Thứ Hai, 10 tháng 8, 2020

KHÔNG TRỞ THÀNH CON RỐI ĐỂ CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH GIẬT DÂY

Trong khi các loại thuốc đặc trị COVID-19 chưa ra đời, các loại vaccin phòng ngừa vẫn đang được các quốc gia nỗ lực nghiên cứu, trong đó có Việt Nam thì làn sóng COVID-19 thứ hai đang diễn ra nhanh chóng ở nhiều quốc gia trên thế giới với sự bùng phát mạnh, lan tỏa nhanh.

Một số quốc gia như Hàn Quốc, Trung Quốc, Pháp, Ấn Độ... các ca nhiễm mới bùng lên trong cộng đồng, số ca tử vong tăng lên và gây nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội. Tại Việt Nam, số ca nhiễm gia tăng kể từ cuối tháng 7 và môt số ca đã tử vong. Đó cũng là lúc Việt Nam bước vào cuộc chiến chống COVID-19 mới.
Tuy nhiên, các đối tượng phản động, chống đối lợi dụng “nước đục thả câu”, tìm cách vu khống tình hình dịch bệnh tại Việt Nam, lấy cớ miệt thị chính quyền, đả phá chế độ. Các đối tượng sử dụng chiêu bài xuyên tạc thông tin về tình hình dịch bệnh, hướng lái dư luận theo mưu đồ mà chúng đã sắp đặt. Hoạt động của số này vẫn thông qua hình thức đăng tải các tin, bài viết, bình luận, chia sẻ, tán phát các video, tài liệu... trên Internet.

👉Lợi dụng “khoảng trống thông tin”

Với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, các kênh truyền thông, báo chí tiếp tục khẳng định vai trò tuyên truyền, cung cấp thông tin cùng nhân dân cả nước ngăn chặn, đẩy lùi dịch bệnh. Tuy nhiên, với sự phức tạp của tình hình tại các “ổ dịch” lớn, cùng với nhiều yếu tố mang tính chủ quan, khách quan dẫn đến các nguồn thông tin còn có độ trễ nhất định. Đó là lúc các đối tượng phản động, chống đối chớp thời cơ, tuyên truyền thông tin sai sự thật, công kích công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong phòng chống dịch bệnh.
Lợi dụng “khoảng trống thông tin” khi các kênh truyền thông chính thức nhà nước chưa đưa tin, các đối tượng chống đối đã triệt để tận dụng bằng những thông tin sai sự thật, lồng ghép những ý đồ, bịa đặt về tình hình dịch bệnh diễn ra tại Việt Nam nhằm gây nên sự hoang mang, lo lắng trong nhân dân. Với sự bịa đặt, gán ghép thông tin, chúng đã đưa ra các kịch bản làm cho cộng đồng mạng mất phương hướng, thậm chí có những người còn a dua, phụ họa thêm cho các hành vi sai trái đó.

👉Thủ đoạn gán ghép, quy chụp

Vẫn với phương thức “bình cũ, rượu mới”, số đối tượng phản động, chống đối đưa tin về tình hình dịch bệnh theo lối nửa tin, nửa ngờ để phục vụ âm mưu, ý đồ chống phá Nhà nước. Một số website, fanpage facebook, blogspot của tổ chức khủng bố “Việt Tân”; một số nhóm chống đối “Nhật ký yêu nước”; “Thanh niên Công giáo”; “Dân luận”... đăng tải thông tin bịa đặt về dịch bệnh ở Việt Nam. Trang “Việt Tân” đăng tải thông tin cho rằng người Trung Quốc liên tục vượt biên trái phép sang Việt Nam, đã lái vấn đề theo hướng: “Dư luận đặt nghi vấn, sự việc người Trung Quốc xâm nhập vào Việt Nam bất hợp pháp là việc rất nghiêm trọng và đã bắt đầu xảy ra từ đầu năm, có nghĩa là trong thời điểm đại dịch Vũ Hán đang bùng phát tại Trung Quốc mà cho đến giờ này mới báo cáo...
Cho đến giờ này, chưa thấy nhà nước CSVN có những biện pháp cụ thể nào rõ ràng để ngăn chặn người Trung Quốc trốn sang Việt Nam”. Đó là cách tổ chức khủng bố “Việt Tân” hướng lái nhằm vu cáo Nhà nước Việt Nam trong việc kiểm soát người nhập cảnh, kiểm soát tình hình dịch COVID-19. Thực tế, thời gian qua, tất cả các lực lượng chức năng đã nỗ lực để kiểm soát các đường mòn, lối mở, kiểm soát các hoạt động xuất, nhập cảnh, kịp thời có các biện pháp ngăn chặn, xử lý các hành vi xuất, nhập cảnh trái phép, tiến hành phân luồng, cách ly người nhập cảnh 14 ngày theo quy định. Việc một số đối tượng, nhóm người nhập cảnh trái phép, cơ quan chức năng đã rà soát, xử lý và áp dụng các biện pháp phòng chống dịch chứ không phải phớt lờ, bỏ mặc như thông tin các đối tượng  tung ra.
🚨Trang fanpage “Thanh niên Công giáo” (giả mạo đại diện Người Công giáo) đăng tải thông tin sai sự thật, công kích, hạ bệ hình ảnh các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước trong công tác phòng, chống dịch. Các đối tượng phản động, chống đối sử dụng các trang web có máy chủ đặt ở nước ngoài; khai thác các tính năng bình luận, chia sẻ, livestream; thăm dò ý kiến dư luận qua mạng xã hội; tạo các bài viết mang tính giật gân, gây sốc để thu hút sự chú ý, quan tâm của dư luận. Bằng nhiều cách, các đối tượng lợi dụng tình hình dịch bệnh xảy ra tại Việt Nam để vu cáo với các luận điệu: Việt Nam thiếu minh bạch trong tình hình dịch bệnh; che giấu số lượng ca nhiễm bệnh, tử vong; lan truyền các tài liệu sai sự thật về dịch bệnh COVID-19...

👉So sánh khập khiễng để vu cáo

Sau khi xảy ra một số ca tử vong có liên quan COVID-19, nhiều đối tượng đã so sánh với ca bệnh 91 (bệnh nhân người Anh, đã được chữa khỏi), từ đó đặt câu hỏi về “mức độ quan tâm” chữa trị giữa người trong nước và nước ngoài. Mục đích hòng đánh lận sự thật, cho rằng ca bệnh khó như 91 còn chữa được, tại sao lại để một số ca bệnh trong nước tử vong. Đây là kiểu so sánh rất khập khiễng, đánh vào tâm lý người đọc, nếu thiếu tỉnh táo sẽ bị dẫn dắt theo ý đồ chống phá của kẻ xấu.
Một mặt, xung quanh vấn đề này, nhiều đối tượng cơ hội chính trị, các đối tượng giả mác dân chủ, những thành phần định kiến, chống đối chế độ đã bộc lộ rõ sự ích kỷ, thù hằn cá nhân với xã hội đã khiến họ “hả hê” khi số liệu thống kê về ca tử vong liên quan COVID-19 tại Việt Nam tăng lên. Điều đó đã chứng tỏ họ chờ đợi để được đếm từng con số người tử vong, lấy làm vui khi các ca mắc bệnh tăng nhanh chóng, từ đó xuyên tạc, chế giễu, mỉa mai chế độ. Nổi lên trong số đó là đối tượng H.V.H (H là đối tượng chống đối cực đoan và đã từng bị TAND TP. Hồ Chí Minh tuyên phạt 4 năm tù về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam”), đã sử dụng tài khoản facebook cá nhân để tán phát những nội dung xuyên tạc, gây sự hoài nghi về những nỗ lực của đội ngũ y, bác sỹ trong việc cứu chữa các bệnh nhân mắc COVID-19. H.V.H đánh lận vấn đề: “ca phi công người Anh còn đòi ghép phổi vì phổi đông đặc, nhưng đùng 1 cái bệnh nhân này ra viện và về Anh không kèn, không trống. Rồi bệnh nhân già Thụy Sỹ cũng ung thư sao điều trị hết và về nước an toàn?”. Nhằm đánh lạc hướng dư luận, thu hút sự chú ý, H đã miệt thị rằng: “Với tình hình này của thông tin về SARS CoV-2 thì tôi cũng phải chào thua về mọi thông tin từ Bộ Y tế Việt Nam”.

