Thứ Sáu, 21 tháng 8, 2020

Bài 2: Thiếu gương mẫu rèn luyện, vi phạm kỷ luật Đảng và đạo đức công vụ

       Thời xa xưa, ông cha ta gặp nhau thường mời nhau chén nước, miếng trầu để cho cuộc trò chuyện được khởi đầu suôn sẻ, vui vẻ. Từ mỹ tục này, hiện nay không ít người đã dần biến thành "hủ tục" gặp gỡ là đàn đúm, kéo nhau ra quán xá, nhà hàng để nhậu nhẹt, “zô... zô…” ồn ĩ!
Theo thống kê của Hiệp hội Máy móc chế biến thực phẩm và đóng gói (VDMA), trong năm 2016, nước ta đã tiêu thụ 3,918 tỷ lít đồ uống có cồn (3,822 tỷ lít bia và 41 triệu lít rượu), xếp thứ 16 trên thế giới về mức độ tiêu thụ đồ uống có cồn.
Còn theo số liệu công bố đầu năm 2016 của Viện Xã hội học (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam), thông qua khảo sát điều tra về đối tượng sử dụng rượu, bia tại 4 địa phương là Hà Nội, Đà Nẵng, Lào Cai và Long An, có 3 nhóm uống rượu, bia nhiều nhất là: Cán bộ, công chức (hơn 38%), đối với cán bộ, công chức ở Hà Nội là hơn 48%; tiếp đến là người lao động tự do (38%); thanh niên (25%).
         Vì sao cán bộ, công chức lại là đối tượng sử dụng nhiều rượu, bia nhất? Theo lý giải của ông Hà Hữu Đức, Phó vụ trưởng Vụ Nghiên cứu (Ủy ban Kiểm tra Trung ương), nguyên nhân sâu xa là do kinh tế phát triển, đời sống vật chất dư dả, từ đó sinh ra tâm lý “phú quý sinh lễ nghĩa”. Có muôn vàn lý do người ta mời nhau ra quán xá, nhà hàng để tiệc tùng, nhậu nhẹt. Đối với nhiều cán bộ, công chức, khi được đề bạt, bổ nhiệm, tăng bậc lương, thăng hạng chuyên viên, luân chuyển, thuyên chuyển công tác… là “thời cơ vàng” để mời mọc, cảm ơn, tri ân chiến hữu, bạn bè, đồng nghiệp, cấp dưới. Đối với tổ chức, cơ quan, đơn vị, sau mỗi kỳ cuộc liên hoan, gặp mặt, hội nghị, đại hội, kỷ niệm ngày truyền thống, khai giảng, bế giảng, hội họp… cũng là dịp thuận lợi để tổ chức liên hoan, có nơi tuy được khoác dưới cái “vỏ bọc” là giao lưu vui vẻ, nhưng thực chất là ăn uống đình đám, nhậu nhẹt rình rang, lãng phí. Chuyện tân Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Nghệ An Hoàng Nghĩa Hiếu đầu năm 2016 tổ chức giao lưu tiệc tùng ồn ào nhân dịp được thăng chức đã lan truyền trên mạng từng bị lãnh đạo tỉnh Nghệ An phê bình, là một ví dụ.        Ở một khía cạnh khác, theo GS, TS Trần Văn Bính, nguyên Trưởng khoa Văn hóa XHCN (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh), cũng do các mối quan hệ xã hội nở rộ, có nhiều chuyện không muốn nói ra ở công sở thì cán bộ, công chức kéo nhau ra quán xá để vừa tự thưởng bản thân bằng những “chén chú, chén anh”, vừa dễ bề bàn chuyện nọ, chuyện kia trong lúc “trà dư tửu hậu”. Mặt khác, tâm lý “ăn khao”, “trả nợ miệng” lẫn nhau sau khi được thăng chức, thăng quyền… chính là tàn dư từ thời phong kiến và tư tưởng tiểu nông còn tồn tại dai dẳng trong người Việt nói chung, trong một bộ phận cán bộ, đảng viên nói riêng.
      Ông Nguyễn Quang Dung, Vụ trưởng Vụ Đảng viên (Ban Tổ chức Trung ương) cho rằng, việc một số cơ quan, tổ chức không duy trì nghiêm túc các chế độ quản lý con người, quản lý giờ giấc làm việc hành chính và không chú trọng xây dựng nền nếp kỷ cương, đạo đức công vụ cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng một bộ phận cán bộ, công chức, nhất là những người ít việc, rỗi việc thường sa đà vào ăn uống, nhậu nhẹt, vi phạm kỷ luật công vụ.
Nhưng nguyên nhân căn bản là do cán bộ thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện, có “tâm hồn ăn uống” quá mức cần thiết, tự buông lỏng bản thân vào những cuộc tiệc tùng lãng phí, chè chén xa hoa.
       Trong khi phần đông nhân dân, người lao động hằng ngày phải vất vả mưu sinh, lo toan gánh nặng cơm áo gạo tiền thì việc nhiều cơ quan, cán bộ tổ chức các cuộc ăn uống, tiệc tùng, liên hoan là biểu hiện vô tâm, phản cảm.
Còn nhớ đầu tháng 10-2011, mặc dù huyện Hương Sơn (tỉnh Hà Tĩnh) đang bị ngập lụt hoành hành, nhưng Phó chủ tịch UBND huyện Phạm Xuân Cảnh vẫn đi uống rượu sau khi đi chống bão lụt về. Vụ việc khiến Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh lúc đó là ông Nguyễn Thanh Bình đã thẳng thắn phê bình: Tuy trường hợp này không rơi vào giờ làm việc tại công sở, nhưng đây là hành vi vô cảm bởi cảnh lụt lội đang gây khó khăn chồng chất cho người dân mà cán bộ vẫn ngồi uống rượu là không phải đạo!
       Vào đầu tháng 11-2016, dư luận từng xôn xao về việc UBND thị xã Hồng Lĩnh (tỉnh Hà Tĩnh) đã phân công, điều động một số nữ giáo viên đi đón tiếp, uống rượu, bia với các đại biểu khách của UBND thị xã tại một nhà hàng trên địa bàn. Việc làm này khiến các cô giáo không hài lòng, thậm chí có người cảm thấy bị xúc phạm. Nhận định về vụ việc, khi đăng đàn tại Kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa XIV ngày 16-11-2016, Phó thủ tướng Vũ Đức Đam coi việc điều động này là không phù hợp với vị thế xã hội của các cô giáo, gây dư luận phản cảm nên cần phải cảnh tỉnh nghiêm khắc, chấn chỉnh kịp thời.
Từ các câu chuyện trên cho thấy, chuyện ăn uống tưởng như chỉ liên quan đến những người trong cuộc, nhưng một khi nó bị biến tướng thành những cuộc liên hoan đình đám, những cuộc vui quá đà, những bữa “chè chén” xa hoa lại là điều không thể xem thường.
       Những cán bộ sa đà vào các cuộc “chén anh, chén chú” như thế, theo ông Nguyễn Túc, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cán bộ không những tự “bêu gương” xấu trong nhân dân, mà còn tác động tiêu cực đến việc xây dựng nếp sống văn hóa tốt đẹp, lành mạnh trong xã hội. Ông Nguyễn Túc phân tích: Trong thời kỳ kháng chiến giải phóng dân tộc, hầu hết cán bộ, đảng viên đã thu phục được quần chúng, lôi cuốn được quần chúng đi theo cách mạng bởi cán bộ, đảng viên luôn biết chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ với quần chúng. Trong thời bình xây dựng đất nước, dù Đảng, Nhà nước không yêu cầu cán bộ kham khổ như xưa, nhưng phải đề cao ý thức, trách nhiệm nêu gương về đạo đức, lối sống lành mạnh trước nhân dân. Vì thời nào cũng vậy, người dân, cấp dưới vẫn thường nhìn vào cán bộ lãnh đạo để học tập, noi gương. Nếu cán bộ có tư cách tốt, lối sống liêm khiết, giản dị sẽ tác động tích cực đến niềm tin, tình cảm của cấp dưới, từ đó cũng góp phần lôi cuốn nhân viên, người lao động hưởng ứng tham gia phong trào xây dựng nếp sống văn hóa lành mạnh trong cơ quan, đơn vị. Ngược lại, nếu cán bộ có lối sống xa hoa, thiếu gương mẫu thì không những không lãnh đạo, chỉ bảo, giáo dục được nhân viên và cấp dưới mà còn vô hình trung cổ vũ cho lối sống thực dụng, ích kỷ, lãng phí, tác động rất xấu đến niềm tin của giới trẻ. Hệ lụy kéo theo mà họ gây ra là làm đảo lộn các chuẩn mực giá trị đạo đức xã hội, làm cho lòng tin của dân vào Đảng và chế độ bị xói mòn nghiêm trọng.
       Tìm hiểu được biết, trong một cuộc khảo sát điều tra gần đây của Viện Nghiên cứu dư luận (Ban Tuyên giáo Trung ương), một trong 4 vấn đề chủ yếu liên quan đến cán bộ, đảng viên chưa được đa số nhân dân ghi nhận, đó là cán bộ, đảng viên chưa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Sự lãng phí này có nhiều nguyên nhân, nhưng có một nguyên nhân không nhỏ là do một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa tự giác thực hiện nếp sống lành mạnh, tiết kiệm, giản dị; còn tiêu xài lãng phí vào những cuộc liên hoan, ăn uống, nhậu nhẹt xa hoa.

