì vững chắc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bởi vì họ chính là những nhân chứng sống trong thực tiễn cách mạng nước nhà, được Đảng tôi rèn thành “thép đã tôi thế đấy”, trọn đời quyết không phai nhạt lý tưởng cách mạng.
Trong khoảng 200 Ủy viên Trung ương Đảng, có không ít người cao tuổi đang đảm đương trọng trách lớn của Đảng, Nhà nước, nhân dân. Họ là tầng lớp tinh hoa dân tộc, có những người trải qua kháng chiến vệ quốc, được Đảng, Nhà nước đào tạo cơ bản, nên đã tích lũy được vốn tri thức khoa học, công nghệ tiên tiến, được thử thách qua các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…, thực sự là nòng cốt tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới đồng bộ, toàn diện đất nước.
Ở cấp cơ sở, người cao tuổi từ những cương vị khi đương chức đã tích lũy nhiều kinh nghiệm công tác Đảng, nên về nghỉ hưu mà vẫn được tín nhiệm giao nhiệm vụ “ăn cơm nhà” lo việc cộng đồng, xã hội một cách chu toàn. Theo báo cáo của Ủy ban Quốc gia về người cao tuổi (ngày 28/8/2024), hiện cả nước có gần 800.000 người cao tuổi làm bí thư chi bộ, tổ trưởng dân phố. Ở đâu có tranh chấp, xung đột cộng đồng, người cao tuổi chẳng nề hà tham gia vào hòa giải để giữ mái ấm gia đình, tình làng nghĩa xóm. Ở vùng biên giới, người cao tuổi lặng lẽ tự giác tham gia gìn giữ cột mốc, xây đắp tình hữu nghị, kiên quyết đấu tranh tố giác tội phạm buôn lậu qua biên giới. Ở đô thị, người cao tuổi tự tổ chức thành đội điều phối giao thông ở những điểm nút giờ cao điểm, đón đưa trẻ qua đường. Ở những làng nghề, người cao tuổi đóng vai trò nghệ nhân trao truyền những giá trị lao động đã được nâng lên thành sáng tạo nghệ thuật lao động, thể hiện tài hoa người Việt. Đối với vốn văn hóa truyền thống, người cao tuổi là người truyền cảm hứng nghệ thuật dân gian cho đời sau.
Đặc biệt là, trong công tác chuẩn bị đại hội đảng các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030, tiến tới Đại hội XIV của Đảng, người cao tuổi các cấp sẽ tham gia với trách nhiệm cao, tâm huyết với Đảng, góp ý xác đáng vào dự thảo văn kiện, vào công tác nhân sự của Đảng.
Trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, người cao tuổi tiếp tục phát huy vốn lý luận, cùng với vốn kinh nghiệm thực tế để tham gia phản bác luận điểm sai trái, thù địch, phản động, bảo đảm an ninh tư tưởng chính trị. Đối với cuộc chiến chống giặc nội xâm, đẩy lùi nạn tham nhũng, tiêu cực, người cao tuổi tiếp tục thể hiện tinh thần dũng cảm, tạo nên thế trận “trên dưới đồng lòng”, “bách hô bá ứng”.
Bối cảnh thế giới đầy biến động đặt ra yêu cầu mỗi quốc gia đều phải có trách nhiệm bảo vệ quyền của người cao tuổi. Người cao tuổi Việt Nam mong muốn cấp ủy, chính quyền các cấp cần quan tâm đặt quyền và lợi ích chính đáng của người cao tuổi vào trung tâm mọi chủ trương, chính sách. Trước hết, trong Tổng kết 40 năm đổi mới, trong dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng, cần thể hiện sâu sắc quan điểm cách mạng không ngừng về đổi mới tư duy chiến lược, quản trị quốc gia đối với những vấn đề liên quan tới người cao tuổi. Các cơ quan liên quan cần quan tâm tham mưu Ban Bí thư chỉ đạo tổng kết Chỉ thị 59 - CT/TW ngày 27/9/1995 của Ban Bí thư về “Chăm sóc người cao tuổi”, xem xét ban hành chỉ thị mới có tính định hướng chiến lược đối với người cao tuổi trong bối cảnh già hóa dân số rất nhanh ở Việt Nam và là xu thế toàn cầu, làm cơ sở chính trị để cấp có thẩm quyền chỉ đạo toàn diện, đồng bộ việc chăm sóc, bảo vệ, phát huy vai trò người cao tuổi trong thời kỳ mới. Trong hoàn thiện Chiến lược Quốc gia về Người cao tuổi giai đoạn 2025- 2030, tầm nhìn tới năm 2050, cần thể hiện tính bao trùm mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội, tranh thủ ngoại lực để tạo nên nguồn lực đủ mạnh, tạo chuyển biến cả về lượng và chất đối với công tác chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giúp người cao tuổi thực sự sống hạnh phúc trong niềm hạnh phúc dân tộc.
Người cao tuổi là một phần máu thịt trong nhân dân, là lực lượng đặc biệt trong cộng đồng xã hội, là rường cột xây dựng nên xã hội xã hội chủ nghĩa. Do đó, họ cần được quan tâm, chăm lo; đồng thời họ cũng cần được tiếp tục cống hiến vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, góp phần bồi đắp cơ đồ dân tộc trường tồn, cường thịnh, sánh vai với các cường quốc năm châu./.
St

DỮ LIỆU CÁ NHÂN NHẠY CẢM ĐƯỢC QUY ĐỊNH TẠI DỰ THẢO LUẬT BẢO VỆ DỮ LIỆU CÁ NHÂN DO BỘ CÔNG AN ĐỀ XUẤT QUY ĐỊNH

 Đây là thông tin khi bị xâm phạm sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, gắn liền với quyền riêng tư của cá nhân, gồm 11 trường thông tin:

a) Quan điểm chính trị, quan điểm tôn giáo;
b) Tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong hồ sơ bệnh án, không bao gồm thông tin về nhóm máu;
c) Thông tin liên quan đến nguồn gốc chủng tộc, thông tin liên quan đến nguồn gốc dân tộc,
d) Thông tin về đặc điểm di truyền được thừa hưởng hoặc có được của cá nhân;
đ) Thông tin về thuộc tính vật lý, đặc điểm sinh học riêng của cá nhân;
e) Thông tin về đời sống tình dục, xu hướng tình dục của cá nhân;
g) Dữ liệu về tội phạm, hành vi phạm tội được thu thập, lưu trữ bởi các cơ quan thực thi pháp luật;
h) Thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, các tổ chức được phép khác, gồm: thông tin định danh khách hàng theo quy định của pháp luật, thông tin về tài khoản, thông tin về tiền gửi, thông tin về tài sản gửi, thông tin về giao dịch, thông tin về tổ chức, cá nhân là bên bảo đảm tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán;
i) Thông tin về người sử dụng đất, dữ liệu đất đai có chứa thông tin về người sử dụng đất;
k) Dữ liệu về vị trí của cá nhân được xác định qua dịch vụ định vị;
l) Dữ liệu cá nhân khác được pháp luật quy định là đặc thù và cần có biện pháp bảo mật cần thiết.
St

THỦ TƯỚNG PHẠM MINH CHÍNH: THI ĐUA CAO ĐIỂM 450 NGÀY ĐÊM XÓA NHÀ TẠM, NHÀ DỘT NÁT TRÊN TOÀN QUỐC

 Chiều 1-10, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì cuộc họp của Thường trực Chính phủ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các bộ, cơ quan về triển khai hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo, hộ cận nghèo.

Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, qua rà soát, hiện nay cả nước còn hơn 153.000 nhà tạm, dột nát ở các mức độ khác nhau; nếu hỗ trợ các hộ dân với mức 50 triệu đồng/hộ xây mới, 25 triệu đồng đối với hộ sửa chữa nhà ở thì cả nước cần hơn 6.500 tỷ đồng.
Tại lễ phát động phong trào Chung tay xóa nhà tạm, dột nát đến năm 2025, các tổ chức, cá nhân đã ủng hộ 320 tỷ đồng vào Quỹ cả nước chung tay xóa nhà tạm, dột nát cho hộ nghèo, hộ cận nghèo. Đến nay, các địa phương cũng vận động được hơn 44 tỷ đồng cho công tác này.
Kết luận cuộc họp, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cho biết phong trào thi đua “Chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước trong năm 2025” đã được phát động, triển khai có hiệu quả, không hình thức. Tuy nhiên để hoàn thành mục tiêu xóa nhà tạm, nhà dột nát trên toàn quốc vào cuối năm 2025, chào mừng Đại hội toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và kỷ niệm 80 năm Quốc khánh, 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cần cách làm mới, quyết liệt, khoa học, hiệu quả hơn.
Theo Thủ tướng, cùng với xây dựng nhà ở cho người có công và theo 3 chương trình mục tiêu quốc gia, từ nay đến hết năm 2025, cả nước phải xóa hơn 153.000 nhà dột nát, nhà tạm cho hộ nghèo, hộ cận nghèo.
Với phương châm “Nhà nước hỗ trợ, nhân dân làm chủ; Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội hỗ trợ”, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu thành lập Ban Chỉ đạo về xóa nhà tạm, dột nát cho tất cả các đối tượng, do Thủ tướng làm Trưởng Ban; Các địa phương phân công Bí thư cấp ủy Đảng trực tiếp làm Trưởng Ban Chỉ đạo về xóa nhà tạm, dột nát, với nguyên tắc cấp trên không làm thay cấp dưới.
Thủ tướng Chính phủ chỉ rõ, huy động tất cả các nguồn lực cho xóa nhà tạm, dột nát cho người dân. Cùng với nguồn lực Nhà nước, huy động nguồn xã hội hóa bao gồm tài chính, vật liệu, công sức và các hình thức nguồn lực khác.
Thông qua ý kiến của các đại biểu, đặc biệt qua công tác lãnh đạo chỉ đạo, theo dõi tình hình và khảo sát thực tế, Thủ tướng Chính phủ cho rằng phải huy động cả hệ thống chính trị, huy động sức mạnh tổng hợp vào cuộc xóa nhà tạm, dột nát cho người nghèo, người cận nghèo.
Theo Thủ tướng, cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước, cần phát huy mạnh mẽ tinh thần tự lực, tự cường, tự lo cho chính mình của người dân, sự giúp đỡ của làng xóm, họ hàng, các đoàn thể chính trị - xã hội như thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, với phương châm “ai có của giúp của, ai có công giúp công; ai có ít giúp ít, có nhiều giúp nhiều”, “người dân tự hỗ trợ nhau; thôn hỗ trợ thôn, xã hỗ trợ xã, huyện hỗ trợ huyện, tỉnh hỗ trợ tỉnh"; "các bộ, ngành, doanh nghiệp, tổ chức xã hội chung tay hỗ trợ các địa phương xóa nhà tạm, dột nát".
Người đứng đầu Chính phủ chỉ đạo, các bộ, ngành, địa phương phải "quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, làm việc nào dứt việc đó"; phân công lãnh đạo phụ trách “rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thời gian, rõ kết quả”; tổ chức phát động phong trào sâu rộng, thực chất; quản lý, tiếp nhận sự ủng hộ chặt chẽ, giảm khâu trung gian; tăng cường kiểm tra, giám sát, chống tiêu cực, thất thoát…; phấn đấu đến ngày 31-12-2025 cả nước hoàn thành xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi toàn quốc.
Trước mắt, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tổ chức phát động đợt thi đua cao điểm 450 ngày đêm; huy động sức mạnh tổng hợp toàn xã hội, chung tay hoàn thành xóa nhà tạm, nhà dột nát trên toàn quốc. Các cơ quan truyền thông tăng cường truyền thông vận động cho phong trào, giới thiệu các mô hình hay, hiệu quả để nhân rộng điển hình./.
St

BIỂU TƯỢNG NIỀM TIN SON SẮT CỦA NHÂN DÂN DÀNH CHO BỘ ĐỘI CỤ HỒ

 Cái gì từ trái tim sẽ đi đến trái tim. Lòng dân đối với Quân đội trước sau như một, thủy chung son sắt. Suốt 80 năm qua, tự nguyện là người đồng hành, đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi với dân, để “đi dân nhớ, ở dân thương” - đó là phương châm xử thế, tinh thần hành động để truyền thống “vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh” trở thành một trong những giá trị xuyên suốt, bất biến của Bộ đội Cụ Hồ.