Thực tế, việc so sánh như vậy là kiểu quy chụp, đánh lận rất lố bịch. Ngay cả những người không giỏi về y học cũng hiểu rằng, phi công người Anh mới chỉ mới 43 tuổi, bệnh lý nền là béo phì. Là phi công nên trước đó được rèn luyện sức chịu đựng dẻo dai, thể trạng tốt hơn rất nhiều, do đó khả năng hồi phục cao hơn. Trong khi đó, các bệnh nhân tử vong vừa qua đều cao tuổi, bệnh lý nền là đái tháo đường, suy thận giai đoạn cuối, tăng huyết áp, bệnh tim thiếu máu cục bộ, suy tim giai đoạn cuối, nhồi máu cơ tim diễn tiến nặng…
Liên quan đến các ca tử vong, PGS.TS Lương Ngọc Khuê, Cục trưởng Cục Quản lý khám chữa bệnh (Bộ Y tế) cho biết, nhiều bệnh nhân COVID-19 diễn biến rất nặng, có nhiều bệnh mạn tính, tuổi cao đặc biệt là có thời gian nằm điều trị ở các khoa Hồi sức cấp cứu, lọc máu lâu ngày. “Các bệnh nhân này đã suy các cơ quan quan nội tạng trong quá trình điều trị trước đây. Hệ thống miễn dịch, sức đề kháng suy yếu.
Có những bệnh nhân suy thận mạn chạy thận chu kỳ trên 10 năm; nhiều bệnh nhân suy tim, bệnh nhân ung thư; nhiều bệnh nhân cao tuổi, có bệnh nhân đã 100 tuổi... Nay bệnh nhân bị mắc thêm COVID-19 làm cho cơ hội tiến triển của các bệnh mạn tính tăng lên, trở thành những bệnh nhân nhiễm COVID-19 nặng và rất nặng” - PGS Khuê phân tích. Theo đó, có thể thấy rằng các bệnh nhân mắc COVID-19 tử vong là do các biến chứng trên nền bệnh lý rất nặng, hiểm nghèo. 
Xét dưới góc độ chuyên môn về y học, những đối tượng như H.V.H không phải là không hiểu vấn đề. Tuy nhiên, họ đã cố tình lập lờ đánh lận, điều này đã chứng tỏ bản chất chống phá chế độ, cố tình suy diễn, đánh lạc hướng dư luận.
Với những ai nếu cảm thấy Việt Nam chống dịch COVID-19 chưa đủ tốt thì hãy xung phong tới tuyến đầu như Đà Nẵng để được chứng kiến những nhọc nhằn, vất vả của đội ngũ y, bác sỹ, đã không quản hiểm nguy, tận tụy cứu chữa các bệnh nhân; những cố gắng phòng dịch của các chiến sĩ Công an, Quân đội... Hãy thể hiện bằng hành động của mình vào công cuộc chống dịch. Đừng vì những đồng tiền nhơ bẩn mà bán rẻ lương tâm, trở thành các “anh hùng bàn phím”, lợi dụng tình hình dịch bệnh bồi bút xuyên tạc, quy chụp, tư duy cực đoan, miệt thị chế độ.
Mỗi người hãy thể hiện trách nhiệm của mình bằng việc có ý thức khi tiếp nhận thông tin, sử dụng mạng xã hội để không lan truyền các thông tin sai trái làm ảnh hưởng đến công tác phòng chống dịch COVID-19. Việc tham gia vào môi trường mạng xã hội không nên biến mình thành “con rối” để các đối tượng thù địch phản động điều khiển, hướng lái.
Hải Đăng st

Cuộc chiến vẫn tiếp diễn với chiêu bài mới của “diễn biến hòa bình”

 

Cuộc chiến vẫn tiếp diễn với chiêu bài mới của “diễn biến hòa bình”

Kỳ trước tôi đã trao đổi với các bạn Nhận thức về Chiêu bài mới của “Diễn biến hòa bình” đó là việc Các thế lực thủ địch kêu gọi “Việt Nam không cần chống diễn biến hòa bình nữa”(!); đây đang là chiêu bài mới nhưng cũng đã mê hoặc được không ít người. Chúng ta cần nhận diện rõ chiêu bài này, để không mắc mưu và Cuộc chiến chống “diễn biến hòa bình” vẫn còn tiếp tục, bởi các lý do sau đây:

Trước hết, do mục đích cuối cùng và xuyên suốt mà chiến lược “Diễn biến hòa bình” đặt ra là xóa bỏ hoàn toàn chủ nghĩa xã hội vẫn còn ở phía trước. Nhìn lại quá trình hình thành và hoàn chỉnh chiến lược “Diễn biến hòa bình” có thể thấy: Từ khi chỉ là ý tưởng (cuối những năm 40 của thế kỷ XX), đến khi trở thành chiến lược hoàn chỉnh (cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX), “Diễn biến hòa bình” bao giờ cũng là bộ phận quan trọng trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc, nhằm mục đích xóa bỏ hoàn toàn chủ nghĩa xã hội trên mọi phương diện; dù cho đó chỉ là một hệ tư tưởng, một xu thế phát triển, một phong trào hiện thực, hay là một hình thái kinh tế - xã hội, một hệ thống giá trị đã tồn tại, v.v. Do vậy, một khi chủ nghĩa xã hội còn, dưới hình thức nào, thì chiến lược “Diễn biến hòa bình” chưa vãn hồi sứ mệnh như người ta lòe bịp. Theo đó, cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” của các lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình và chủ nghĩa xã hội vẫn tiếp tục diễn ra, như một tất yếu. Và đương nhiên Việt Nam không phải là ngoại lệ.

Thứ hai, đây là cuộc chiến khó phân biệt chiến tuyến, nhưng diễn ra một cách dai dẳng, rất quyết liệt, trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. “Diễn biến hòa bình” là sự kế tục thứ chính trị của các thế lực chống cộng, nhưng bằng thủ đoạn phi vũ trang; phản ánh tính chất phức tạp, lâu dài của cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản phản động. Sử dụng những cuộc tiến công “ngầm”, “mềm” trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; thông qua các chiêu bài “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”… kiểu Mỹ, “diễn biến hòa bình” hướng mục tiêu vào xây dựng các nhân tố đối lập với Đảng Cộng sản và các giá trị của chủ nghĩa xã hội ngay trong lòng các nước xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó mà thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ các nước này. Phương châm thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” là kết hợp phá từ trong nội bộ với hỗ trợ từ bên ngoài; kết hợp tạo sự chuyển hóa từ bên trong và bên trên với bạo loạn, lật đổ khi có thời cơ, để xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì thế, các thủ đoạn của “diễn biến hòa bình” rất tinh vi, khó thấy, khó phân tuyến, diễn ra dai dẳng, qua nhiều thế hệ. Chính cựu Tổng thống Mỹ R. Ních -xơn, trong cuốn sách của mình, đã khẳng định: “Về lâu dài, chúng ta có thể khuyến khích “diễn biến hòa bình” trong nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa, song nhiệm vụ đó không thể hoàn thành trong mấy chục năm mà phải làm trong nhiều thế hệ”. Để triển khai tư tưởng chiến lược đó ở Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động nuôi hy vọng dùng “cộng sản con lật cộng sản cha”. Vì thế, đây là cuộc chiến không hồi kết, một khi Việt Nam vẫn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba, Việt Nam vẫn đang là một trọng điểm chống phá bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động. Là quốc gia đang tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, với vị trí địa chiến lược ở Đông Nam Á và Châu Á - Thái Bình Dương, Việt Nam luôn được các thế lực thù địch coi là một trọng điểm chống phá bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”. H. Kít-xinh-giơ, nguyên Ngoại trưởng, Cố vấn an ninh của Tổng thống Mỹ, từng nói: “Những người cộng sản Việt Nam đã thắng trong chiến tranh, nhưng họ sẽ thua trong hòa bình. Trước đây, cộng sản dùng súng để đuổi người Mỹ ra khỏi Sài Gòn, ngày nay người Mỹ sẽ dùng đô-la để đuổi cộng sản ra khỏi Sài Gòn”2. Ngay trong Tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Việt Nam (11-7-1995), Tổng thống Mỹ B. Clin-tơn cũng không giấu ý đồ chuyển hóa chế độ chính trị ở Việt Nam, khi nói: “Tôi tin rằng việc bình thường hóa và tăng cường các cuộc tiếp xúc giữa người Mỹ và người Việt Nam sẽ thúc đẩy sự nghiệp tự do ở Việt Nam, như đã từng diễn ra ở Đông Âu và Liên Xô trước đây”. Còn phát biểu tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, nhân chuyến thăm Việt Nam, Tổng thống Mỹ B. Ô-ba-ma không quên “gợi ý” Việt Nam thực hiện các vấn đề về nhân quyền, như: “Tự do ngôn luận”, “tự do lập hội”, “tự do biểu tình”,... theo chuẩn mực Mỹ - những thứ mà các thế lực thù địch vẫn dùng trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” để chống phá Việt Nam.

Cũng phải thấy rằng, sự phát triển các quan hệ hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với nhiều nước (không phân biệt chế độ chính trị) và nhiều tổ chức quốc tế đã tạo thuận lợi cho sự phát triển của Việt Nam những năm qua. Tuy nhiên, với tính chất hai mặt của chính quyền một số nước phương Tây, nên trong thực tế vẫn tồn tại những âm mưu, hoạt động lợi dụng sự phát triển các quan hệ hợp tác để thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” chống Việt Nam.