Chặn đứng tình trạng thao túng công tác cán bộ, lạm dụng quyền lực bổ nhiệm người nhà, người thân

Đây là một trong những biểu hiện suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Nếu không ngăn chặn được tình trạng này sẽ tác động tiêu cực đến việc xây dựng bộ máy công quyền liêm chính, vì dân và làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ.


       Trong số 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã chỉ ra hai biểu hiện suy thoái của cán bộ, đảng viên liên quan đến giải quyết mối quan hệ với người nhà, người thân. Đó là: “Tranh thủ bổ nhiệm người thân, người quen, người nhà dù không đủ tiêu chuẩn, điều kiện giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc bố trí, sắp xếp vào vị trí có nhiều lợi ích” (thuộc diện suy thoái về tư tưởng chính trị); và: “Thao túng trong công tác cán bộ; sử dụng quyền lực được giao để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi” (thuộc diện suy thoái về đạo đức, lối sống).
      Nhận định trên đây là hoàn toàn có cơ sở. Bởi vì, chưa bao giờ những cụm từ như: “Cả nhà làm quan”, “cả họ làm quan”, “bổ nhiệm thần tốc”, “lên chức siêu nhanh”, “thăng chức như diều gặp gió”, “lại bổ nhiệm đúng quy trình”… liên tục xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng như thời gian gần đây. Thậm chí, người dân tỏ ra rất “dị ứng” với cụm từ “đúng quy trình” vì hầu hết các trường hợp “con ông cháu cha” được bổ nhiệm đều được che giấu, biện minh bởi tấm bình phong “đúng quy định, đúng quy trình” nhưng ẩn chứa không ít điều khuất tất, tiêu cực.
       Chỉ trong năm 2016, theo thanh tra Bộ Nội vụ, sau khi kiểm tra, rà soát, xác minh các hồ sơ, tài liệu liên quan đến các trường hợp theo thông tin báo chí phản ảnh, cơ quan này đã phát hiện 58/60 cán bộ được bổ nhiệm có quan hệ ruột rà, họ hàng thân thích với cán bộ lãnh đạo. Việc bổ nhiệm “cả nhà làm quan” xảy ra nổi cộm ở 9 địa phương, đơn vị, bao gồm: Tỉnh Hà Giang; xã Hạ Sơn, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An; huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên-Huế; huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắc Lắc; tỉnh Bình Định; huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ; Cục Thuế tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu thuộc Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính; tỉnh Yên Bái; Trung tâm Pháp y thuộc Sở Y tế TP Đà Nẵng.         Đấy là chưa kể lợi dụng quyền hạn của mình trước khi về hưu, một số cán bộ lãnh đạo đã bổ nhiệm hàng loạt người thân quen vào các vị trí cao hơn. Điển hình như nguyên Tổng Thanh tra Chính phủ Trần Văn Truyền đã bổ nhiệm gần 60 cán bộ cấp vụ và tương đương trong cơ quan này cách đây 6 năm. Hay vào dịp tháng 3-2014, ông Nguyễn Thành Rum, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch TP Hồ Chí Minh, trong vòng hai tuần trước khi nghỉ công tác đã ký 20 quyết định bổ nhiệm cán bộ sai nguyên tắc.
         Gần đây nhất, dư luận bất bình trước việc “bổ nhiệm thần tốc” đối với một công chức ở Sở Xây dựng tỉnh Thanh Hóa có rất nhiều sai sót cả về quy trình, nguyên tắc và đây là một trong những vụ việc “nổi cộm” về tình trạng thao túng, lộng hành trong công tác cán bộ của một số cá nhân có chức, có quyền ở đây.
Tại sao lại xảy ra tình trạng cha bổ nhiệm con, chồng bổ nhiệm vợ, chị bổ nhiệm em, bác bổ nhiệm cháu, lãnh đạo tùy tiện bổ nhiệm người thân quen, “cánh hẩu” với mình… khiến dư luận bức xức? Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng này, như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã chỉ ra, đó là: “Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tiên phong, gương mẫu; cơ chế kiểm soát quyền lực chậm được hoàn thiện, còn nhiều sơ hở; đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ còn nể nang, cục bộ; một số cơ chế, chính sách trong đề bạt, bổ nhiệm cán bộ chưa công bằng”.
        Đáng nói hơn, hầu hết các trường hợp bổ nhiệm người nhà, người thân “siêu tốc” bị dư luận phanh phui đều liên quan đến những cán bộ chủ chốt ở cơ quan, đơn vị, địa phương. Những người này không chỉ lợi dụng các kẽ hở của chính sách pháp luật, lợi dụng quyền lực của mình để tác động, can thiệp, chi phối, thao túng công tác cán bộ, mà còn bất chấp các quy định của Đảng về việc giải quyết mối quan hệ với người nhà, người thân. Tại Quy định số 47-QĐ/TW ngày 1-11-2011 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI “Về những điều đảng viên không được làm”, đã quy định cán bộ, đảng viên không được: “Can thiệp, tác động đến tổ chức, cá nhân để bản thân hoặc người khác được bổ nhiệm, đề cử, ứng cử, đi học… trái quy định”; và: “Tạo điều kiện hoặc có hành vi để bố, mẹ, vợ (chồng), con, anh, chị, em ruột lợi dụng chức vụ, vị trí công tác của mình nhằm trục lợi”. Tại Quy định số 101-QĐ/TW ngày 7-6-2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp” cũng nêu rõ: Cán bộ lãnh đạo chủ chốt “Không để cho người thân lợi dụng quyền hạn và ảnh hưởng của mình để trục lợi”.