1. Có những hình ảnh đồng bào ta dành cho cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam sẽ khó phai mờ theo năm tháng và trở thành một phần ký ức của lịch sử.
Mới đây, vào sáng chủ nhật 22/9/2024, trên các tuyến đường ở trung tâm TP Yên Bái (tỉnh Yên Bái), hàng trăm người dân đứng hai bên đường, cầm cờ Tổ quốc, vẫy tay lưu luyến chào tạm biệt cán bộ, chiến sĩ các đơn vị Quân khu 2 sau nửa tháng tận tình, tận lực giúp đỡ bà con địa phương khắc phục hậu quả lũ lụt. Trong số nhiều hình ảnh người dân Yên Bái xúc động nghẹn ngào chia tay khi các đoàn xe chở bộ đội đi qua đường phố được chia sẻ rộng rãi trên mạng xã hội, bức ảnh chụp một cô gái cầm bông hoa hồng giơ lên cao hướng về phía các chiến sĩ trẻ trên ô tô khiến nhiều người xúc động. Khoảnh khắc các chiến sĩ tươi cười rạng rỡ, ánh mắt bịn rịn của người dân và tay cô gái cầm bông hồng trao tặng người lính trẻ như làm bừng sáng không gian cả TP Yên Bái vừa trải qua cơn lũ lụt lịch sử.
Trước đó, một hình ảnh thắm tình quân dân cũng được ghi lại trên mảnh đất Điện Biên Phủ anh hùng. Sau khi tổ chức xong lễ mít tinh, diễu binh, diễu hành kỷ niệm 70 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ tại sân vận động TP Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên vào sáng 7/5/2024, đông đảo người dân địa phương đã đến gần cửa xe ô tô trò chuyện vui vẻ, bắt tay thân mật và vẫy chào lưu luyến cán bộ, chiến sĩ Quân đội trước khi về xuôi. Trong đó có hình ảnh Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng vừa lên xe chuẩn bị khởi hành, nhiều người dân đã đến tận cửa xe ô tô để bắt tay, vẫy chào nồng nhiệt vị chỉ huy cao nhất của QĐND Việt Nam. Đáp lại thịnh tình của bà con, ngồi trong xe, Đại tướng Phan Văn Giang chủ động hạ cửa kính, nở nụ cười thân thiện, nắm chặt tay rồi vẫy chào bà con trong tình cảm thân thương, trìu mến.
2. Cách đây hơn 30 năm, cuối tháng 4/1994, trước dịp kỷ niệm 40 năm Ngày Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1994), hàng nghìn người dân các dân tộc tỉnh Điện Biên cũng vây quanh tíu tít, niềm nở bên Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi ông trở lại thăm rừng Mường Phăng - nơi đặt Sở chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ năm xưa. Hình ảnh vị Đại tướng Tổng tư lệnh Quân đội trong bộ quân phục quen thuộc, đầu đội mũ kê pi, giơ tay chào theo phong cách "nhà binh" và miệng nở nụ cười tươi tắn trong tiếng vỗ tay hân hoan của bà con các dân tộc địa phương trở thành một trong những hình ảnh đẹp nhất của vị Đại tướng Tổng Tư lệnh sống giữa lòng dân.
Không ngẫu nhiên mà đồng bào các dân tộc tỉnh Điện Biên đã dành cho Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp một tình cảm tự nhiên, sôi nổi, chân thành, ấm áp như vậy. Bởi người Việt Nam ta đều hiểu rằng, để làm nên chiến thắng “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”, những người lính chân trần chí thép Điện Biên đã “năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt/Máu trộn bùn non/Gan không núng, chí không mòn!” (thơ Tố Hữu), tự nguyện lấy thân làm giá súng, lấy thân chèn pháo, lấy thân lấp lỗ châu mai... Tinh thần chiến đấu bất khuất, quật cường, mưu trí, gan dạ, dũng cảm vô song và sự dấn thân, hy sinh vô cùng lớn lao của những chiến sĩ Điện Biên đã trở thành biểu tượng bất tử trong lòng dân Việt Nam. Vì thế, được gặp lại vị Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp bên cánh rừng Mường Phăng là niềm vinh dự, tự hào của mỗi người dân Mường Phăng nói riêng, người dân Điện Biên nói chung, bởi ông chính là linh hồn của Chiến thắng Điện Biên Phủ, là đại diện tiêu biểu của đội ngũ chiến sĩ Điện Biên anh hùng.
Bảy mươi năm sau, trên mảnh đất “máu và hoa” Điện Biên, khi giai điệu khúc khải hoàn chiến thắng “Giải phóng Điện Biên bộ đội ta tiến quân trở về giữa mùa hoa nở, miền Tây Bắc tưng bừng vui, bản mường xưa nương lúa mới trồng, kìa đàn em bé giữa đồng nắm tay xòe hoa, dọc đường chiến thắng ta tiến về, đoàn dân công tiền tuyến vẫy chào pháo binh vượt qua...”, giữa khí thế điệp điệp trùng trùng của các khối diễu binh trên nhiều tuyến phố trung tâm của TP Điện Biên Phủ, đông đảo tầng lớp nhân dân thêm một lần chứng kiến sức mạnh oai hùng của một đội quân chiến đấu “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân quên mình”. Như một tình cảm tự nhiên, từ hào quang lẫy lừng “Chín năm làm một Điện Biên/Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”, hình ảnh Chiến sĩ Điện Biên năm xưa như sống lại trong lòng dân, vì thế bà con dành tình cảm đặc biệt cho những người lính Cụ Hồ cũng là lẽ thường tình. Quá khứ và hiện tại như đan xen, hóa thân vào nhau để tạo nên những hình ảnh rất đẹp về tình quân dân gắn bó thân thiết-quân sống giữa lòng dân, dân hồ hởi vui sướng khi đứng bên quân, cả quân và dân cùng chung một ý chí, một niềm tin về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, dân tộc anh hùng và tiền đồ tươi sáng của đất nước.
3. Trong những thời khắc đặc biệt, những mốc son chiến thắng, những bước ngoặt của lịch sử dân tộc Việt Nam thế kỷ 20 đều in đậm hình ảnh người dân Việt Nam dành cho bộ đội ta những tình cảm thắm thiết, ân tình, trìu mến.
Cách đây 70 năm, ngày 10-10-1954, hàng vạn người dân Thủ đô đứng hai bên đường phố, ánh mắt tràn đầy niềm tin, miệng cười rạng rỡ, tay cầm cờ hoa đón chào đoàn quân tiến về giải phóng Thủ đô. Không gian phố phường Hà Nội càng thêm tưng bừng, tươi vui bởi “Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về/ Như đài hoa đón mừng, nở năm cánh đào, chảy dòng sương sớm long lanh”-như lời hành khúc “Tiến về Hà Nội” (nhạc sĩ Văn Cao) ngân vang bất tận.
Cũng cách nay gần nửa thế kỷ, sau Chiến thắng 30-4-1975, đông đảo người dân Sài Gòn tay cầm cờ, cầm hoa, cầm ảnh Bác Hồ đứng hai bên đường cùng reo vui chào đón các đoàn xe tăng, xe thiết giáp của bộ đội Quân giải phóng diễu hành trên đường phố trong tiếng nhạc hoan ca “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng/ Lời Bác nay đã thành chiến thắng huy hoàng/ Ba mươi năm đấu tranh giành toàn vẹn non sông/ Ba mươi năm dân chủ cộng hòa kháng chiến đã thành công” (nhạc sĩ Phạm Tuyên).
Những hình ảnh bà con nồng nhiệt vẫy tay chào đón đoàn quân chiến thắng trở về hay ánh mắt lưu luyến tiễn chào tạm biệt bộ đội ta sau mỗi đợt hành quân giúp dân không chỉ thể hiện niềm tin son sắt của đồng bào dành cho Bộ đội Cụ Hồ, mà còn thể hiện tình nghĩa vẹn tròn, trước sau như một của các tầng lớp nhân dân dành cho QĐND Việt Nam anh hùng.
Cái gì từ trái tim sẽ đi đến trái tim. Lòng dân đối với Quân đội luôn thủy chung son sắt. Bởi dù trong thời chiến hay thời bình, dù bất cứ hoàn cảnh nào bộ đội ta cũng không bao giờ làm nhạt phai phẩm chất người con trung hiếu của nhân dân, mà ngược lại luôn nuôi dưỡng, bồi đắp để tinh thần trung hiếu ngày càng tỏa sáng trong lòng dân. Suốt 80 năm qua, dù bộ đội ta ở đâu, làm gì cũng một lòng một dạ phục vụ dân, trọng dân, yêu dân, kính dân, coi người dân như người thân thích của mình. Tự nguyện là người đồng hành, đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi với dân, để “đi dân nhớ, ở dân thương”-đó là phương châm xử thế, tinh thần hành động để truyền thống “vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh” trở thành một trong những giá trị xuyên suốt, bất biến của Bộ đội Cụ Hồ.
Tự hào được nhân dân dành cho tình cảm lớn lao, niềm tin son sắt, trách nhiệm và bổn phận của mỗi cán bộ, chiến sĩ hiện nay là phải ra sức giữ gìn, bồi đắp để không ngừng làm cho tình cảm quân dân lớn lên theo năm tháng. Bởi như nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang từng nói: “Lòng dân là quốc bảo”. Giữ được lòng dân là việc làm thiết thực, biện pháp căn cơ để “giữ nước từ lúc nước chưa nguy” và cũng là giải pháp chiến lược để bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa. Bởi suy cho cùng, giữ được lòng dân là giữ được linh hồn của sơn hà xã tắc, vận mệnh quốc gia và bảo toàn trọn vẹn chủ quyền, non sông gấm vóc Việt Nam./.
St

BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRONG QUÂN ĐỘI

 Lịch sử gần 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam đã khẳng định, trong bất luận hoàn cảnh nào, Đảng cũng luôn lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội. Đó là nguyên tắc bất di bất dịch, có cơ sở lý luận, thực tiễn vững chắc, không thể xuyên tạc.

Lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy.
Đối với Việt Nam, các thế lực thù địch luôn đánh giá rằng, muốn “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ” hoặc chiến tranh xâm lược, nhất thiết phải “phi chính trị hóa”, “vô hiệu hóa” lực lượng quân đội. Để thực hiện tham vọng đó, các thế lực thù địch xác định, Quân đội nhân dân Việt Nam là mục tiêu tập trung chống phá; trước mắt là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, “phi chính trị hóa” quân đội, làm rệu rã tinh thần, mất sức chiến đấu, tiến tới vô hiệu hóa lực lượng trung thành, chủ lực, nòng cốt bảo vệ Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Chúng lý luận rằng, quân đội là một tổ chức quân sự, công cụ bạo lực vũ trang của Nhà nước, được tổ chức ra để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Vì thế, quân đội trung lập về chính trị, đứng ngoài những biến động chính trị - xã hội, không chịu sự lãnh đạo của bất cứ đảng phái chính trị nào.
Với lập luận đó, chúng ra sức tuyên truyền nhằm xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng trong quân đội, ra sức phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin; xuyên tạc tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng Cộng sản Việt Nam; phủ nhận nguyên tắc Đảng lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” đối với Quân đội nhân dân Việt Nam. Chúng đòi xóa bỏ hoạt động công tác đảng, công tác chính trị cùng hệ thống cơ quan chính trị và cán bộ chính trị trong quân đội; xuyên tạc truyền thống, bản chất “Bộ đội Cụ Hồ”, chia rẽ đoàn kết quân - dân, hòng làm giảm lòng tin của nhân dân đối với quân đội...
Đặc biệt, hằng năm, càng gần đến Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12), sự chống phá của các thế lực thù địch lại càng gia tăng với nhiều thủ đoạn nguy hiểm và thâm độc. Các thế lực thù địch tuyên truyền theo hướng phủ nhận chiến thắng của Quân đội dưới sự lãnh đạo của Đảng qua những giai đoạn cách mạng; xuyên tạc các sự kiện lịch sử có Quân đội tham gia; thổi phồng khuyết điểm của một vài cá nhân, đơn vị, hòng làm mất uy tín của Quân đội… Tất cả những điều đó không có gì khác ngoài mục đích là nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng trong Quân đội, làm cho Quân đội bị tha hóa, biến chất về chính trị, suy giảm về sức mạnh chiến đấu; Đảng, Nhà nước và nhân dân ta mất chỗ dựa vững chắc.
Tuy nhiên, sự chống phá của các thế lực thù địch luôn bị thực tiễn bác bỏ, bởi Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp sáng lập, tổ chức xây dựng, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện. Đây là đội quân kiểu mới, mang bản chất của giai cấp vô sản. Sự ra đời của Quân đội ta không phải từ các đội quân của chế độ thực dân, phong kiến để lại, mà là đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu; được xây dựng hoàn toàn mới, theo hệ tư tưởng, nguyên tắc, đường lối chính trị, quân sự Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ những đội tự vệ công nông đầu tiên trong cao trào cách mạng Xô viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), những đội du kích hình thành từ các cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, Bắc Sơn… đến Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân; có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Ngoài mục tiêu đó, Quân đội nhân dân Việt Nam không còn mục tiêu và lợi ích nào khác.
Đó là điều không thể phủ nhận. Các thế lực thù địch dù có mưu mô, xảo quyệt đến đâu cũng không thể bác bỏ được.
Một số vấn đề cấp thiết đặt ra.
Hiện nay, sự chống phá của các thế lực thù địch nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội ngày càng tinh vi, xảo quyệt, đòi hỏi phải có những biện pháp thiết thực để bác bỏ những luận điệu xuyên tạc đó, đặc biệt là để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong Quân đội.
Một là, luôn quán triệt và thực hiện nghiêm nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội trong mọi tình huống, mọi hoàn cảnh. Quá trình xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam gần 80 năm qua đã khẳng định sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội vừa là nguyên tắc, vừa là quy luật trong xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân; đồng thời, là nhân tố quyết định bảo đảm cho Quân đội luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; xứng đáng là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị tin cậy, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, khâu then chốt của then chốt để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội là tiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị. Do đó, hơn lúc nào hết cần luôn nâng cao chất lượng, hiệu quả, hiệu lực công tác đảng, công tác chính trị; bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, giữ vững trận địa tư tưởng, văn hóa văn nghệ của Đảng trong quân đội. Trên cơ sở đó, xây dựng, rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng cho cán bộ, chiến sĩ; giúp họ có đủ sức đề kháng, miễn dịch trước âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch.
Hai là, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong Quân đội. Đây là giải pháp quan trọng, làm cho cán bộ, đảng viên và bộ đội nhận thức sâu sắc những nguyên lý cơ bản, giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của Quân đội; bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, tình đoàn kết quân dân; âm mưu, thủ đoạn của các thế lực phản động, thù địch nhằm phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng trong Quân đội. Theo đó, các cơ sở giáo dục, đào tạo trong Quân đội cần tiếp tục nghiên cứu đổi mới chương trình, nội dung giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Các cơ quan, đơn vị cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị ở đơn vị cơ sở trong tình hình mới”; duy trì nghiêm chương trình, kế hoạch giáo dục chính trị hằng năm của các đối tượng, các chế độ đọc báo, nghe đài, xem thời sự, Ngày Đảng, Ngày Chính trị và văn hóa tinh thần...
Ba là, cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp trong Quân đội cần tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt Nghị quyết số 35-NQ/TƯ ngày 22-10-2018 của Bộ Chính trị (khóa XII) “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Vấn đề có ý nghĩa quyết định là phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, trực tiếp là của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, các cấp ủy Đảng, chính ủy, chính trị viên, chỉ huy các cấp đối với nhiệm vụ này. Trên cơ sở đó, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mọi cán bộ, đảng viên, nhất là trong các cơ quan nghiên cứu, các học viện, nhà trường; phóng viên, biên tập viên các cơ quan báo chí đối với nhiệm vụ đấu tranh phản bác các thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong Quân đội. Đồng thời, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng; nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ phận nòng cốt, chuyên sâu; tổ chức đấu tranh bằng nhiều hình thức, như trên các phương tiện thông tin đại chúng, qua hệ thống giáo dục lý luận chính trị, tuyên truyền miệng và trên mạng xã hội, internet...
Bốn là, đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Cần thiết lập thế trận chủ động, rộng khắp, liên hoàn, vững chắc trong Quân đội để đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch. Đồng thời, xác lập tổng thể các biện pháp, nguyên tắc, bố trí, triển khai và tổ chức các lực lượng cụ thể để đấu tranh, bao phủ toàn bộ nội bộ Quân đội, không ngừng mở rộng trên phạm vi quốc gia và quốc tế; chủ động gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, “xây” là cơ bản, “chống” phải quyết liệt, hiệu quả; "lấy cái đẹp dẹp cái xấu"; không bỏ trống trận địa tư tưởng, bảo đảm ở đâu có bộ đội là ở đó có tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng; mỗi đơn vị, mỗi cán bộ, chiến sĩ là một tấm gương sáng về truyền bá nền tảng tư tưởng của Đảng. Chỉ có như vậy mới làm thất bại mọi âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch.
Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong Quân đội là nội dung quan trọng, cần được tiến hành thường xuyên, liên tục; qua đó, khẳng định sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội. Trong thời gian qua, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong Quân đội đã được tiến hành hiệu quả với nhiều nội dung, hình thức khác nhau. Trong thời gian tới, trước bối cảnh tình hình mới, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong Quân đội đặt ra nhiều yêu cầu mới cao hơn. Do đó, những giải pháp như đã nêu là những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc, cần tiếp tục được vận dụng một cách sáng tạo, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng: Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ./.
St