Nổi bật là sự hỗ trợ (với mức độ, hình thức khác nhau) của chính quyền một số nước đối với những cá nhân, tổ chức thù địch với Việt Nam3, để gia tăng các hoạt động chống phá. Họ vẫn lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do ngôn luận”, “tự do tôn giáo”,… theo chuẩn mực Mỹ để vu khống Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền; lấy đó làm động lực hỗ trợ về mặt chính trị, tinh thần cho các thế lực chống phá ở trong nước. Bất chấp sự phát triển các quan hệ hợp tác ở tầm “đối tác toàn diện” hay “đối tác chiến lược”, số người cực đoan tại Mỹ, Liên minh Châu Âu (EU); các cơ quan, tổ chức, như: Bộ Ngoại giao, Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ, Nghị viện Châu Âu, Tổ chức theo dõi Nhân quyền (HRW),… vẫn tổ chức nhiều cuộc điều trần, hội thảo, họp báo, ra tuyên bố, ban hành các nghị quyết xuyên tạc, bóp méo tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Hàng năm, Bộ Ngoại giao Mỹ vẫn tung ra các báo cáo nhân quyền toàn cầu, gần đây nhất là tháng 4-2016, trong đó tiếp tục xuyên tạc tình hình thực hiện quyền con người ở Việt Nam. Một số nghị sĩ trong Hạ viện Mỹ, như: A. Lâu-en-tan, L. San-chét, F. Vôn-phơ, T. X-mít, E. Roi-se,… vẫn thường xuyên đưa ra ý kiến, hay tạo điều kiện để người khác vu khống, xuyên tạc tình hình nhân quyền ở Việt Nam; hoặc thúc đẩy thông qua các Dự luật nhân quyền cho Việt Nam; vận động để Quốc hội Mỹ đưa Việt Nam trở lại “Danh sách các nước cần đặc biệt quan tâm về tự do tôn giáo (CPC)”. Ngày 08-12-2016, tại Hội thảo nhân Ngày Quốc tế nhân quyền, do Ủy ban nhân quyền Tom Lantos (thuộc Hạ viện Mỹ) tổ chức, nghị sĩ A. Lâu-en-tan đã xuyên tạc mục đích Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo; xem đó là sự “gia tăng đàn áp tôn giáo”, “siết chặt quyền tự do tôn giáo của hàng triệu người dân”, rồi lặp lại luận điệu “nhà cầm quyền Việt Nam giam giữ hàng trăm tù nhân lương tâm, v.v.”(!). Tổ chức RSF có trụ sở chính ở Pháp, hằng năm cũng tự cho mình quyền phán xét tình hình tự do báo chí ở các nước. Trong bản Phúc trình năm 2016 (công bố ngày 20-4-2016), RSF tiếp tục xuyên tạc tình hình ở Việt Nam, khi cho rằng: “các blogger và nhà báo công dân, những nguồn thông tin độc lập tại Việt Nam, là đối tượng của một chủ trương đàn áp rất khắc nghiệt”(!). Đầu năm nay, Freedom House có trụ sở tại Mỹ cũng tiếp tục xếp Việt Nam vào danh sách “Các quốc gia không có tự do”(!) trong bản Báo cáo xếp hạng tự do toàn cầu năm 2017.

Được sự hậu thuẫn, móc nối của các thế lực thù địch ở nước ngoài, một số phần tử phản động, cơ hội, thoái hóa, biến chất ở trong nước cũng không ngừng các hoạt động chống phá. Chúng ra sức phủ nhận bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, chứng minh “sự du nhập chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào Việt Nam là sai lầm”; tách rời và đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lê-nin; cố tình cho rằng “con đường Bác Hồ chọn không phải là chủ nghĩa xã hội”(!). Để xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, chúng phủ nhận những thành tựu của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo; đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 2013, kêu gọi thực hiện “chế độ đa đảng”. Chúng đẩy mạnh hoạt động xuyên tạc lịch sử, nhằm đổi trắng thay đen, gây lẫn lộn giữa người có công và kẻ có tội, giữa người cách mạng và kẻ phản cách mạng. Lợi dụng những vấn đề nhạy cảm, như: Chủ quyền trên Biển Đông, sự cố môi trường 04 tỉnh miền Trung do Công ty Formosa gây ra, những vấn đề liên quan đến sinh hoạt tôn giáo, dân tộc, dân chủ ở một vài địa phương, chúng kích động nhân dân biểu tình, gây rối, phá hoại đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, phá hoại sự ổn định chính trị của đất nước, tạo dựng các “nguyên cớ” để khi có thời cơ thì tiến hành bạo loạn, cướp chính quyền. Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, chúng ra sức hô hào “phi chính trị” hóa quân đội và công an; đòi các lực lượng này chỉ bảo vệ đất nước và nhân dân, chứ không bảo vệ Đảng (!).

Tất cả thực tiễn đó cho thấy: Các thế lực thù địch không từ bỏ thực hiện “diễn biến hòa bình” với nước ta; và cuộc chiến, theo đó, vẫn tiếp diễn./.

Cần nhận diện đúng các vấn đề về chủ quyền Biển Đông

 

Vấn đề Biển Đông luôn “nóng” không chỉ riêng với các quốc gia có chủ quyền tại đây mà còn là sự kiện được cộng đồng quốc tế quan tâm. Đồng thời, đây cũng chính là mảnh đất để các thế lực thù địch, bất mãn, cơ hội chính trị lợi dụng để xuyên tạc, kích động chống phá Đảng, Nhà nước ta.

Quan điểm của Việt Nam về giải quyết vấn đề Biển Đông là rõ ràng, nhất quán. Nghị quyết Ðại hội XII của Ðảng khẳng định: “...Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế”.

Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, trước những thách thức của thời cuộc, chúng ta luôn quán triệt và vận dụng sáng tạo, phù hợp tư tưởng ấy của Bác; lấy việc giữ vững nguyên tắc độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, bảo vệ, giữ vững chủ quyền quốc gia, trong đó có chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông. Thực tiễn đã chứng minh, trong bối cảnh Trung Quốc thường xuyên có các hành động xâm phạm quyền, chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông, Đảng, Nhà nước ta đã chủ trương giải quyết thông qua thương lượng hoà bình trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước về Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), nhằm tìm kiếm một giải pháp cơ bản và lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của các bên, tiến tới xây dựng Biển Đông thành vùng biển hòa bình, hợp tác và phát triển. Thực tế cho thấy, bằng chủ trương giải quyết các vấn đề liên quan chủ quyền ở Biển Ðông thông qua biện pháp hoà bình trên tinh thần hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả thoả thuận quan trọng với các nước trong khu vực và giữ vững chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Về quan điểm đối tác, đối tượng, Đảng ta chỉ rõ: “Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta.

Mặt khác, trong tình hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng: Trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”. Xác định đúng đối tượng, đối tác của Việt Nam là vấn đề hết sức quan trọng, là cơ sở để đề ra đường lối đối nội, đối ngoại cùng với chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng là một vấn đề khá “nhạy cảm” trong quan hệ quốc tế.

Nhưng không phải vì thế mà chúng ta né tránh, để rồi rơi vào trạng thái mơ hồ, mất cảnh giác, mất tính chiến đấu và khó có thể vạch ra chủ trương, chiến lược, sách lược đúng đắn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đối với vấn đề tranh chấp trên Biển Ðông hiện nay cũng vậy, chúng ta phải đặc biệt tỉnh táo trước chiêu bài của các phần tử thù địch, phản động. Cảnh giác không thể trở thành con bài chính trị, nhất là của các nước lớn, điều đó sẽ hết sức nguy hiểm cho lợi ích quốc gia, dân tộc.

Âm mưu và hành động độc chiếm Biển Ðông của Trung Quốc là hết sức rõ ràng, đòi hỏi chúng ta phải luôn đấu tranh mạnh mẽ, bền bỉ, không khoan nhượng, sử dụng biện pháp hòa bình, theo luật pháp quốc tế. Giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước, giữ vững mối đoàn kết, bang giao với tất cả các nước; không để xảy ra xung đột, chiến tranh.

Việt Nam không để lệ thuộc về kinh tế; không để bị cô lập, chi phối về chính trị; không để bị lôi kéo đi theo nước này để chống lại nước khác; không để đối đầu về quân sự, không tham gia liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống nước kia, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Chúng ta kiên quyết, kiên trì, khôn khéo, không khiêu khích, không mắc mưu khiêu khích; kiềm chế, không để nước ngoài lấn chiếm và tránh không để xảy ra xung đột, đụng độ. Vì vậy, quan điểm “bài Trung, thân Mỹ” hoàn toàn không có trong đường lối đối ngoại hay trong quan điểm giải quyết vấn đề Biển Đông của Đảng, Nhà nước ta.

Giá trị của hòa bình được đổi bằng biết bao xương máu của các thế hệ ông cha. Do đó, chúng ta phải biết trân trọng, nâng niu, giữ gìn. Dân tộc Việt Nam yêu chuộng hòa bình, hơn lúc nào hết chúng ta thấu hiểu nỗi đau mà chiến tranh gây ra. Do đó, chúng ta bằng mọi biện pháp duy trì hoà bình, ổn định để phát triển; trường hợp chiến tranh là bất khả kháng để tự vệ nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Thực tiễn cho thấy, mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch hòng gây mất ổn định, mất đoàn kết trong nước và quốc tế, làm tổn hại lợi ích quốc gia, dân tộc. Do vậy, mỗi người dân cần tỉnh táo, bình tĩnh, không để kẻ xấu lợi dụng lôi kéo, kích động; cần thực hiện nghiêm đường lối, chủ trương, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về vấn đề Biển Đông, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc biển, đảo của Tổ quốc.

 

Tái diễn thủ đoạn phao tin COVID-19 để chống phá Nhà nước

 Trong khi các loại thuốc đặc trị COVID-19 chưa ra đời, các loại vaccin phòng ngừa vẫn đang được các quốc gia nỗ lực nghiên cứu, trong đó có Việt Nam thì làn sóng COVID-19 thứ hai đang diễn ra nhanh chóng ở nhiều quốc gia trên thế giới với sự bùng phát mạnh, lan tỏa nhanh. Một số quốc gia như Hàn Quốc, Trung Quốc, Pháp, Ấn Độ... các ca nhiễm mới bùng lên trong cộng đồng, số ca tử vong tăng lên và gây nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội. Tại Việt Nam, số ca nhiễm gia tăng kể từ cuối tháng 7 và một số ca đã tử vong. Đó cũng là lúc Việt Nam bước vào cuộc chiến chống COVID-19 mới. 