      Tình trạng bổ nhiệm người nhà, người thân tràn lan không chỉ là biểu hiện nổi cộm của “tư duy nhiệm kỳ”, “lợi ích nhóm”, mà còn xuất phát từ tư tưởng phong kiến “cha truyền con nối” vẫn tồn tại dai dẳng trong cán bộ, đảng viên. Hệ lụy gây ra là người tài, người tốt không có cơ hội được sử dụng, đề bạt tương xứng với trình độ, năng lực, cống hiến của họ; còn những người chưa đủ tiêu chí, chưa đạt tiêu chuẩn, ít có đóng góp cho cộng đồng lại được “đãi ngộ” quá sớm, trên mức bình thường. Nguy hại hơn, tình trạng này sẽ tạo thành những “ê kíp” lãnh đạo cục bộ, khép kín, dựng lên những “cánh hẩu” bao che, dung túng khuyết điểm cho nhau, từ đó làm méo mó các mối quan hệ trong nội bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể và tác động tiêu cực đến việc xây dựng bộ máy công quyền liêm chính, của dân, do dân, vì dân.   
       Để góp phần xây dựng bộ máy Đảng, chính quyền trong sạch và củng cố niềm tin của nhân dân vào chế độ, việc cấp bách hiện nay là sau khi dư luận phản ảnh, cơ quan chức năng vào cuộc và có kết luận rõ ràng những trường hợp bổ nhiệm người nhà, người thân sai nguyên tắc, trái quy định, hoặc “đúng quy trình” nhưng thiếu tính thuyết phục, thì phải kiên quyết thu hồi các quyết định bổ nhiệm, đề bạt đó. Điều nhân dân đòi hỏi, mong muốn là phải sớm xử lý nghiêm minh, thích đáng đối với những cán bộ lãnh đạo lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để thao túng công tác cán bộ, bổ nhiệm người nhà, người thân tràn lan; đồng thời cũng phải có hình thức kỷ luật thích hợp đối với bộ phận tham mưu, thẩm định những quyết định bổ nhiệm cán bộ chưa đủ tiêu chí, chưa đạt tiêu chuẩn, năng lực hạn chế, uy tín thấp. Chỉ có siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong công tác tuyển dụng nhân sự, bổ nhiệm cán bộ mới có thể làm cho bộ máy hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn và phục vụ nhân dân tốt hơn.        Công tác cán bộ liên quan đến tập thể cấp ủy, tổ chức đảng các cấp. Cấp ủy mạnh, có sức chiến đấu cao, có tinh thần tự phê bình và phê bình nghiêm túc, thực chất và đặc biệt là có ý thức công tâm, vô tư, liêm khiết trong việc đánh giá, sử dụng, bổ nhiệm cán bộ sẽ góp phần ngăn ngừa được tình trạng người đứng đầu lạm dụng quyền hạn trong việc đề bạt người nhà, người thân. Mặt khác, phải sớm nghiên cứu, hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức, có quyền trong việc bổ nhiệm cán bộ; đồng thời phải phân định rõ ràng thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể cấp ủy và mỗi cấp ủy viên trong các quy trình giới thiệu, thẩm định, lựa chọn, đề bạt, bổ nhiệm, sử dụng cán bộ. Kiên quyết khắc phục tình trạng khi có khuyết điểm về công tác cán bộ thì đổ lỗi cho tập thể cấp ủy, dẫn tới tình trạng “hòa cả làng”, không ai chịu trách nhiệm cá nhân và “gánh” hậu quả pháp lý khi có sai phạm trong việc tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ.
        Từ khi đảm nhiệm vai trò người đứng đầu Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nhiều lần chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương phải kiên quyết khắc phục tình trạng bổ nhiệm người nhà, người thân khiến dư luận bức xúc; đồng thời kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm và có hình thức xử lý kỷ luật cá nhân vi phạm pháp luật và có khuyết điểm trong công tác tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ, công chức. Sau khi nhấn mạnh rằng, yêu cầu công tác cán bộ phải đi tìm người tài chứ không phải tìm người nhà, Thủ tướng cũng mong muốn phải làm sao để con em nông dân, công nhân, người lao động có cơ hội được học tập, phấn đấu để trở thành lãnh đạo đất nước trong tương lai. Thông điệp đó của người đứng đầu Chính phủ không chỉ là lời thức tỉnh, cảnh báo nghiêm khắc đối với những ai đã, đang lạm dụng quyền hạn của mình để làm sai lệch, biến tướng, thao túng công tác cán bộ; mà còn thể hiện ý chí, cam kết chính trị của Đảng, Nhà nước ta trong việc nỗ lực hướng tới làm lành mạnh hóa công tác cán bộ, trong sạch hóa đội ngũ cán bộ, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có đủ phẩm chất, trình độ, năng lực, uy tín, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân.

Thứ Năm, 20 tháng 8, 2020

“CÁCH MẠNG MÀU” ĐANG DIỄN RA Ở BELARUS

 

Thủ đô Minks của Belarus đang trải qua những ngày hỗn loạn sau khi cuộc bầu cử tổng thống diễn ra tại quốc gia này với chiến thắng thuộc về tổng thống đương nhiệm trước đây. Cuộc biểu tình của phe đối lập lần này có bóng dáng của một cuộc cách mạng màu ở quốc gia “thân” với Nga.

Sau khi cuộc bầu cử kết thúc, phe đối lập thất bại đã tuyên bố “gian lận” trong bầu cử và kêu gọi người dân xuống đường biểu tình đòi lật đổ đương kim tổng thống mới đắc cử vừa qua.

Không chỉ có phe đối lập, các quốc gia như Mỹ, EU nhanh chóng ủng hộ phe đối lập tiến hành các hoạt động bạo lực tại thủ đô Minks. Lý do chính họ ủng hộ các cuộc biểu tình đó là do phe đối lập có tư tưởng “thân” phương Tây, trong khi tổng thống mới đắc cử có quan điểm “thân” Nga.