UY TÍN CỦA ĐẢNG VÀ NIỀM TIN CỦA NHÂN DÂN

 Những thành tựu vô cùng to lớn mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã giành được trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, là minh chứng cho năng lực lãnh đạo, cầm quyền và uy tín của Đảng ta. Bài viết đánh giá rõ hơn về vai trò và uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam, qua đó gợi mở những vấn đề trọng tâm để mỗi tổ chức cơ sở đảng, mỗi cán bộ, đảng viên cần triển khai thực hiện tốt góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước ta thực sự trong sạch, vững mạnh và uy tín, củng cố thêm niềm tin của Nhân dân đối với Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.

Từ ngày thành lập (3-2-1930) cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng nghiên cứu, tổng kết, đổi mới, đúc rút kinh nghiệm để ngày càng hoàn thiện hơn về vai trò lãnh đạo, vai trò cầm quyền trong quá trình giành độc lập cho dân tộc, xây dựng đất nước và trong giai đoạn xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đồng thời, thể hiện quan điểm, lập trường, tư tưởng nhất quán, kiên định của Đảng ta trong việc vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đảng đã quy tụ được sức mạnh, tiềm năng, khát vọng, ý chí của Nhân dân và chuyển hóa thành sức mạnh quần chúng - sức mạnh tổng hợp để xây dựng xã hội và cuộc sống của người dân ngày một thịnh vượng… đó chính là “uy tín” của Đảng ta mà “niềm tin” của Nhân dân dành chọn, gửi gắm.
Trải qua 94 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo, cầm quyền và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, ngoại giao… Đảng ta ngày càng vững mạnh là điều kiện quyết định nhất để chúng ta xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công.
Sau những năm tiến hành công cuộc đổi mới (từ năm 1986), Đảng ta đã đúc rút kinh nghiệm và nhấn mạnh: “Điều kiện cốt yếu để công cuộc đổi mới giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa và đi đến thành công là trong quá trình đổi mới Đảng phải kiên trì và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò lãnh đạo xã hội. Đảng phải tự đổi mới và chỉnh đốn, không ngừng nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của mình”.
Thập niên 90 của thế kỷ trước, tình hình thế giới có nhiều biến động to lớn, đặc biệt là sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu; ở trong nước có một số cán bộ, đảng viên dao động, hoài nghi về sự lựa chọn mô hình phát triển kinh tế - xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Các thế lực thù địch, phản động tăng cường chống phá cách mạng Việt Nam dưới nhiều hình thức, thủ đoạn tinh vi, nham hiểm… hòng gây chia rẽ sự đoàn kết nội bộ trong Đảng và gây sự hoài nghi, dao động trong mọi tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, nhờ kiên định đường lối đã chọn, sáng suốt, tài tình trong lãnh đạo của Đảng, Đảng ta đã đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991). Cương lĩnh năm 1991 nhấn mạnh: xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Do đó, trong giai đoạn năm 1991-1995, đất nước ta dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái, nền kinh tế tiếp tục đạt được nhiều thành tựu quan trọng; GDP bình quân tăng 8,2%/năm; hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều đạt nhịp độ tăng trưởng tương đối khá. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đánh giá: “Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang một thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Những thành tựu vô cùng quan trọng mà đất nước ta đạt được trong giai đoạn năm 1991-1995 là thể hiện rõ vai trò và uy tín của Đảng ta đã ngày càng vững mạnh về bản lĩnh chính trị, về tính khoa học đúng đắn trong việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; về tầm cao tư duy dám đổi mới, sáng tạo phù hợp với điều kiện ở trong nước cũng như bối cảnh thế giới, khu vực lúc bấy giờ. Mặt khác, trong Đảng đã dám nhìn thẳng vào sự thật để đánh giá khách quan, khoa học những hạn chế, khuyết điểm, cả những việc chúng ta chưa làm được, chưa thành công… để rút kinh nghiệm, tìm tòi giải pháp để khắc phục, sửa chữa. Đồng thời, trong giai đoạn này Đảng ta tích cực, chủ động trong việc mở rộng quan hệ kinh tế, ngoại giao với các quốc gia, vùng lãnh thổ, với phương châm và quan điểm rõ ràng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”.
Từ ngày 11-7-1995, giữa Mỹ và Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ ngoại giao, dỡ bỏ lệnh cấm vận về kinh tế đối với Việt Nam. Đây là điều kiện quan trọng để Việt Nam từng bước ký kết các hiệp định thương mại với các quốc gia, tổ chức trên thế giới, góp phần tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và là tiền đề để Đảng, Nhà nước ta xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa (từ Đại hội IX của Đảng); từng bước đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được nâng lên.
Cụ thể, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn sản xuất hàng hóa với thị trường; Đảng và Nhà nước ta đẩy mạnh thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân, mô hình các hợp tác xã, tổ chức phát triển kinh tế…). Trong đó, trọng tâm là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần được hình thành, kinh tế vĩ mô đã cơ bản ổn định. Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện cam kết về khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại thế giới (WTO). Đặc biệt, tính đến tháng 8-2023, Việt Nam đã ký kết các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) với các quốc gia, tổ chức kinh tế trên thế giới đang còn hiệu lực (16 hiệp định) và tiếp tục đang đàm phán 3 hiệp định(4). Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, ký kết hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, trong đó, Việt Nam đã nâng tầm quan hệ “Đối tác chiến lược toàn diện” với 7 quốc gia gồm: Trung Quốc (tháng 5-2008), Liên bang Nga (tháng 7-2012), Ấn Độ (tháng 9-2016), Hàn Quốc (tháng 12-2022), Hoa Kỳ (tháng 9-2023), Nhật Bản (tháng 11-2023), Ô-xtrây-li-a (tháng 3-2024) và 18 đối tác chiến lược, 12 đối tác toàn diện.