Tuy nhiên, các đối tượng phản động, chống đối lợi dụng “nước đục thả câu”, tìm cách vu khống tình hình dịch bệnh tại Việt Nam, lấy cớ miệt thị chính quyền, đả phá chế độ. Các đối tượng sử dụng chiêu bài xuyên tạc thông tin về tình hình dịch bệnh, hướng lái dư luận theo mưu đồ mà chúng đã sắp đặt. Hoạt động của số này vẫn thông qua hình thức đăng tải các tin, bài viết, bình luận, chia sẻ, tán phát các video, tài liệu... trên Internet.

Mỗi người hãy thể hiện trách nhiệm của mình bằng việc có ý thức khi tiếp nhận thông tin, sử dụng mạng xã hội để không lan truyền các thông tin sai trái làm ảnh hưởng đến công tác phòng chống dịch COVID-19. Việc tham gia vào môi trường mạng xã hội không nên biến mình thành “con rối” để các đối tượng thù địch phản động điều khiển, hướng lái.

Quan hệ Việt Nam- Hoa Kỳ đạt được trong 25 năm qua là sự phi thường, là kết quả của rất nhiều nỗ lực, dũng cảm và thiện chí của cả hai nước.

 


Nhân dịp kỷ niệm 25 năm quan hệ Việt - Mỹ, Đại sứ Mỹ Daniel Kritenbrink đã có cuộc gặp gỡ với báo chí. Và đây là quan điểm của Ông về quan hệ Việt Nam và Mỹ. 

Mỹ không yêu cầu hay đòi hỏi các nước chọn bên, chọn phía dù là ASEAN hay khu vực khác. Các quốc gia nhận thấy có lợi ích khi duy trì trật tự theo luật pháp quốc tế thì sẽ hợp tác với Mỹ để thúc đẩy lợi ích chung này. Chính sách của Mỹ với khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và thế giới vẫn như vậy - đó là tự do, thịnh vượng, và tuân thủ luật pháp, ông Kritenbrink nhấn mạnh. “Sự phát triển của Mỹ cũng dựa vào những đối tác mạnh mẽ và thịnh vượng. Nước Mỹ trên hết không có nghĩa là Mỹ đứng một mình, chúng tôi tin chúng tôi có lợi ích quốc gia trong việc quan hệ với các đối tác mạnh mẽ và tự chủ trong khu vực trong đó có Việt Nam”, Đại sứ khẳng định.

Đề cập đến quan hệ Việt – Mỹ suốt 25 năm qua, dẫn cuộc trao đổi với người tiền nhiệm – cựu Đại sứ Peterson trước đây, ông Kritenbrink nói: “Khi tôi nói thành tựu có được trong quan hệ Việt – Mỹ là phép màu, thì ông ấy giải thích, phép màu là sự tình cờ hay do thánh thần tạo ra. Và ông giải thích, những gì chúng ta đạt được là sự phi thường. Không phải ngẫu nhiên hay may mắn, đó là kết quả của rất nhiều nỗ lực, dũng cảm và thiện chí của hai nước nhiều năm qua”.

Đại sứ Kritenbrink nhận định, Việt Nam đang không ngừng tăng cường vị thế quốc tế. Và hai quốc gia cùng hưởng lợi ích khi trở thành đối tác của nhau. Lấy ví dụ khi hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều lần 2 tổ chức ở Việt Nam, ông chia sẻ: “Chúng tôi chọn và tin tưởng vào năng lực và khả năng của Việt Nam dù thời gian chuẩn bị cho sự kiện quan trọng này rất gấp rút. Chúng tôi chọn Việt Nam vì Việt Nam là tấm gương để nhiều nước nhìn vào. Việt Nam và Mỹ từng là cựu thù, Việt Nam từng khá biệt lập với bên ngoài, có nền kinh tế tập trung… Sau 25 năm, Việt Nam có quan hệ hợp tác và tình hữu nghị tốt đẹp với Mỹ, là quốc gia có trách nhiệm ngày càng lớn trong khu vực và thế giới. Việt Nam thực hiện đổi mới kinh tế mang lại kết quả ấn tượng”.

Lý do Mỹ hiện diện ở Biển Đông

Trước sự quan tâm của báo chí về những diễn biến trên Biển Đông thời gian gần đây, Đại sứ nêu rõ, Mỹ không ứng phó với hoạt động cụ thể nào đó trên vùng biển này. Thay vào đó, Mỹ muốn khẳng định mục tiêu là đảm bảo hòa bình và ổn định lâu dài ở Biển Đông. Ông nhấn mạnh, các quốc gia ở Biển Đông dù lớn hay nhỏ đều phải hành xử theo luật lệ, đưa ra các tuyên bố chủ quyền dựa trên luật pháp quốc tế. Mỹ tin vào các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp Biển Đông; khẳng định quyền tự do hàng hải và hàng không; phản đối việc Trung Quốc hay bất kỳ nước nào sử dụng các biện pháp áp chế để tăng cường tuyên bố chủ quyền.

Theo Đại sứ Kritenbrink, chính sách của Mỹ là đảm bảo sự ổn định của các nước vì lợi ích chung. “Chúng tôi làm việc này theo 3 đường hướng: Tăng cường hoạt động ngoại giao trong đó có ASEAN. Hỗ trợ các nỗ lực tăng cường năng lực hàng hải. Phát triển các năng lực quân sự của chính nước Mỹ trong đó có việc thực hiện các hoạt động tự do hàng hải, thực hiện các quyền theo luật pháp quốc tế. Đó là lý do mà Mỹ hiện diện trên Biển Đông thời gian qua. Mỹ sẽ tiếp tục các hoạt động này ở bất cứ nơi nào mà luật pháp quốc tế cho phép”, ông cho biết.

Gọi nhau là bạn bè, đối tác chân thành

Trả lời về triển vọng hợp tác an ninh quốc phòng song phương, Đại sứ nhấn mạnh, quan hệ Việt - Mỹ đang ở giai đoạn tốt nhất từ trước tới nay, và hợp tác an ninh quốc phòng cũng vậy. Hai nước có lợi ích chung khi hiểu rõ về nhau. Đó cũng là lý do trong vòng 3 năm qua, các bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đều tới thăm Việt Nam. Ông khẳng định, đại dịch Covid-19 không ảnh hưởng đến hợp tác hai nước trong lĩnh vực hàng hải. “Chúng tôi tiếp tục hợp tác với Việt Nam và các đối tác ASEAN trong thúc đẩy lợi ích chung, nâng cao năng lực hàng hải và các hoạt động này vẫn tiếp diễn dù đại dịch xảy ra”. Về hợp tác ứng phó với Covid-19, Đại sứ Mỹ đánh giá cao thành tựu của Việt Nam trong phòng chống đại dịch. “Chúng tôi tự hào là đối tác Việt Nam trong hợp tác y tế hơn 20 năm qua. Tôi biết ơn sự hỗ trợ của Việt Nam dành cho Mỹ. Chúng tôi có câu thành ngữ "Những người bạn trong lúc khó khăn là bạn thực sự" và trong lúc khó khăn chúng tôi thấy rõ ai là bạn. Việt Nam là người bạn tốt. Nhiều tổ chức, và hàng ngàn cá nhân ở Việt Nam đã tặng khẩu trang, thiết bị y tế cho Mỹ”. Khẳng định cam kết phái đoàn Mỹ ở Việt Nam là để hỗ trợ Việt Nam phát triển và thành công, Đại sứ Mỹ nêu rõ: “Sự hợp tác trong tương lai, tôn trọng những gì diễn ra trong quá khứ sẽ góp phần xây dựng lòng tin. Cùng nhau, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu. Thành tựu lớn nhất là ngày nay chúng ta hoàn toàn gọi nhau là bạn bè và đối tác một cách chân thành.

Tôi tin Mỹ có lợi ích khi hỗ trợ Việt Nam phát triển mạnh mẽ, độc lập và thịnh vượng. Thành công của các bạn là thành công của chúng tôi, thịnh vượng của các bạn là thịnh vượng của chúng tôi. Chúng tôi lạc quan về những gì sẽ đạt được trong 25 năm tiếp theo”.

Chủ lực- Theo NVnet

;

Đập tan chiêu trò bịa đặt về nhân sự đại hội Đảng




Từ trước thềm Hội nghị Trung ương (HNTƯ) khóa XII đến nay, trên các trang mạng nước ngoài và một số tài khoản blog, facebook cá nhân... đã chủ ý đăng tải nhiều thông tin xuyên tạc, thất thiệt và cố tình suy diễn về công tác chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành (BCH) Trung ương nhiệm kỳ 2021-2026. Các luận điệu hồ đồ quy chụp cho rằng, công tác chuẩn bị nhân sự Trung ương bị chi phối quyết định bởi “nhóm lợi ích” từ một bộ phận quan chức Trung ương, ép buộc vận hành theo một kịch bản đã được lên sẵn.

Suy nghĩ về hệ lụy và bài học đại dịch Covid-19



Thiết nghĩ không phải vì tai họa đối với sinh mạng con người mà còn vì các hệ lụy nó đã gây ra về kinh tế, xã hội, văn hóa và chính trị, an ninh quốc phòng. Quốc gia nào biết rút ra từ đại dịch các bài học cần thiết, quốc gia đó sẽ sớm xây dựng cho mình một con đường phát triển vững vàng hơn.

Cả nước vào cuộc chiến mới chống quái vật




Thật ra, việc tái phát dịch không phải là điều ngạc nhiên và khó tránh khỏi nên hoàn toàn có thể lường trước sự việc. Thật rất đáng lo ngại, đó là con quái vật Covid 19 vừa lây nhiễm rất nhanh, ca bệnh thường rất nặng đã quay trở lại Việt Nam. Nguy hiểm hơn, đây là loại virus chủng mới.