Nhìn vào cách thức biểu tình tại thủ đô Mink có thể khẳng định đây là một trong những kịch bản Cách mạng màu đang được tiến hành ở thủ đô Belarus. Bởi vì lý do:

Thứ nhất, sự khác biệt trong quan điểm “thân” phương Tây và Nga đã khiến cho nhiều quốc gia ở khu vực Đông Âu chìm đắm trong bạo lực, chia rẽ sâu sắc. trong khi Belarus có vai trò đặc biệt quan trọng với cả Nga và phương Tây, là mạng sườn để tiến được vào Nga của phương Tây và vùng đệm an toàn cho Nga trong bối cảnh Mỹ, phương Tây đang tiến dần đến vùng ảnh hưởng của Nga.

Thứ hai, trong quá trình áp đặt sự ảnh hưởng tại các quốc gia Đông Âu, Belarus nói riêng nếu thất bại trong bầu cử sẽ lập tức tiến hành biểu tình lật đổ chính quyền, thiết lập chính quyền thân phương Tây. Điều này đã được tiến hành ở Ba Lan, Gruzia trước đây khiến cho các tổng thống thân Nga phải lưu vong.

Trong khi đó, ở bên ngoài Mỹ, EU hà hơi tiếp sức bằng các động thái ủng hộ, gây sức ép ngoại giao, cô lập kinh tế, áp đặt biện pháp trừng phạt; rót tiền ủng hộ phe đối lập để tiến hành biểu tình, bạo loạn.

Với những kịch bản cách mạng màu quen thuộc trên đã khiến cho hậu quả các quốc gia như Belarus gánh chịu hậu quả nặng nề, tạo mâu thuẫn chia rẽ sâu sắc cho quốc gia này.

Đặt trong bối cảnh dịch Covid19 đang hoành hành ở Châu Âu khiến cho tình trạng khó khăn càng chồng chất với Belarus.

Nhìn vào Belarus mới thấy âm mưu thâm độc của Mỹ, phương Tây và tự hào cho một Việt Nam hòa bình như hiện nay./.

 

MÃI MÃI TỰ HÀO VỀ MÙA THU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

Đã 75 năm trôi qua, nhưng dấu ấn về những ngày quật khởi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 vẫn không phai mờ trong mỗi người dân đất Việt. Mùa thu năm ấy, dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc Việt Nam triệu người như một, nhất tề vùng lên tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám thắng lợi, đập tan ách thống trị của thực dân phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân.

Nhìn lại những năm tháng lịch sử huy hoàng để thấy được giá trị, tầm vóc và sức sống mãnh liệt của Cách mạng tháng Tám. Cách đây 75 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, theo lời kêu gọi của Người: “Giờ định vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, muôn người như một, nhất tề đứng lên giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân, trong đó khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội vào ngày 19/8 là một dấu mốc ngời sáng nhất của Cách mạng tháng Tám.

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) lịch sử, trước cuộc mít tinh của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Từ đó, ngày 2/9 là ngày Quốc khánh của nước ta.

Khái quát đầy đủ ý nghĩa lịch sử thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng, lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã mở ra một bước ngoặt lớn của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình.

Cách mạng tháng Tám thành công là kết quả của nhiều yếu tố. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta đã vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của đất nước một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo. Đảng có phương pháp, chiến lược, chiến thuật cách mạng phù hợp, linh hoạt, nhận thức được thời cơ, chủ động, kiên quyết chớp lấy thời cơ, tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Để làm nên Cách mạng tháng Tám thành công, nhân dân ta đã trải qua những chặng đường đấu tranh đầy gian khổ, hy sinh; là kết quả của 15 năm từng bước xây dựng lực lượng, hoàn thiện đường lối chiến lược, sách lược, nắm bắt thời cơ tiến hành cách mạng thông qua 3 cao trào cách mạng lớn (1930 - 1931, 1936 - 1939, 1939 - 1945).

75 năm qua, Cách mạng Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn, bước ngoặt với những thử thách, cam go; thời cơ, thuận lợi, khó khăn và thách thức đan xen; nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, nhân dân chung sức đồng lòng, chúng ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Hôm nay đây, được sống trong hào khí của những ngày Cách mạng tháng Tám, mỗi người dân lại bồi hồi, xúc động xen lẫn niềm tự hào. Ôn lại những năm tháng lịch sử vẻ vang, hào hùng của dân tộc, thế hệ hôm nay lại càng nhận thức đầy đủ trách nhiệm trong việc vận dụng và phát triển những bài học kinh nghiệm quý giá của Cách mạng tháng Tám, của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc 75 năm qua.

Những ngày này, trên khắp các ngả đường đều rợp bóng cờ hoa. Tại các địa phương trong toàn quốc đều hướng về ngày lễ trọng đại của đất nước với nhiều hoạt động ý nghĩa như: Phát động nhân dân treo cờ Đảng, cờ Tổ quốc, gặp mặt giao lưu với nhân chứng lịch sử, người có công với cách mạng, với Đảng, Nhà nước; các hoạt động thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”... nhằm tri ân những anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống, những thương, bệnh binh đã hy sinh một phần xương máu để có được hòa bình hôm nay. Qua đó, giáo dục lòng yêu nước, truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc, bồi dưỡng và phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần đại đoàn kết, niềm tự hào và ý chí tự lực, tự cường dân tộc cho thế hệ hôm nay; đồng thời củng cố và bồi đắp niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước./.

 


TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP - CỤ HỒ LÀ BẬC THẦY CỦA CÁC BẬC THẦY TRONG CÁCH SỬ DỤNG NGÔN TỪ, LÝ LẼ...
Cụ Hồ muôn vàn kính yêu của chúng ta là người thông kim, bác cổ, lĩnh hội được cả nền văn hoá phương Đông, phương Tây. Đúng như trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm từng tiên đoán trước đó mấy trăm năm:
"Đụn Sơn phân dải
Bò đát thất thanh
Thủy đáo Lam thành
Nam Đàn sinh thánh"
Trong bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, cụ Hồ đã sắc sảo, tinh tế với nhãn quan của một vị lãnh tụ thiên tài khi tuyên bố thẳng thừng trong Tuyên ngôn độc lập như xác lập một rào cản pháp lý, lý luận rất chặt chẽ, lấy gậy của người Pháp để đánh vào lưng của họ! Chúng ta danh chính ngôn thuận tuyên bố với thế giới về tính chính danh, chính nghĩa của dân tộc ta. Một đất nước xứng đáng được hưởng tự do, độc lập!
Thứ nhất, XÁC LẬP  QUYỀN TỰ QUYẾT CỦA DÂN TỘC, CHÚNG TA GIÀNH CHÍNH QUYỀN TỪ TAY NHẬT, THOÁT LI HOÀN TOÀN ĐỐI VỚI SỰ "BẢO HỘ" NGƯỜI PHÁP.
Cụ Hồ viết:
"Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.
Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa.
Bởi thế cho nên, chúng tôi, lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam".
Ấy là sau chiến tranh thế giới, thực dân Pháp âm mưu đòi lại mảnh đất thuộc địa mà chúng đã sở hữu 100 năm với cái mà họ cho là chứng lý: Triều đình nhà Nguyễn đã ký các Hiệp định bán đất cho Pháp. Tuyên ngôn độc lập 1945 đã hủy bỏ toàn bộ cái di sản lịch sử đó để thực hiện chủ quyền trong thời đại mới, thời đại dân chủ, tức dân Việt Nam mới là chủ sở hữu lãnh thổ Việt Nam, không phải là người Pháp hay bất kỳ ngoại bang nào.
Thứ hai, LẤY GẬY ÔNG ĐẬP LƯNG ÔNG.
Cụ Hồ đã rất khéo léo và tinh tế khi đưa hai bản Tuyên ngôn của người Pháp năm 1789 và người Mỹ năm 1776. Khẳng định chân lý, dân tộc đều bình đẳng. Người viết:
"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.
Người Pháp, Mỹ từng tuyên bố với thế giới và quốc dân của họ như thế, vậy họ còn có lý do gì để phản đối quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam? Chắc chắc há miệng mắc quai, tự mình vả vào mồm mình nếu nuốt lời. Vậy nên, mưu đồ của người Pháp là cướp nước ta lần thứ hai đã được Bác Hồ tiên đoán, vạch trần. Vậy nên, kể từ 2/9/1945, trên lãnh thổ Việt Nam chỉ có Chính phủ duy nhất có đầy đủ tính pháp lý, tính chính danh, chính nghĩa; các Chính phủ khác hoặc là bù nhìn hoặc là tay sai bán nước cho ngoại bang; những Chính phủ do ngoại bang lập nên sau này danh không chính, ngôn không thuận và bị nhân dân ta khai tử để có một Việt Nam hoà bình, thống nhất như hôm nay.
Kỷ niệm 75 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9. Chúng ta mãi mãi tự hào là con cháu Bác Hồ, tự hào về tầng tầng lớp lớp các thế hệ người Việt Nam đã "xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ" cho dân tộc ta! Trách nhiệm của mỗi người Việt Nam là bảo vệ chế độ, chính quyền nhân dân, độc lập, tự do; những thứ quý giá nhất mà dân tộc này đang được hưởng thụ từ thành quả của cha anh./.

  • Trung Kiên ST. 

GIÁ TRỊ CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM QUA CON MẮT CỦA CÁC NHÀ SỬ HỌC NƯỚC NGOÀI

75 năm qua, các sử gia, nhà nghiên cứu, nhà chính trị, quân sự và nhà báo nước ngoài đã viết hàng trăm cuốn sách về cuộc Cách mạng Tháng Tám của Việt Nam. Cho đến hôm nay, các tác phẩm này vẫn thu hút được sự quan tâm lớn của dư luận.

Cuốn sách “The Vietnamese Revolution of 1945 - Roosevelt, Ho Chi Minh and de Gaulle in a World at War” (Cách mạng Việt Nam 1945 - Roosevelt, Hồ Chí Minh và De Gaulle trong một thế giới chiến tranh) in năm 1991 của nhà sử học Na Uy S.Tonnesson.


Nhà sử học Na Uy S.Tonnesson trong cuốn “The Vietnamese Revolution of 1945-Roosevelt, Ho Chi Minh and de Gaulle in a World at War” (Cách mạng Việt Nam 1945-Roosevelt, Hồ Chí Minh và De Gaulle trong một thế giới chiến tranh) in năm 1991, cho rằng Hồ Chủ tịch đã thực hiện tổng tuyển cử, thành lập chính phủ hợp pháp dựa trên quyền tự do dân chủ: “Cuộc cách mạng ở Việt Nam năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, không chỉ có vậy, đó còn là một cuộc cách mạng chính trị chống lại nền quân chủ thối nát và là một cuộc cách mạng xã hội chống lại chủ đất và  những người thu thuế”. S.Tonnesson cũng cho rằng: “Cách mạng Việt Nam quan trọng và không phải chỉ thuần túy trong bối cảnh Việt Nam. Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của Việt Nam nằm trong những nguồn cảm hứng chủ yếu của một đường lối đấu tranh lớn khác sau chiến tranh, đó là quá trình phi thực dân hóa. Trong các cuộc cách mạng cộng sản, cách mạng của người Việt Nam nổi lên như là một trong những cuộc cách mạng có sức sống và làm đảo lộn nhiều nhất”.

Với nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu và sử gia người Pháp, thành công của cuộc Cách mạng Tháng Tám của dân tộc Việt Nam là sự kiện đặc biệt ấn tượng. Họ thực sự quan tâm và dành nhiều thời gian để nghiên cứu, tìm hiểu. Một trong những chuyên gia người Pháp được nhiều người biết tới là nhà sử học Alain Ruscio. Ông đã có hơn 15 tác phẩm viết về lịch sử Việt Nam, các cuộc kháng chiến, về Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam. Đã hơn 30 năm nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, càng đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu, nhà sử học Alain Ruscio càng thấy những điều hấp dẫn và cảm phục trước những thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong các cuộc kháng chiến, đặc biệt là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. “Chiến thắng năm 1945 của Việt Nam không chỉ là sự kiện gây bất ngờ, mà đó cũng là sự tất yếu mang tính lô-gíc trong lịch sử phong trào đấu tranh của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, Việt Nam là dân tộc đầu tiên trong số các dân tộc trên thế giới bị thực dân Pháp đô hộ đã thành công trong cuộc kháng chiến của mình. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã có ảnh hưởng rất lớn tới phong trào đấu tranh đòi độc lập của các nước thuộc địa trên thế giới lúc bấy giờ, nhất là các nước ở châu Phi. Khi đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có vai trò quan trọng, là người đầu tiên tuyên bố độc lập của một nước thuộc địa”.

Alain Ruscio còn phân tích, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa thực dân vẫn còn tồn tại, khi đó, 1/3 các dân tộc trên thế giới phải sống dưới sự chiếm đóng của thực dân Pháp, Anh và Bồ Đào Nha. Ông khẳng định: “Trong bối cảnh như vậy, Việt Nam là một tấm gương, là biểu tượng của quá trình đấu tranh giành độc lập; các dân tộc bị đô hộ cần phải lên tiếng”.


Nhà sử học nổi tiếng người Pháp Charles Fournieau thì cho rằng, cuộc Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam là cuộc cách mạng hết sức quan trọng không chỉ đối với Việt Nam. Đây là cuộc cách mạng thực sự, với sự đồng lòng, chung sức của cả dân tộc; là cuộc cách mạng lớn, của toàn dân tộc Việt Nam, đứng lên giành độc lập dân tộc. Theo Charles Fournieau, thực tế, cuộc cách mạng của Việt Nam đã có tác động lớn trên thế giới, nhất là đối với các nước thuộc địa khi đó. Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đánh dấu thời điểm quan trọng trong lịch sử Việt Nam, phản ánh cuộc kháng chiến chính nghĩa của dân tộc Việt Nam chống lại sự chiếm đóng của giặc ngoại xâm, đồng thời đánh dấu sự chuyển giao sang thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam. Không những vậy, thành công của cuộc Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam còn có ý nghĩa quốc tế, bởi lẽ đây là một trong những phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đầu tiên trên thế giới. Đối với phong trào cách mạng Đông Dương cũng như thế giới, Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng.