Trải qua 47 năm (từ ngày 20-9-1977) Việt Nam chính thức gia nhập Liên hiệp quốc, với những đóng góp của mình, Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào nhiều vị trí, cơ quan quan trọng của Liên hiệp quốc và ghi được nhiều “dấu ấn” tại các cơ quan như Hội đồng Bảo an, Hội đồng Nhân quyền... Đặc biệt, ngày 9-4-2024, Hội đồng Kinh tế - xã hội (ECOSOC) đã nhất trí bầu Việt Nam vào Hội đồng Chấp hành cơ quan Liên hiệp quốc về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ (UN Women) nhiệm kỳ 2025-2027.
Với chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta trong triển khai thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Tính đến ngày 30-6-2023, cả nước có 6.022/8.177 xã (73,65%) đạt chuẩn nông thôn mới; 1.331 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 176 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu. Bình quân cả nước đạt 16,9 tiêu chí/xã; có 263/644 đơn vị cấp huyện (40,8%) thuộc 58 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới(5). Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”.
Do đó, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến phát triển toàn diện con người Việt Nam về sức khỏe, giáo dục và thu nhập cũng như những thụ hưởng về văn hóa, tinh thần… Theo Báo cáo Phát triển con người (HDR) toàn cầu 2021/2022 được Chương trình Liên hiệp quốc tại Việt Nam công bố tháng 9-2022 cho biết: Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam năm 2021 là 0,703, tăng hai bậc trong bảng xếp hạng toàn cầu, từ 117/189 quốc gia vào năm 2019 lên 115/191 quốc gia trong năm 2021; HDI của Việt Nam xếp thứ 6 trong khu vực Đông Nam Á. Tính đến đầu năm 2024, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều cả nước giảm còn 2,93% (giảm 1,1% so với cuối năm 2022), Việt Nam là 1 trong 30 quốc gia đầu tiên trên thế giới và là quốc gia đầu tiên của châu Á áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, bảo đảm mức sống tối thiểu và thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản (6 chiều về việc làm, y tế, giáo dục, nhà ở, nước sinh hoạt và vệ sinh, thông tin). Có thể khẳng định, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận trong công tác xóa đói, giảm nghèo.
Những thành tựu trên được các quốc gia và chính đảng các nước đánh giá cao. Ông Walter Sorrentino, Phó Chủ tịch Đảng Cộng sản Bra-xin khẳng định: “Từ thực tiễn của Việt Nam, chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội mà chính quyền phục vụ Nhân dân, lấy Nhân dân làm gốc. Kết quả xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam là minh chứng có giá trị hơn mọi lời nói. Điều này càng được thể hiện rõ ràng trong đại dịch COVID-19, cho thấy rõ tính ưu việt trong phòng, chống dịch bệnh của chính quyền các nước xã hội chủ nghĩa… Có được điều này là bởi chủ nghĩa xã hội là nhân văn, là động lực để nhân loại hướng tới một xã hội thịnh vượng, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, bảo vệ độc lập, tự chủ và môi trường thiên nhiên. Nó đòi hỏi phải có một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý mọi mặt đời sống xã hội, trong đó Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”.
Tại sự kiện “Người Việt Nam có tầm ảnh hưởng 2024” (VGLF) ở Pháp, ông Philipp Rösler - nguyên Phó Thủ tướng Đức đánh giá: “Việt Nam đang đứng trước cơ hội, thời điểm để tìm ra con đường hướng tới sự thịnh vượng. Bên cạnh đó, Việt Nam là đất nước trung lập trong nhiều thế kỷ và tìm ra các giải pháp hòa bình. Vì thế, Việt Nam có thể đóng vai trò lớn hơn vì lợi ích của nhân loại”. Khi phân tích, đánh giá bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, ông Petro Simonenko, Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản U-crai-na nêu rõ: “Những thành tựu của Việt Nam hiện nay một lần nữa chứng minh ưu thế vượt trội của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản, đó là bảo đảm sự thỏa mãn tối đa các nhu cầu văn hóa và vật chất ngày càng tăng của cả xã hội bằng cách không ngừng nâng cao và hoàn thiện phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa trên cơ sở các thành tựu khoa học - công nghệ mới nhất… Một lần nữa chúng tôi tin tưởng rằng, những ưu việt của việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam là rõ ràng và không thể bàn cãi”.
Đặc biệt, kết quả tích cực về cải cách thể chế và đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước làm cho Việt Nam trở thành một trong những quốc gia có hệ thống chính trị phát triển, ổn định hàng đầu thế giới. Minh chứng rõ nhất là thành phố Hà Nội đã được lựa chọn là nơi tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên lần hai từ ngày 27 đến ngày 28-2-2019 giữa Tổng thống Mỹ Donald Trump và lãnh đạo Kim Jong-un; đồng thời lần đầu tiên trong lịch sử ngoại giao của Việt Nam, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã thăm cấp nhà nước tới Việt Nam (từ ngày 10 đến ngày 11-9-2023) theo lời mời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Đây là sự khẳng định cho một thể chế chính trị Việt Nam phát triển hài hòa và mô hình kinh tế hiệu quả; là thể hiện rõ nét nhất về vai trò và uy tín của Đảng và Nhà nước ta trên trường quốc tế. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.
Để Đảng ta luôn thực sự là một đảng cầm quyền duy nhất, lãnh đạo toàn diện đất nước trong mọi hoàn cảnh, đòi hỏi Đảng phải thật sự “trí tuệ”, luôn đổi mới, sáng tạo phương thức cầm quyền và phải “tỉnh táo” trước mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Thực tế, từ ngày thành lập cho đến nay, Đảng ta đã hoàn thành tốt sứ mệnh mà nhân dân giao phó, ngày càng đem lại niềm tin vững chắc đối với nhân dân.
Có được niềm tin rất lớn ở Nhân dân là do Đảng ta đã thẳng thắn đánh giá, chỉ rõ những khuyết điểm, tồn tại trong lãnh đạo, chỉ đạo, để từ đó đề ra giải pháp phù hợp, quyết liệt nhằm sửa chữa, khắc phục. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức quán triệt và thực hiện một số nghị quyết còn chậm, chưa quyết liệt, chưa hiệu quả. Thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số tổ chức đảng còn chưa nghiêm, thậm chí vi phạm”(11). Điều này cho thấy bản lĩnh chính trị của Đảng ta, dám nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, chứ không né tránh, “che đậy” những hạn chế, cũng chính từ sự “bản lĩnh” này mà Nhân dân càng tin tưởng vào sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