Cách mạng Tháng Tám và bài học về nắm bắt thời cơ

 

Cách mạng Tháng Tám là cuộc cách mạng vĩ đại nhất của nhân dân ta trong thế kỷ 20. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mùa thu năm 1945 đã tạo nên một bước ngoặt lịch sử, làm thay đổi căn bản vận mệnh của đất nước và dân tộc ta, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

Ngay từ đầu, từ Hội nghị lần thứ Tám của Trung ương (năm 1941), Đảng ta đã xác định đây là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, nhưng trước mắt tập trung vào nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nói: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.

Giữa tháng Tám năm 1945, từ mảnh đất Tân Trào lịch sử, khi Lệnh Tổng khởi nghĩa đã phát ra, Người kêu gọi: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Tổng bộ Việt Minh ra hiệu triệu: “Trước cơ hội có một không hai này, toàn thể dân tộc ta phải đem hết lực lượng, dùng hết can đảm, bao quanh đạo quân Giải phóng Việt Nam, tung xương máu ra đánh đuổi giặc Nhật, đòi lấy tự do, hạnh phúc cho nhân dân”.

Đường lối cách mạng ấy, những lời kêu gọi hào hùng và thống thiết ấy đã đi vào lòng người và biến thành một sức mạnh vật chất to lớn. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám đã mở ra, đúng là một cuộc nổi dậy của toàn dân, một cuộc khởi nghĩa mà cả dân tộc “nhất tề đứng lên”, “nhất hô thiên vạn ứng”.

Cách mạng Tháng Tám được nói đến như là một cuộc nổi dậy chớp nhoáng và thành công ngoạn mục.

Nếu kể từ khi Lệnh Tổng khởi nghĩa được phát ra đêm 13-8 cho đến khi khởi nghĩa thành công ở Sài Gòn ngày 25-8, thì thời gian đó là 12 ngày. Nếu tính đến khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2-9 thì thời gian đó cũng không quá ba tuần lễ.

Tuyên ngôn Độc lập nêu rõ:

“… Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”.

“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

CÁCH mạng Tháng Tám đưa lại nhiều bài học lớn. Nổi lên hàng đầu là bài học về sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, và về vai trò và sức mạnh của nhân dân trong cách mạng. Trong bài viết này, tôi muốn nêu một bài học cụ thể trong nghệ thuật lãnh đạo - bài học về nắm bắt thời cơ.

Trong khi bác bỏ cái thuyết cách mạng “ăn may” như đã nói trên, chúng ta vẫn có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng chính việc nắm bắt đúng và tận dụng tối đa thời cơ là một trong những nguyên nhân dẫn đến thắng lợi ngoạn mục của Cách mạng Tháng Tám. Thử xem. Lệnh Tổng khởi nghĩa được phát ra đúng vào thời điểm phát-xít Nhật đầu hàng Đồng minh, cái thời điểm mà bốn vạn quân Nhật có mặt trên đất nước ta được trang bị đến tận răng với bộ chỉ huy hùng hổ của nó, như kẻ đang ngồi trên cành cao mà gốc cây đã bị cưa đổ, cực kỳ hoang mang, lo lắng. Họ chờ một tín hiệu, không phải từ Thiên Hoàng mà là từ bộ chỉ huy cách mạng ở Hà Nội. Đó cũng là thời điểm vua Bảo Đại và chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim cảm thấy bơ vơ, không biết số phận sẽ ra sao.

Có người đặt câu hỏi: Nếu Lệnh Tổng khởi nghĩa phát ra trước mười ngày hay sau mười ngày so với ngày phát-xít Nhật đầu hàng thì tình hình sẽ thế nào? Không ai có thể trả lời lịch sử bằng chữ “nếu”. Nhưng điều chắc chắn là nếu Lệnh Tổng khởi nghĩa phát ra không đúng lúc thì cách mạng chẳng những không thành công suôn sẻ mà có khi còn phải trả giá đắt.

Trong lãnh đạo cách mạng, thời chiến tranh cũng như thời hòa bình xây dựng, khi bàn về những quyết sách có tính chiến lược, Đảng ta luôn xem xét một cách thấu đáo giữa thực lực và thời cơ, dự báo tình hình một cách khách quan, cả hai mặt thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức. Thời cơ và thách thức luôn đan xen nhau, có khi thách thức lấn át thời cơ. Nghệ thuật lãnh đạo của Đảng là bằng mọi cách, phát huy cho được thời cơ, đẩy lùi cho được thách thức, ra sức biến nguy thành cơ.

Không có 15 năm đấu tranh quyết liệt, đầy hy sinh gian khó, kể từ ngày Đảng ta ra đời năm 1930 thì không có thắng lợi vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Không có 30 năm chiến đấu kiên cường, dốc hết sức người, sức của cho tiền tuyến trong hai cuộc chiến tranh cứu nước, chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, thì không có Đại thắng mùa Xuân huy hoàng năm 1975.

Không có 10 năm tìm tòi, thử nghiệm về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội qua hai Đại hội IV và V của Đảng thì cũng không thể có đường lối đổi mới toàn diện đất nước mà Đại hội VI (1986) khởi xướng.

Không có 35 năm đổi mới với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử thì cũng sẽ không có lời khẳng định của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

Tiến tới Đại hội XIII của Đảng, Trung ương Đảng ta đã ban hành nhiều văn kiện. Dự thảo Báo cáo chính trị nêu rõ: Đại hội được tiến hành theo phương châm Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Sáng tạo - Phát triển với chủ đề: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy ý chí, khát vọng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trước mắt chúng ta, có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen. Cuộc chiến chống đại dịch Covid-19 đang diễn ra là một thí dụ cụ thể. Dẫu sao chúng ta vẫn tin rằng bài học về nắm bắt thời cơ của Cách mạng Tháng Tám và của 75 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc luôn có giá trị thời sự./.

DI SẢN HỒ CHÍ MINH TRONG HÀNH TRÌNH ĐI TỚI TƯƠNG LAI

 


DI SẢN HỒ CHÍ MINH TRONG HÀNH TRÌNH ĐI TỚI TƯƠNG LAI

"Bác đã đi xa hơn nửa thế kỷ nhưng tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người còn sống mãi. Hình ảnh Hồ Chí Minh, di sản vĩ đại Người để lại không chỉ là hiện thân cho dân tộc mà còn là niềm tin, hành trang đi tới tương lai của Việt Nam và “tình hữu ái toàn thế giới”, PGS, TS Trần Minh Trưởng, Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và Các lãnh tụ của Đảng đã nhấn mạnh như vậy trong cuộc đối thoại với chúng tôi nhân kỷ niệm 130 năm Ngày sinh của Bác...

Hồ Chí Minh - bậc đại nhân, đại trí, đại dũng

Phóng viên (PV): Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa hơn nửa thế kỷ nhưng tư tưởng và di sản của Người để lại còn sống mãi trong hành trình đi tới tương lai của dân tộc Việt Nam cũng như nhân loại tiến bộ. Đúng như Chủ tịch Cuba Phidel Castro từng nói: “Đồng chí Hồ Chí Minh thuộc về một lớp người đặc biệt mà cái chết lại gieo mầm cho sự sống, đời đời bất diệt”. Theo ông, đâu là điều đặc biệt khi nói về Hồ Chí Minh và di sản của Người?

PGS, TS Trần Minh Trưởng: Cũng với ý nghĩa như câu nói của Chủ tịch Phidel mà các đồng chí vừa nêu, Đại tướng Võ Nguyên Giáp của chúng ta từng khẳng định: “Thế giới đã và sẽ còn đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn sống mãi trong kho tàng văn hóa nhân loại”. Bác đã đi xa nhưng để lại cho các thế hệ một di sản có giá trị trường tồn, vĩnh hằng, vừa có tính dân tộc, vừa mang tầm thời đại.

Điều đặc biệt khi nói về Hồ Chí Minh, theo tôi, thể hiện ở một số điểm sau:

Đó là một nhà tư tưởng lỗi lạc, nhà văn hóa kiệt xuất, tấm gương đạo đức sáng ngời. Luis Francisco Báez Hernández (1936-2015) là nhà báo, nhà văn Cuba có viết rằng: “Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật phi thường của thời đại mình. Hồ Chí Minh phi thường chính trong sự giản dị và trong sáng của Người. Những người nông dân Việt Nam bình dị nhìn thấy ở Người niềm hy vọng và tinh thần sẵn sàng hy sinh vì thắng lợi cuối cùng của dân tộc. Toàn thể nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế nhìn thấy ở Người phẩm chất của vị lãnh tụ có thể tập hợp và đoàn kết tất cả tầng lớp: Nông dân, công nhân, trí thức và mọi người Việt Nam yêu nước vì một mục tiêu chung là giành độc lập, tự do cho đất nước”… Hồ Chí Minh có phong cách đặc biệt: Phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo; phong cách làm việc trọng dân, gần dân, hiểu dân; phong cách diễn đạt đặc sắc; lối ứng xử văn hóa, tinh tế, có lý, có tình…

Người có đời sống riêng đặc biệt: Đó là đời sống khắc khổ, cần lao và tranh đấu.

Bác trở thành huyền thoại từ khi còn sống. Vào năm 1987, khi đại hội đồng của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) có Nghị quyết kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất”, Tổng giám đốc UNESCO Amadou Mahtar M’Bow đã nhấn mạnh: “Chỉ có ít nhân vật trong lịch sử trở thành một bộ phận của huyền thoại ngay khi còn sống và rõ ràng Hồ Chí Minh là một trong số đó”.