 

Thứ Tư, 19 tháng 8, 2020

“THẮT CHẶT TÌNH HỮU NGHỊ VỚI BẠN BÈ THẾ GIỚI BẰNG SỰ CHÂN THÀNH, KHIÊM TỐN, ĐẬM CHẤT NHÂN VĂN VÀ TÌNH NGƯỜI CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH”



Trong quá trình hoạt động cách mạng, Bác đã tận dụng những cơ hội hiếm hoi để đưa hình ảnh dân tộc Việt Nam đến với bạn bè quốc tế bằng tất cả sự chân thành, khiêm tốn, nhưng đậm chất nhân văn, dù có những lúc đất nước ở vào “thế ngàn cân treo sợi tóc”, sức ép thù trong, giặc ngoài, nhưng Bác vấn bình tĩnh để cùng Đảng chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua thác ghềnh; quá trình đi nhiều, tiếp xúc với nhiều chính khách, giới tri thức, học giả, Người đã chiếm trọn vẹn tình cảm của họ bởi cách ứng xử, chân thành, giản dị, nhưng rất đỗi thông minh, và đặc biệt là khả năng nói tiếng nước ngoài rất giỏi khiến những người giao tiếp với Bác đều rất khâm phục.
Nhưng có lẽ điểm nhấn chính là lối sống giản dị, thanh tao của Bác, bởi ở đó như toát lên cả một nét đẹp văn hóa, cũng đồng thời là bản lĩnh văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Người thanh cao, giản dị chứ không hề giản đơn, bởi suốt đời, Người không màng danh lợi, mà chỉ theo đuổi một mục tiêu cao cả: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”
Thanh tao ấy là cốt cách của bậc hiền triết Á Đông, đậm bản sắc Việt Nam và cũng lấp lánh tinh thần minh triết Hồ Chí Minh. Là người bạn lớn của nhân dân các dân tộc, Hồ Chí Minh đem tấm lòng chân thành và khiêm tốn, cả sự tinh tế đầy chất nhân văn và tình người để thắt chặt tình hữu nghị, đưa thế giới đến với Việt Nam và đem hình ảnh Việt Nam đến với bạn bè quốc tế.
Nhà nghiên cứu Ba Lan Hélène Tourmaire, trong tác phẩm “Trở thành người Bác như thế nào?” đã viết: “Ở con người Hồ Chí Minh, mỗi người đều thấy biểu hiện của nhân vật cao quý nhất, bình dị nhất và được kính yêu nhất trong gia đình mình… Hình ảnh của Hồ Chí Minh đã hoàn chỉnh với sự kết hợp đức khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học Marx, thiên tài cách mạng của Lênin và tình cảm của một người chủ gia tộc, tất cả bao bọc trong một dáng dấp rất tự nhiên”.
Cũng từ sự vĩ đại mà giản dị đó, tên gọi của Người đã trở thành huyền thoại, một cái tên khiến cho đồng bào yêu kính, bạn bè quốc tế cảm phục, ngưỡng mộ, Người là Hồ Chí Minh./.
  



VƯƠN KHƠI BÁM BIỂN CHÍNH LÀ GÓP PHẦN BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO CỦA TỔ QUỐC



 

Bất chấp lệnh đánh bắt cá của Trung Quốc, bất chấp những khó khăn, nguy hiểm, ngư dân Việt Nam vẫn kiên cường vươn khơi, bám biển, nhất là ở các ngư trường truyền thống Hoàng Sa, Trường Sa. Đó không chỉ vì lợi ích kinh tế mà còn để bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Hoàng Sa, Trường Sa - những ngư trường truyền thống của Việt Nam.
Với bờ biển dài hơn 3.260 km, vùng lãnh hải và đặc quyền kinh tế khoảng 1 triệu km2 với hơn 4.000 đảo lớn nhỏ trải dọc từ Bắc vào Nam, Việt Nam là một quốc gia biển lớn trong vùng Biển Đông, được đánh giá là một trong 10 trung tâm đa dạng sinh học biển và là một trong 20 vùng biển có nguồn lợi thủy sản giàu nhất toàn cầu.
Nằm ở trung tâm của Biển Đông, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không chỉ chiếm vị trí tiền tiêu trọng yếu, mà còn là những ngư trường truyền thống quan trọng của Việt Nam. Ngư dân Việt Nam bao đời nay đánh bắt trên các ngư trường này bởi những tài liệu chính sử còn lại đến nay chứng minh người Việt Nam đã có chủ quyền lịch sử từ rất lâu đời trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, hoàn toàn phù hợp với tập quán cũng như luật pháp quốc tế.
Trong việc giải quyết tranh chấp chủ quyền đối với lãnh thổ, pháp luật quốc tế đã hình thành nguyên tắc chiếm hữu thật sự và thực hiện quyền lực Nhà nước một cách thật sự, liên tục và hòa bình. Áp dụng nguyên tắc nói trên của pháp luật quốc tế vào trường hợp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, các bằng chứng lịch sử và căn cứ pháp lý đều cho thấy rằng Việt Nam đã thực hiện việc xác lập và thực thi chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách liên tục và hòa bình.
Với nguồn lợi thủy sản đa dạng, phong phú, hai ngư trường Hoàng Sa và Trường Sa đã góp phần đưa thủy sản trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Theo con số thống kê, nhờ các chính sách hỗ trợ ngư dân khai thác hải sản, đóng tàu đánh bắt xa bờ, sản lượng khai thác hải sản hàng năm tăng nhanh và liên tục, trong đó riêng năm 2019 đạt 3,76 triệu tấn. Đến nay, toàn quốc có gần 96,6 nghìn tàu cá có chiều dài từ 6m trở lên. Các doanh nghiệp chế biến thủy, hải sản tăng lên nhanh cả về số lượng và chất lượng sản phẩm.
Cũng chính vì vai trò của biển, đảo, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa, Nghị quyết Trung ương 8 khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã xác định rõ mục tiêu là đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh. Theo Nghị quyết, phấn đấu đến năm 2030, các ngành kinh tế thuần biển đóng góp khoảng 10% GDP cả nước; kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển chiếm 65-70% GDP cả nước.
“Tai mắt, phên dậu” trong tuyến đầu bảo vệ chủ quyền biển, đảo
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Đồng bằng là nhà, mà biển là cửa. Giữ nhà mà không giữ cửa có được không? Kẻ gian tế nó sẽ vào chỗ nào trước? Nó vào ở cửa trước. Vì vậy, ta phải giáo dục cho đồng bào biết bảo vệ bờ biển”. Bác còn căn dặn: “Một nhiệm vụ quan trọng của đồng bào miền biển là phải bảo vệ bờ biển. Đồng bào miền biển là người canh cửa cho Tổ quốc”.
Những trăn trở của Bác về chủ quyền biển đảo đã trở thành phương châm hành động đối với ngư dân Việt Nam. Thường xuyên đánh bắt hải sản ở ngư trường quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã trở thành nhiệm vụ quan trọng nhằm khẳng định chủ quyền của nước ta đối với hai quần đảo này. Ngoài ra, còn góp phần bảo vệ an ninh quốc phòng vùng biển nước ta.
Trên thực tế, mặc dù thường xuyên phải đối mặt với những khó khăn, nguy hiểm, thậm chí bị các tàu lớn phía Trung Quốc đuổi và đâm chìm, ngư dân miền Trung vẫn kiên cường vươn khơi, bám biển. Đối với họ, ra khơi bám biển không đơn thuần chỉ là vì kế sinh nhai, mà còn là nhiệm vụ bảo vệ, khẳng định chủ quyền trên hai quần đảo thiêng liêng Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam.
Không chỉ đóng vai trò quan trọng cho phát triển kinh tế, ngư dân trên biển còn đồng hành cùng với các lực lượng trên biển, bởi nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo không chỉ là của riêng lực lượng chuyên trách. Điều có ý nghĩa lâu dài bởi quan trọng là phải phát huy được vai trò của ngư dân, hỗ trợ cho ngư dân vươn khơi bám biển, phải làm sao để “mỗi tàu cá là một cột mốc sống, mỗi ngư dân là một chiến sĩ, các tổ, đội đoàn kết đánh bắt hải sản của ngư dân là những làng chài trên biển Việt Nam”.
Mỗi lần đi ra biển, với lá cờ đỏ sao vàng trên cabin tàu-biểu tượng thiêng liêng của dân tộc, các con tàu với những ngư dân đã trở thành “cột mốc chủ quyền sống” trên biển. Với họ, mọi thứ có thể thiếu, nhưng cờ Tổ quốc thì phải hiện diện trên nóc tàu như lời nhắc về trách nhiệm bảo vệ chủ quyền biển đảo”. Không ít ngư dân còn mặc trên mình những chiếc áo có hình bản đồ Việt Nam cùng dòng chữ “Vì Hoàng Sa thân yêu”, “Vì Trường Sa thân yêu”. Họ chính là tai mắt, là phên dậu trong tuyến đầu bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Ngay cả trong những lần Trung Quốc ban hành lệnh cấm đánh bắt cá phi pháp ở Biển Đông, các ngư dân cũng vẫn tiếp tục vươn khơi bám biển, giữ ngư trường, giữ biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Ai cũng hiểu rằng âm mưu của Trung Quốc là gây sức ép về tâm lý với ngư dân các nước để cứ tháng 5 là không vào Biển Đông khai thác hải sản. Tuân theo lệnh đó tức là mình đã từ bỏ những ngư trường truyền thống của mình, tạo cho Trung Quốc chiếm ưu thế có lợi về mặt pháp lý trên Biển Đông.
Hậu thuẫn cho ngư dân là các chính sách của Chính phủ như tăng cường đầu tư và quản lý cơ sở hạ tầng, dịch vụ hậu cần nghề cá; thúc đẩy hoạt động của chuỗi liên kết khai thác, thu mua, chế biến thủy sản; triển khai ứng dụng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến trong khai thác, bảo quản và chế biến thủy sản; trang bị cho tàu cá của ngư dân thiết bị thông tin liên lạc để có thể đánh bắt dài ngày, xa bờ…
Các cơ quan chấp pháp Việt Nam (cảnh sát biển, hải quân...) cũng luôn trợ giúp và can thiệp kịp thời khi ngư dân bị tàu chấp pháp nước ngoài xua đuổi hoặc bắt giữ ngay trên ngư trường truyền thống mà vùng biển này theo luật pháp quốc tế hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.