Xác định đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là nhiệm vụ lâu dài, nên Đảng ta luôn kiên quyết, kiên trì. Từ năm 2013, khi Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng được thành lập, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng được thực hiện quyết liệt, đạt được nhiều kết quả toàn diện. Từ tháng 9-2021, để công tác phòng, chống tham nhũng tiếp tục đi vào chiều sâu, toàn diện, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng được Bộ Chính trị quyết định bổ sung chức năng, nhiệm vụ, chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, trọng tâm là chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta; đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng liêm chính, trong sạch, vững mạnh.
Với quan điểm đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là: “Trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt” và “Tiền hô hậu ủng, nhất hô bá ứng”. Nhằm cụ thể hóa quan điểm chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư, Bộ Chính trị đã quyết định cho tiến hành từng bước thành lập các ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, do đồng chí bí thư tỉnh ủy làm trưởng ban, đã góp phần gắn kết chặt chẽ hơn giữa phòng và chống theo đúng tinh thần chỉ đạo của Đảng đề ra từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Từ khi thành lập đi vào hoạt động, các ban chỉ đạo cấp tỉnh đã có sự chuyển biến rõ rệt, với nhiều kết quả nổi bật trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Cụ thể, về công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng, trong năm 2023, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 606 tổ chức đảng, hơn 24.160 đảng viên (tăng 12% về số đảng viên bị kỷ luật so với năm 2022). Trong đó, thi hành kỷ luật 459 đảng viên do tham nhũng, 8.863 đảng viên do suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm những điều đảng viên không được làm. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 19 cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Trong đó, lần đầu tiên có 6 cán bộ bị xử lý kỷ luật do vi phạm trong kê khai tài sản, thu nhập. Các cơ quan chức năng đã cho thôi giữ chức vụ, nghỉ công tác, bố trí công tác khác đối với 9 cán bộ diện Trung ương quản lý. Các địa phương đã cho từ chức, miễn nhiệm, bố trí công tác khác hơn 360 trường hợp sau khi bị kỷ luật, trong đó có 92 cán bộ thuộc diện tỉnh ủy, thành ủy quản lý. Tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay, đã thi hành kỷ luật 105 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 22 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng. Về công tác điều tra, truy tố, xét xử, năm 2023, các cơ quan tiến hành tố tụng trên cả nước đã khởi tố hơn 4.500 vụ, hơn 9.370 bị can về các tội tham nhũng, kinh tế, chức vụ (tăng 46% về số vụ án so với năm 2022). Riêng án tham nhũng tăng gần hai lần về số vụ và hơn hai lần về số bị can.
Bất kể cán bộ, đảng viên giữ vị trí công tác nào (dù đương chức hay đã nghỉ công tác) nếu vi phạm “những điều đảng viên không được làm” thì đều bị xử lý kỷ luật kể cả mặt đảng và chính quyền, điều này cho thấy công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng ta là “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”, “bất kể người đó là ai”. Qua điều tra xã hội học về nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của người dân khi được hỏi, thì đại đa số người dân rất đồng tình, ủng hộ cao cách làm quyết liệt, triệt để, khoa học, thận trọng từng bước khi phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử các cá nhân, tổ chức có dấu hiệu vi phạm, để không bỏ sót, bỏ lọt đối tượng, tránh oan sai. Điều này cho thấy sự đồng thuận, đặt niềm tin rất lớn của người dân vào quyết tâm làm trong sạch bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị; quyết tâm diệt trừ tận gốc tệ tham nhũng, lãng phí, tiêu cực dưới sự chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng ta, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó dự đoán; ở trong nước vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức đan xen; các thế lực thù địch, phản động vẫn tăng cường chống phá cách mạng Việt Nam; sự phát triển của khoa học công nghệ, các nền tảng mạng xã hội khó kiểm soát… Đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục tăng cường bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, củng cố niềm tin của Nhân dân với Đảng là những việc rất quan trọng, do đó trong thời gian tới cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
Một là, giữ vững vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để thực hiện tốt được điều này, trước hết mỗi tổ chức đảng phải thực hiện nghiêm những quy định về nguyên tắc tổ chức hoạt động cơ bản của Đảng ta là:
1) Tập trung dân chủ trong Đảng;
2) Tự phê bình và phê bình;
3) Đoàn kết thống nhất;
4) Gắn bó mật thiết với Nhân dân;
5) Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Đồng thời, phải hết sức chú trọng đến các nguyên tắc trong công tác tư tưởng như: nguyên tắc tính Đảng; nguyên tắc tính khoa học; nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, lời nói đi đôi với việc làm. Đặc biệt là “tính Đảng” cần hết sức coi trọng, trên cơ sở đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng, xác định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Vì vậy, phải tăng cường đổi mới mạnh mẽ tư duy và cách thức làm công tác tư tưởng, mở rộng tính dân chủ, công khai, minh bạch, kiên quyết đấu tranh loại bỏ những phần tử có thái độ hữu khuynh hoặc mơ hồ những vấn đề tư tưởng có tính nguyên tắc.
Tại Phiên họp đầu tiên của Tiểu ban nhân sự chuẩn bị cho Đại hội XIV của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Tiểu ban chủ trì phiên họp có đề cập và nhấn mạnh đến những vấn đề có tính nguyên tắc của Đảng ta và cũng phù hợp với thể chế chính trị ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, đó là: “Tập thể lãnh đạo”, “Lãnh đạo tập thể”, “Lãnh tụ tập thể”. Có thể nói, đây cũng là lần đầu tiên khái niệm “lãnh tụ tập thể” được nhấn mạnh trong công tác chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Bởi vì, tầm đặc biệt quan trọng của công tác chuẩn bị nhân sự cho Đại hội XIV của Đảng có ý nghĩa lịch sử, là trọng trách nặng nề; “Lãnh tụ tập thể” còn có hàm nghĩa quy tụ, hội tụ được những cán bộ, đảng viên thực sự có đức, có tài, trong đó đức là gốc. Cụ thể, là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, nhân sự trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng phải thực sự là một khối thống nhất, thông suốt trong hành động, trong lãnh đạo, chỉ đạo những vấn về quan trọng của đất nước.