PV: Hồ Chí Minh, ở tầm vóc văn hóa và nhân cách lớn, có học giả nói rằng đó là bậc “đại trí, đại nhân, đại dũng”. Khi nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp của Bác, ông có suy nghĩ gì về nhận xét trên?

PGS, TS Trần Minh Trưởng: Nhận xét đó là của nhà thơ Viên Ưng (Trung Quốc). Khi đọc tập thơ “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh, ông cho rằng: “Chúng ta được gặp tâm hồn vĩ đại của một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng... Tôi cảm thấy trái tim vĩ đại đó đã tỏa ra ánh sáng chói ngời trong hoàn cảnh tối tăm”.

Nói đến Bác là nói đến “nhân” (nhân cách), “trí” (trí tuệ) và “dũng” (là bản lĩnh, sự dũng cảm, hy sinh).

Cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh, từ khi ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân, cho đến khi sắp “từ biệt thế giới này” vẫn “chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Đó là nhân cách lớn của một con người vĩ đại. Người có trái tim bao la, “thương yêu tất cả chỉ quên mình”. Khi biết tin con trai bác sĩ Vũ Đình Tụng hy sinh, Bác viết thư bày tỏ: “Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột”. Không chỉ thương xót những mất mát của nhân dân mình, trái tim Người cũng đồng cảm với các dân tộc khác. Trong thư trả lời một bà mẹ Pháp, Bác viết: “…Tôi yêu mến thanh niên Pháp cũng như yêu mến thanh niên Việt Nam. Đối với tôi, sinh mệnh của một người Pháp hay sinh mệnh của một người Việt Nam đều đáng quý như nhau”.

Các học giả nước ngoài nghiên cứu sự nghiệp và tư tưởng Hồ Chí Minh cho rằng, Hồ Chí Minh là hình ảnh tiêu biểu, tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam. Trong con người Hồ Chí Minh, có phẩm chất của Thánh, có tâm của Phật, có trí tuệ của Mác và Lênin, có đầu óc thiết thực của Tôn Trung Sơn, lại có cả tâm hồn Nguyễn Trãi và Nguyễn Du nữa.

Người là bậc “đại nhân, đại trí, đại dũng”, nhưng lại rất gần gũi trong “mỗi ước mơ, mỗi cuộc đời”. Như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng viết lúc sinh thời: “Hồ Chí Minh cao mà không xa, mới mà không lạ, to lớn mà không làm ra vĩ đại, chói sáng mà không làm ai choáng ngợp, mới gặp lần đầu đã cảm thấy thân thiết từ lâu”...

Niềm tin, hành trang đi tới tương lai

PV: Cuộc đời Hồ Chí Minh là cuộc đời của một con người dâng hiến và hy sinh. Dâng hiến cho dân, cho nước, cho nhân loại tiến bộ. Hy sinh cả cuộc đời riêng vì sự nghiệp chung: “Quên nỗi mình đau, để nhớ chung” (Tố Hữu). Đúng như Người từng nói: “Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi”. Ông có suy nghĩ gì về điều này?

PGS, TS Trần Minh Trưởng: Trong Điếu văn truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Lê Duẩn đã có một nhận định khái quát: “Hơn 60 năm qua, từ buổi thiếu niên cho đến phút cuối cùng, Hồ Chủ tịch đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta và nhân dân thế giới. Người đã trải qua một cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ”.

Trọn đời mình, Người đã hóa thân vào nhân dân-dân tộc và nhân loại. Người từng nói: “Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho dân tộc tôi và hạnh phúc cho đồng bào tôi, đó là tất cả những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi hiểu về chủ nghĩa xã hội (CNXH)”. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, CNXH là một hệ giá trị: Độc lập-Tự do-Hạnh phúc. Đây cũng là hệ giá trị cốt lõi của phát triển, là những giá trị đặc trưng và mục tiêu của CNXH Việt Nam mà Người suốt đời theo đuổi.

Hơn thế, Hồ Chí Minh còn hoạt động không biết mệt mỏi để góp phần vào sự nghiệp giải phóng các dân tộc, giải phóng con người bị áp bức, bóc lột trên thế giới…

PV: Di sản Hồ Chí Minh có vị trí và ý nghĩa như thế nào trong hành trình đi tới tương lai của dân tộc ta? “Nghĩ về Bác lòng ta trong sáng hơn”, theo ông, mỗi người, mỗi tổ chức cần có trách nhiệm như thế nào trong học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới?

PGS, TS Trần Minh Trưởng: Di sản Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc, của nhân dân và của Đảng ta, là kim chỉ nam soi sáng, dẫn đường, là động lực tinh thần mạnh mẽ thúc đẩy công cuộc đổi mới ở nước ta đi tới thắng lợi. Di sản Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng và tấm gương đạo đức của Người là nguồn cổ vũ các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mãi mãi về sau trong cuộc hành trình lịch sử lâu dài tới lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.

Việc học tập và làm theo tấm gương của Bác vừa là trách nhiệm, nhu cầu và cũng là tình cảm của từng tổ chức và mỗi cá nhân. Trong đó, theo tôi, cần nhấn mạnh một số nội dung sau:

Trước hết, phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự xứng đáng “là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, như lời Bác dạy, luôn tận tâm, tận lực, góp phần vì sự nghiệp chung. Phải quan tâm bồi dưỡng, đào tạo thế hệ trẻ trở thành những cán bộ kế cận vừa “hồng” vừa “chuyên”, tiếp tục hoàn thành sự nghiệp cách mạng mà Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.

Phát huy thực lực, phát triển kinh tế, văn hóa, củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia. Mở rộng quan hệ bang giao quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế, phát huy nội lực và ngoại lực, tạo ra tiềm năng, phát triển tiềm lực và đạt tới thực lực cho Việt Nam phát triển bền vững.

Củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy dân chủ và đồng thuận xã hội. Trong đó, lấy đoàn kết trong Đảng làm cơ sở để đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế. Phải giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng “như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.

Đồng thời, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, quan liêu, tham nhũng, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động…

Bác đã đi xa hơn nửa thế kỷ nhưng tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người còn sống mãi. Hình ảnh Hồ Chí Minh, di sản vĩ đại Người để lại không chỉ là hiện thân cho dân tộc mà còn là niềm tin, hành trang đi tới tương lai của Việt Nam và “tình hữu ái toàn thế giới”. Đúng như dự báo cách đây gần 100 năm của nhà báo người Liên Xô Osip Mandelstam trong cuộc trò chuyện với Nguyễn Ái Quốc vào năm 1923: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hóa của tương lai… Qua cử chỉ cao thượng, tiếng nói trầm lắng của Nguyễn Ái Quốc, tôi như thấy được ngày mai, như thấy được viễn cảnh trời yên bể lặng của tình hữu ái toàn thế giới bao la như đại dương”.

DC.

Ký sinh trùng – “nghề rận chủ”

 

Ký sinh trùng là những sinh vật muốn tồn tại phải sống nhờ vào sinh vật đang sống khác như con người, động vật và thực vật. Những sinh vật bị ký sinh gọi là vật chủ. Ký sinh trùng sẽ chiếm sinh chất của vật chủ để tồn tại và phát triển.

Đấy là vấn đề mang tính sinh học. Còn đối với vấn đề xã hội thì sao. Trong xã hội hiện nay có những kẻ cũng đang sống nhờ ký sinh trên sự bất ổn của đất nước, của dân tộc, của đồng bào mình.

Vậy những kẻ đó là ai? Họ là những kẻ vô công, rỗi nghề, kém tài, lười lao động, nhưng lại háo danh, muốn ăn sung mặc xướng, muốn làm ông này, bà nọ, bị xã hội đào thải vì không đủ đức, tài để kiếm sống lương thiện bằng chính sức lao động và trí tuệ của mình…. Chúng thường nhân danh nhà hoạt động nhân quyền, đại diện dân oan, giáo sư này, tiến sỹ nọ ở hải ngoại hoặc trong nước… lợi dụng những vấn đề bức súc của xã hội được quần chúng quan tâm, nhưng các cơ quan nhà Nước chưa có biện pháp giải quyết dứt điểm kích động khiếu kiện, biểu tình đông người mục đích gây tiếng vang, kêu gọi tài trợ từ nước ngoài, sự đóng góp của những quần chúng nhẹ dạ, cả tin để kiếm tiền tiêu sài cá nhân, coi đó như là một nghề để kiếm sống. Điển hình vụ Đồng tâm những kẻ chống đối đứng đằng sau là tổ chức khủng bố Việt Tân, số phản động bên ngoài và những kẻ chống đối chính trị trong nước như: Phạm Chí Thành, Nguyễn Tường Thụy, Nguyễn Thúy Hạnh, Nguyễn Lân Thắng, Nguyễn Thị Tâm, Trịnh Bá Phương, Cấn Thị Thêu, Đặng Bích Phượng, Lê Đình Kình, , Lê Đình Công, Bùi Viết Hiểu

Chính vì thế, chúng không từ bỏ bất cứ một thủ đoạn nào, bất chấp luôn thường, đạo lý, để nói xấu chế độ, Nhà nước, kêu gọi “cõng rắn cắn gà nhà”, lừa dối những người dân nhẹ dạ, cả tin, kích động biểu tình, khiếu kiện đông người, thâm chí bạo loạn gây bất ổn xã hội….. Càng nhiều người tụ tập đông người, càng biểu tình, bạo động, càng tạo ra bất ổn cho đất nước, càng gây tiếng vang thì tiền tài trợ cho chúng càng nhiều.