VẮC XIN CỦA VIỆT NAM ĐÁP ỨNG TỐT, CHUẨN BỊ THỬ NGHIỆM TRÊN NGƯỜI


Không để người anh em Bolshevik phải giải cứu thế giới một mình, mới đây công ty TNHH Vắc xin và Sinh phẩm số 1 thuộc Bộ Y Tế đã cho biết: Vắc xin của Việt Nam đã sẵn sàng thử nghiệm trên người và sản xuất hàng trăm triệu liều mỗi năm.

Các nhà khoa học của Việt Nam đã miệt mài nghiên cứu và thử nghiệm, cuối cùng cũng cho được kết quả khả quan khi kháng nguyên của vắc xin đáp ứng được miễn dịch. Đã thế vắc-xin còn an toàn, hiệu quả và phòng được Virus Corona.

Nga có đầu tiên nhưng việc ta tự sản xuất được vắc xin và không phụ thuộc vào ai đó mới là giá trị. Chỉ còn 1 bước nữa thôi là Việt Nam sẻ nổ phát súng vang dội khắp địa cầu và sẻ cùng người Nga sắm vai giải cứu thế giới.

Chúc đội ngũ nghiên cứu, các nhà khoa học tài hoa của dân tộc mạnh khỏe và sớm thành công. Cả đất nước rất nóng lòng chờ mong kết quả tốt đẹp.
Hải Đăng st

"CÁC CHÚ Ở TỈNH ỦY MÀ CŨNG LÀM ĐƯỢC GẠO À?..."

 Bác Hồ về thăm Thái Bình lần cuối trước khi mất. Bác dặn dò công việc xong Bác về, Bí thư Tỉnh ủy mang quà ra tặng Bác gọi là "quà đặc sản quê hương" nhưng có hai túi gạo, mấy cân gạo tẻ, mấy cân gạo nếp. Bác gặp bảo:"gạo này ngon lắm đấy!" Thế là Bác lấy tiền Bác ra trả đúng mấy cân gạo thời bao cấp. Đồng chí Bí thư Tỉnh ủy không hiểu ý Bác, mà ngăn tay Bác lại và nói: "sao Bác lại làm thế... Quà của Tỉnh ủy biếu Bác là bao, cốt là tấm lòng của anh em, Bác nhận cho anh em vui thôi". (Nếu là chúng ta có lẽ chúng ta cũng nói như vậy,ai cũng nghĩ chăng là đúng).

Đến lúc Bác nói lại ta mới giật mình: "Các chú ở Tỉnh ủy mà cũng làm được gạo à?... Bác tưởng các chú chỉ ăn gạo của dân thôi chứ! (ta cứ mở miệng quen đi là: Quà của Tỉnh ủy, Huyện ủy, Thị ủy...). Bác trả tiền đâu phải là trả cho các chú, mà Bác trả cho dân đấy! Nếu các chú không nhận tiền cho Bác mà cứ giục Bác mang gạo về thì có khác nào bảo Bác "tham ô".
Ta học được Bác bao điều từ chỉ một câu nói, một cuộc đối thoại như vậy thôi, mà lại quá sâu sắc và thiết thực.

Xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang cho Tổng khởi nghĩa thành công

Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, Đảng ta đã huy động lực lượng vũ trang (LLVT), kết hợp với lực lượng quần chúng tiến hành khởi nghĩa, từ khởi nghĩa từng phần ở các địa phương, tiến lên tổng khởi nghĩa trên phạm vi toàn quốc.