Hai là, tiếp tục đổi mới nội dung, phong cách, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ta phù hợp với xu thế thời đại và thực tiễn đất nước. Đảng ta là đảng cầm quyền, những thắng lợi và thành tựu, những thất bại và tổn thất của cách mạng đều gắn liền với trách nhiệm của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng tác động trực tiếp đến toàn bộ hệ thống để bảo đảm giữ vững quyền lực chính trị của nhân dân. Tính nhất quán tạo nên phong cách, sự kiên định tạo nên sức mạnh, nghĩa là nhất quán trong việc ban hành chỉ thị, nghị quyết với hành động; kiên trì, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng mà Đảng và Nhân dân ta đã lựa chọn. Do đó, đổi mới nội dung, phong cách và phương thức lãnh đạo của Đảng không phải là để hạ thấp hay xóa bỏ vai trò lãnh đạo, mà chính là để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng; tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với Nhân dân, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó, cần phân rõ được đúng chức năng giữa Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị, trước hết là giữa Đảng với Nhà nước, có cơ chế và phương thức hoạt động khoa học, phù hợp, linh hoạt để phát huy dân chủ và đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng đất nước.
Ba là, quyết liệt, mạnh mẽ trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta sớm nhận diện và ngày càng xác định rõ hơn về nguy cơ, tác hại của tệ tham nhũng, tiêu cực đối với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp xây dựng đất nước. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng thẳng thắn đánh giá: “Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở một số địa phương, bộ, ngành chưa có chuyển biến rõ rệt; công tác phòng ngừa tham nhũng ở một số nơi còn hình thức. Việc phát hiện xử lý tham nhũng, lãng phí vẫn còn hạn chế, nhất là việc tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý tham nhũng, lãng phí trong nội bộ cơ quan, đơn vị còn yếu; tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực trong một số cơ quan, đơn vị khu vực hành chính, dịch vụ công chưa được đẩy lùi… Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị còn chậm đổi mới, có mặt lúng túng”.
Do đó, chúng ta phải quyết liệt, mạnh mẽ trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài.
Bốn là, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và lựa chọn đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý “có tâm”, “có tầm”. Trong công tác cán bộ, từ khâu tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm phải thận trọng, khách quan, công tâm, đặc biệt đối với những cán bộ cấp chiến lược, cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải là người thực sự tiêu biểu về phẩm chất đạo đức, lối sống, nổi trội về năng lực lãnh đạo, quản lý, có tầm nhìn chiến lược dài hạn; tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách để bảo vệ, khuyến khích những cán bộ có tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới sáng tạo, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; có tinh thần cống hiến, phụng sự Tổ quốc… Hiện nay, chúng ta đang chuẩn bị cho công tác nhân sự Đại hội XIV của Đảng (nhiệm kỳ 2026-2030), đây là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, có ý nghĩa lịch sử trong chặng đường tiếp theo của cách mạng Việt Nam.
Năm là, tiếp tục thực hiện nghiêm, hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết, kết luận của Trung ương về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Mỗi cơ quan, đơn vị cần xây dựng chương trình, kế hoạch để triển khai thực hiện một cách nghiêm túc, hiệu lực, hiệu quả các nghị quyết, kết luận của Trung ương, trọng tâm là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đặc biệt, phải thực hiện nghiêm, hiệu quả Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25-10-2021 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm; Quy định số 114-QĐ/TW ngày 11-7-2023 của Ban Chấp hành Trung ương về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ.
Sáu là, tăng cường giao lưu, hợp tác quốc tế với các chính đảng trên thế giới, đặc biệt là Đảng Cộng sản các nước. Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã xác định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Với phương châm chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế, nhận được sự tin cậy của bạn bè thế giới và đem lại nhiều thành tựu trên các lĩnh vực chính trị, an ninh, kinh tế và văn hóa xã hội. Tăng cường giao lưu, hợp tác với các chính đảng, các quốc gia trên thế giới còn nhằm tranh thủ sự ủng hộ, đồng thuận; làm cho các quốc gia, tổ chức hiểu rõ hơn về bản chất tốt đẹp của Đảng Cộng sản và con người Việt Nam; giảm bớt sự thù địch, chống phá của các thế lực phản động.
Có thể khẳng định, thực hiện hiệu quả những nội dung cơ bản nêu trên không chỉ góp phần tạo thêm uy tín của Đảng, củng cố vững chắc niềm tin của Nhân dân, mà còn thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra. Trọng tâm là những nhiệm vụ rất quan trọng trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, phấn đấu đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Nước ta là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao; xây dựng một nước Việt Nam “giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, thể hiện sự nhất quán về quan điểm, chủ trương của Đảng ta về phát triển đất nước giai đoạn 2026-2030, tầm nhìn đến năm 2045, góp phần tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Không còn uy tín là mất niềm tin và mất niềm tin là mất tất cả, vì vậy đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức đảng phải thực sự gương mẫu, thực sự liêm chính trong sạch, vững mạnh; đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước phải hợp lòng dân, vì lợi ích của nhân dân, đem lại cuộc sống khá giả cả về vật chất lẫn tinh thần cho người dân… Thực hiện được những điều đó, thì Nhân dân sẽ mãi một lòng sắt son đối với Đảng./.
St