Xét về bản chất của những kẻ làm ký sinh trùng - “nghề rận chủ”, chủ yếu những con người thoái hóa, biến chất về mặt đạo đức, lối sống tư tưởng hoạt động nghề rận chủ để có động cơ đó là vì tiền, vì lòng tham vô đáy nên đã dẫn đến căn bệnh hoang tưởng với những tư tưởng lệch lạc, đi ngược lại với lợi ích của dân tộc, thậm chí phản bội đất nước. Chúng bán linh hồn cho quỷ dữ, tự biến mình thành công cụ, là quân xanh để các thế lực chống phá đất nước ở bên ngoài sử dụng như một ngòi nổ cho mục đích làm rối loạn đất nước, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, tạo dựng ngọn cờ chống đối, kích động lôi kéo nhiều người tham gian tiến tới gây bạo loạn, lật đổ chế độ. Điều này thể hiện rất rõ trong các tôn chỉ, mục đích của các hội nhóm và trong tuyên bố, hành động hiện hành của những kẻ hành ký sinh trùng - “nghề rận chủ”.

Với công việc khá nhàn hạ, chỉ cần chịu nhục và chấp nhận liều kĩnh là các loại ký sinh trùng - “nghề rận chủ” có thể kiếm hàng chục, hàng trăm triệu đồng trong một thời gian ngắn. Đặc biệt là những blogger, những con giời hàng ngày ngồi gõ bàn phím viết bài xuyên tạc, ra đường tuần hành, lôi kéo, kích động biểu tình gây rối an ninh trật tự… để làm giầu cho bản thân. Những kẻ hành ký sinh trùng - “nghề rận chủ” được các thế lực thù địch bên ngoài trả tiền, cụ thể là Mỹ và phương Tây, trực tiếp thông qua CIA (Cục tình báo trung ương Mỹ). CIA được mệnh danh “chuyên gia lật đổ”, trực tiếp chỉ đạo, tài trợ các hoạt động của những phần tử, hội nhóm làm nghề hút máu như ký sinh trùng - “nghề rận chủ”. Hàng triệu USD và nhiều phương tiện, điều kiện hoạt động khác được CIA bơm cho tổ chức khủng bố Việt Tân trong suốt hơn 30 năm qua. Từ Việt Tân, tiền được bơm cho các phần tử hàng ngày làm ký sinh trùng - “nghề rận chủ”. Thế nên chúng mới có tiền để sống, mới có động lực để mà xuyên tạc, kích động và tiến hành nhiều hoạt động khác nhằm chống phá Việt Nam. Một thứ nghề khá “béo bở” song đầy nhem nhuốc và đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc, phản bội đất nước, nhân dân Việt Nam.

THÀNH TÍCH CHỐNG COVID-19 CỦA VIỆT NAM CÓ LỪA CẢ THẾ GIỚI KHỒNG? VIỆC XÂY DỰNG BỆNH VIỆN DÃ CHIẾN TẠI ĐÀ NẴNG CÓ CẦN THIẾT KHÔNG?

Thời gian gần đây, lơi dụng dịch bệnh Covid -19 bùng phát trở lại tại Đà Nẵng và một số tỉnh (thành phố), các đối tượng phản động phát tán nhiều bài viết có nội dung xuyên tạc sự chỉ đạo của Chính phủ, sự nỗ lực của các ban, ngành và của toàn dân trong công tác phòng, chống dịch bệnh. Cụ thể là: chúng vu cáo Việt Nam tuyên truyền “sai lệch” về tình hình dịch bệnh; kích động người dân xuống đường đấu tranh đòi “thay đổi chế độ”; điển hình như những bài: “Ôi dịch Đà Nẵng làm lộ sự tuyên truyền láo toét của Cộng sản”; “Thấy gì qua báo chí Việt Nam cố tình khoả lấp nguyên nhân”; “Thành tích chống Covid-19: Việt Nam lừa cả thế giới”; đáng lưu ý là có cả một số trang tin truyền thông của phương Tây núp dưới danh nghĩa cái gọi là “nhân quyền” để can thiệp và xuyên tạc tình hình phòng, chống dịch của Việt Nam, họ cho rằng việc Đà Nẵng thành lập bệnh viện dã chiến là không cần thiết…

Trước những luận điệu trên, cần thấy rõ và khẳng định ngay: đây hoàn toàn là sự bịa đặt vu khống, bởi vì như chúng ta đã biết: công cuộc phòng, chống đại dịch Covid-19 đã được Đảng, Nhà nước, Chính Phủ chỉ đạo Bộ Y tế và các bộ, ban, ngành liên quan thực hiện rất quyết liệt, hiệu quả ngay từ khi có dịch xuất hiện, với phương châm không dấu dịch, không ai bị bỏ lại phía sau, cùng với sự đoàn kết, đồng lòng của toàn dân. Nhờ đó, đợt đầu Việt Nam đã đẩy lùi và khống chế hoàn toàn dịch bệnh, được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ghi nhận và đánh giá cao, nhân dân Việt Nam tuyệt đối tin tưởng vào kết quả xử lý dịch bệnh.

Sau hơn 3 tháng không có ca mắc mới, Đà Nẵng bùng phát dịch trở lại, Chính phủ và Bộ Y tế đã kịp thời sử dụng các phương án tối ưu nhất tập trung cho Đà Nẵng, các ca tử vong liên quan đến Covid-19 đều nằm trong khuyến cáo của WHO là những đối tượng là người già và hầu hết những người đó đều có bệnh nền, bệnh hiểm nghèo giai đoạn cuối. Sau mỗi ca tử vong, Bộ Y tế đều công bố rõ nguyên nhân tử vong và tiểu sử bệnh nền.

Liên quan đến những luận điệu trên, chúng ta có câu trả lời rõ ràng rằng: Kết quả chống dịch ngay từ đợt đầu của Việt Nam đã thắng lợi, cả thế giới và đặc biệt là người dân Việt Nam tâm phục, khẩu phục. Việc thành lập bệnh viện dã chiến ở những nơi bùng phát dịch là hoàn toàn hợp lý và đúng với dự kiến đã đề ra, chúng cho rằng Đà Nẵng không cần thiết phải thành lập bệnh viện dã chiến là thể hiện sự phi đạo đức và ấu trĩ, chúng không biết rằng, tất cả các phương án chống dịch đều được Chính phủ chỉ đạo ngay từ đầu, đối với Bộ quốc phòng cũng đã xác định “chống dịch như chống giặc”, do vậy các phương án tác chiến đều được sẵn sàng.

Qua đây càng cho thấy rõ bản chất xấu xa, âm mưu đen tối, sự xuyên tạc, bội nhọ, vu khống trơ trẽn và trắng trợn hình ảnh đất nước và con người Việt Nam của các thế lực thù địch, các phần tử chống cộng cực đoan hòng chống phá thành quả cách mạng mà đất nước đã và đang đạt được dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng.

Do đó, mỗi người dân Việt Nam cần nâng cao cảnh giác, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, chính phủ, đặc biệt trong thời điểm dịch bệnh, đẩy mạnh đoàn kết và tinh thần trách nhiệm hơn nữa trong phòng, chống, sát cánh cùng Chính phủ, các bộ, ngành để đẩy lùi dịch bệnh trong thời gian sớm nhất. Kịp thời đấu tranh, lên án mạnh mẽ và loại bỏ những luận điệu xuyên tác, bóp méo sự thật, vu khống, nhằm chống phá ta của các thế lực thù địch, phần tử phản động./.
Đỗ Hải Triều

VIỆT NAM CHẮC CHẮN KHỐNG CHẾ THÀNH CÔNG ĐỢT DỊCH COVID-19 MỚI

 Việt Nam có nhiều kinh nghiệm trong việc chiến đấu chống lại đại dịch, không chỉ COVID-19. Việt Nam từng trải qua dịch hô hấp cấp (SARS) năm 2003 và trở thành quốc gia đầu tiên kiểm soát nó. Liên quan đến COVID-19, Việt Nam đã công bố 2 trường hợp đầu tiên (một người đàn ông Trung Quốc đi từ Vũ Hán và con trai) vào ngày 30-1-2020, sớm hơn hầu hết các nước trong khu vực, đặc biệt là ở Đông Nam Á.

Bị đại dịch tấn công sớm khiến Việt Nam nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của việc ngăn chặn sự lây lan. Chính phủ Việt Nam đã thực hiện các biện pháp sớm để ngăn chặn sự lây lan của COVID-19 và đã kiểm soát thành công trước đó. Kinh nghiệm đối phó với 2 đợt dịch trước cũng có thể hữu ích cho Việt Nam trong việc giải quyết các ca dương tính mới nhất ở Đà Nẵng. Nhờ sự phối hợp hiệu quả, các biện pháp y tế công cộng như truy tìm dấu vết tích cực, cách ly bắt buộc và khử trùng bề mặt đã được thực hiện ngay lập tức.

Gần đây, khi trường hợp thứ 416 được báo cáo - trường hợp lây nhiễm cộng đồng đầu tiên sau 99 ngày - chính quyền địa phương của Đà Nẵng cũng xử lý theo mô hình giống như Hà Nội đã làm trước đây. Chỉ thị 16 về giãn cách xã hội đã được ban hành, cấm tụ tập hơn 2 người ở những nơi công cộng; các chiến dịch sàng lọc và khử trùng hàng loạt đã được tiến hành và số lượng người ra vào Đà Nẵng bị hạn chế rất nhiều.

Điều quan trọng, lần này, vì đã chiến đấu chống lại đại dịch trong nửa năm, Việt Nam được trang bị các thiết bị tốt hơn, điều cần thiết để chống lại làn sóng COVID-19 tiếp theo.

Trước đó, Việt Nam đã giải quyết đại dịch với ngân sách khá eo hẹp. Hiện tại, mặc dù ngân sách y tế vẫn còn hạn chế, nhưng thiết bị y tế của Việt Nam đã dần được cải thiện, cho phép thực hiện các hoạt động kiểm soát hiệu quả hơn trên quy mô lớn hơn để chống lại virus.

Nhận thức của cộng đồng cũng được nâng cao hơn. Nhận thức được coi là một trong những yếu tố chính trong việc đẩy lùi COVID-19 trước đây. Người dân đang sử dụng các ứng dụng di động như NCOVI và Bluezone, được phát triển với sự chỉ đạo của cơ quan nhà nước, để cập nhật tình trạng sức khỏe thường xuyên để chính quyền địa phương có thể theo dõi chặt chẽ tình hình đại dịch và ứng phó kịp thời. Bên cạnh đó, các ứng dụng này cũng giúp người dùng biết những trường hợp dương tính mới được phát hiện gần đây và làm thế nào để giữ sức khỏe giữa đại dịch, những thông tin cần thiết cho họ để tránh bị lây nhiễm.Với khả năng bùng phát tiếp theo, Bộ Thông tin và Truyền thông có thể phối hợp với các cơ quan liên quan khác để sớm cập nhật ứng dụng với nhiều chức năng hơn.

Cái gọi là " Hệ thống lý luận đã lỗi thời, lạc hậu''

                    Cái gọi là "Hệ thống lý luận đã lỗi thời, lạc hậu'' là muốn ám chỉ lý luận của  lý luận mác xít đã trở nên lỗi thời, lạc hậu. Lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin với mục tiêu giải phóng và phát triển dân tộc, giai cấp, con người, xã hội, nhân loại. với mục tiêu ấy không thể là sự lạc hậu và lỗi thời. 

Tự nhiên


    



Sai lầm ngoại giao kiểu mới của Trung Quốc về Biển Đông

 Sai lầm ngoại giao kiểu mới của Trung Quốc về Biển Đông

Việc Trung Quốc liên tục dùng ngoại giao theo kiểu “khẩu chiến” với các quốc gia về Biển Đông trong bối cảnh nước này đuối lý càng khiến uy tín của Bắc Kinh suy giảm trầm trọng.
Hôm 30-7, Đại sứ Úc tại Ấn Độ Barry O’Farrell khi trả lời hãng tin ANI (Ấn Độ) đã nói Úc tiếp tục bày tỏ quan ngại sâu sắc trước hành động của Trung Quốc (TQ) ở Biển Đông, điều mà đại sứ Úc gọi là “gây bất ổn và có thể làm leo thang căng thẳng” ở vùng biển vừa giàu tài nguyên, vừa là tuyến hàng hải quan trọng. Đại sứ Úc cũng nhắc lại sự kiện hôm 23-7 nước này đã gửi công hàm lên tổng thư ký Liên Hợp Quốc (LHQ) để bác bỏ hầu hết yêu sách, trong đó có “đường lưỡi bò”, của TQ ở Biển Đông vì vi phạm Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982. Ông O’Farrell đồng thời đề nghị TQ phải kiềm chế cách hành xử của họ.
Phát biểu của ông O’Farrell ngay lập tức khơi mào một cuộc “khẩu chiến” với Đại sứ TQ tại Ấn Độ Tôn Vệ Đông (Sun Weidong). Trên trang Twitter cá nhân, ông Tôn phản pháo đại sứ Úc, đồng thời cho rằng TQ có chủ quyền lãnh thổ, những lợi ích và quyền hàng hải tại Biển Đông phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS. “Các nhận xét của đại sứ Úc tại Ấn Độ về vấn đề Biển Đông đã không đúng với những gì diễn ra trên thực tế. Chủ quyền lãnh thổ, các quyền hàng hải và những lợi ích của TQ hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế, bao gồm UNCLOS. Ở đây, rất rõ ràng rằng ai mới chính là người bảo vệ hòa bình và ổn định, còn ai mới chính là người gây bất ổn và kích động leo thang căng thẳng tại khu vực” - ông Tôn viết.
Dù không đề cập trực tiếp nhưng trong bối cảnh hiện nay và diễn biến ở Biển Đông suốt thời gian qua, có thể thấy phát ngôn của ông Tôn nhằm vào chỉ trích Mỹ và các quốc gia đồng minh, đối tác Mỹ đã công khai chống lại yêu sách của TQ, như Úc.
Đáp lại lời của ông Tôn, Đại sứ Úc O’Farrell viết: “Cám ơn ngài đại sứ TQ tại Ấn Độ. Tôi hy vọng rằng tới đây ngài sẽ tuân thủ phán quyết của Tòa Trọng tài năm 2016 về vụ kiện Biển Đông - phán quyết cuối cùng và có tính ràng buộc theo luật quốc tế, đồng thời (TQ cũng hãy) kiềm chế các hành động làm thay đổi hiện trạng khu vực”.
Có thể thấy Đại sứ O’Farrell mượn chính lý lẽ của TQ - Bắc Kinh tuân theo luật quốc tế - để yêu cầu TQ thực hiện đúng trách nhiệm của một thành viên UNCLOS, trong đó có việc thừa nhận và thực thi phán quyết 2016. Tuy nhiên, Đại sứ TQ Tôn Vệ Đông ngay lập tức lặp lại quan điểm của Bắc Kinh theo đuổi lâu nay: “Bác bỏ phán quyết. Bắc Kinh ngay từ những ngày đầu vụ kiện đã ra chính sách bốn không: Không tham gia, không công nhận thẩm quyền của tòa, không chấp nhận và không thi hành phán quyết”. Chính sách này nằm trong trận chiến pháp lý của TQ với các nước, trở thành chỗ dựa cho các nhà ngoại giao Bắc Kinh đối phó công luận.
Phải thừa nhận một thực tế đã có vài quốc gia lo sợ khi bị TQ dọa nạt. Từ đó, họ có chủ trương hòa hiếu, im lặng trước cách hành xử phi pháp của TQ, thậm chí có xu hướng chấp nhận “gác tranh chấp, cùng khai thác” ngay trong chính vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của họ. Tuy nhiên, bức tranh tổng thể diễn ra lại khiến TQ rơi vào rủi ro bị cô lập và trừng phạt bởi một tập thể lớn hơn.
Thứ nhất, các cuộc “khẩu chiến” của TQ đang trở thành tâm điểm, thu hút sự quan tâm ngày càng đông của công luận về Biển Đông, điều vốn không có lợi cho TQ khi nước này một mực giữ chủ trương “Biển Đông là chuyện nội bộ giữa TQ và các quốc gia ASEAN”.
Hiện nay, ý đồ cô lập ASEAN và “bẻ từng chiếc đũa” đã phá sản. Trong khi có rất ít quốc gia ủng hộ hoặc chấp nhận im lặng trước yêu sách phi pháp của TQ và họ chủ yếu là các quốc gia kém phát triển thì số lượng các nước công khai chống TQ ngày càng nhiều và đều là các cường quốc đóng vai trò then chốt trong phát triển kinh tế của chính quyền Tập Cận Bình. Rõ ràng nhất là Mỹ và các đồng minh, đối tác lớn như Nhật Bản, Úc, Ấn Độ, các nước EU.
Thứ hai, TQ đang ngày càng đuối lý trong các cuộc “khẩu chiến”. Là thành viên của UNCLOS, TQ lại công khai chống lại quyết định rất mạch lạc và thuyết phục của Tòa Trọng tài. Trong khi đó, yêu sách “đường lưỡi bò”, dưới sức lan tỏa của truyền thông, nay đã lộ rõ bản chất mơ hồ và không có cơ sở pháp lý. Các học giả, chuyên gia TQ, thậm chí là thẩm phán (người TQ) của tòa án quốc tế về luật biển, đã cố gắng giải thích “đường lưỡi bò” bằng nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, không có một phương án nào thuyết phục được cộng đồng quốc tế. TQ dùng nhiều chiêu trò, điển hình là rải bản đồ “đường lưỡi bò” vào các tạp chí khoa học tự nhiên, phim ảnh... nhưng nhanh chóng bị dư luận phát hiện. Tất cả góp phần làm lộ rõ bản chất phi pháp của “đường lưỡi bò” và sự đuối lý của chính quyền TQ. Sự gai góc, trịch thượng, bất chấp lý lẽ của TQ trong các cuộc “khẩu chiến” tạo nên một bầu không khí bất an, nhiều rủi ro trong bang giao; kích động chủ nghĩa dân tộc tại các quốc gia khác vốn không thể chấp nhận bị TQ dọa nạt.
Nó tạo ra tâm lý chung trong cộng đồng quốc tế: Chống TQ, tránh né TQ hoặc chí ít là hạn chế làm ăn với TQ. Giới đầu tư bắt đầu tháo chạy khỏi nền kinh tế lớn thứ hai thế giớivì liên tục dính vào các cuộc đối đầu với Mỹ và nay là với các nền kinh tế lớn thân Mỹ. Cạnh đó, giới quan sát tin rằng sẽ có nhiều quốc gia hơn, dù không phải là bên tranh chấp ở Biển Đông, sẽ đệ trình công hàm bác bỏ yêu sách của TQ lên LHQ.