Việc xây dựng, phát triển và phát huy vai trò của LLVT, gồm các đơn vị Việt Nam Giải phóng quân cùng các đội du kích, tự vệ chiến đấu đã trở thành một trong những lực lượng quân sự quan trọng, cùng toàn dân tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thắng lợi trong cả nước.
Căn cứ vào điều kiện đất nước ta bị thực dân Pháp áp bức bóc lột nặng nề, Đảng ta mới ra đời đã đề ra nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn đấu tranh chính trị là phải “tổ chức đội tự vệ của công nông”. Theo chủ trương đó, trong cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô viết Nghệ-Tĩnh, nhiều đội tự vệ công nông (Tự vệ đỏ) lần lượt ra đời ở cả ba miền Bắc-Trung-Nam. Đại hội lần thứ nhất của Đảng (3-1935) đã ra nghị quyết về Đội tự vệ, xác định những nguyên tắc xây dựng và hoạt động của đội tự vệ, cơ sở đầu tiên để xây dựng LLVT cách mạng của Đảng.
Vào những năm trực tiếp chuẩn bị khởi nghĩa, giành chính quyền, một số đội du kích, tự vệ chiến đấu lần lượt hình thành ở những nơi có phong trào cách mạng, kể cả miền núi, trung du và đồng bằng. Trên cơ sở quân du kích hình thành trong cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (9-1940), Đảng quyết định thành lập Đội du kích Bắc Sơn (2-1941). Tại các tỉnh Nam Kỳ, quân du kích ra đời, phát triển trong quá trình chuẩn bị và tiến hành khởi nghĩa Nam Kỳ (11-1940). Đó là những đội du kích tập trung làm nòng cốt cho nhân dân xây dựng và chiến đấu bảo vệ các khu căn cứ, đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích tại các huyện, xã.
Đội du kích Bắc Sơn đã qua rèn luyện, thử thách trong cuộc đấu tranh cách mạng, Đảng tăng cường cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, chấn chỉnh tổ chức và đổi tên thành Trung đội Cứu quốc quân 1 (sau Hội nghị Trung ương, sau đó lần lượt tổ chức Trung đội Cứu quốc quân 2 (9-1941) và Trung đội Cứu quốc quân 3 (2-1944). Phương châm xây dựng, hoạt động của Cứu quốc quân là vừa chiến đấu để bảo vệ, vừa mở rộng, phát triển và củng cố khu căn cứ.
Trên cơ sở Cứu quốc quân và các đội du kích, tự vệ chiến đấu phát triển ở các chiến khu Cao-Bắc-Lạng, Thái-Hà-Tuyên, để có một lực lượng chủ lực làm nòng cốt thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ hơn, ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, theo chỉ thị của đồng chí Hồ Chí Minh. Với việc thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã đánh dấu bước phát triển về tổ chức của LLVT cách mạng, gồm ba thứ quân bước đầu hình thành: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là đội quân chủ lực; đội du kích tập trung của các tỉnh, huyện và lực lượng tự vệ cứu quốc, tự vệ chiến đấu ở khắp các làng xã.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), cùng với sự phát triển của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Cứu quốc quân, hàng loạt đội du kích, tự vệ chiến đấu tiếp tục hình thành ở các chiến khu, các căn cứ cách mạng trong cả nước. Điển hình là Đội du kích Ba Tơ hình thành trong cuộc khởi nghĩa Ba Tơ (3-1945), Trung đội giải phóng quân ra đời ở chiến khu Quang Trung và Du kích cách mạng quân hình thành ở chiến khu Trần Hưng Đạo. Các đội vũ trang này ngày càng phát triển trong cao trào chống Nhật, cứu nước.
Để chuẩn bị một LLVT quy mô tổ chức lớn đón thời cơ chuyển lên Tổng khởi nghĩa, Đảng gấp rút phát triển đội quân chủ lực, thống nhất Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân với Cứu quốc quân và các đơn vị vũ trang cách mạng thành Việt Nam Giải phóng quân (15-5-1945). Sự ra đời của Việt Nam Giải phóng quân đánh dấu bước phát triển về quy mô tổ chức của LLVT cách mạng của Đảng, gồm ba thứ quân cơ bản được hình thành, trong đó các đơn vị Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân hợp thành bộ đội chủ lực giải phóng quân; các đơn vị du kích tập trung của các tỉnh, huyện chuyển thành giải phóng quân địa phương và các đội du kích, tự vệ tổ chức ở các căn cứ vũ trang, từ miền Bắc vào miền Trung đến tận miền Nam.
Thực hiện mệnh lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương Đảng, Tổng bộ Việt Minh và đồng chí Hồ Chí Minh, Việt Nam Giải phóng quân cùng các đội du kích, tự vệ chiến đấu trở thành lực lượng quân sự quan trọng, cùng toàn dân tiến hành khởi nghĩa. Từ ngày 14 đến 18-8-1945, LLVT hỗ trợ nhân dân nhiều địa phương tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền ở các xã, huyện, tiến lên giải phóng thị xã. Từ ngày 16 đến 20-8, các đơn vị Việt Nam Giải phóng quân tiến đánh giải phóng các thị xã (nay là thành phố) Thái Nguyên, Tuyên Quang. Đặc biệt, thắng lợi của khởi nghĩa ở các thành phố lớn Hà Nội (19-8), Huế (23-8), Sài Gòn (25-8) đã đập tan sức kháng cự của quân Nhật và bọn tay sai, góp phần tác động mạnh tới các địa phương cả nước khởi nghĩa giành chính quyền. Đến ngày 28-8-1945, cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước cơ bản hoàn thành.
Thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 khẳng định, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm đề ra đường lối đúng đắn và chỉ đạo xây dựng, phát triển LLVT với quy mô tổ chức, mở đầu từ các đội tự vệ công nông, đội du kích, tự vệ chiến đấu, Cứu quốc quân đến đội quân chủ lực, tiến tới hình thành LLVT ba thứ quân. Đồng thời, tổ chức, sử dụng hợp lý và phát huy hiệu quả vai trò nòng cốt của LLVT, cùng toàn dân chuyển từ khởi nghĩa từng phần giành chính quyền ở các địa phương, phát triển thành cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, giành chính quyền trên phạm vi toàn quốc.

Cách mạng Tháng Tám và ý nghĩa của độc lập, tự do

 Đầu tiên cần phải khẳng định, thắng lợi của CMT8 năm 1945 đã mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử của dân tộc ta, đất nước ta. Thắng lợi này đã chính thức chấm dứt ách đô hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp đối với nước ta, mở ra kỷ nguyên độc lập, lần đầu tiên tên nước Việt Nam có trên bản đồ thế giới, với tư cách và vị thế của một quốc gia-dân tộc độc lập, có chủ quyền. Về ý nghĩa vĩ đại của CMT8, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng: “Lịch sử dân tộc ta có nhiều thời kỳ rất vẻ vang. Nhưng trước ngày CMT8, dân tộc ta đã phải trải qua gần một thế kỷ vô cùng tủi nhục. Trên địa đồ thế giới, tên nước ta đã bị xóa nhòa dưới bốn chữ “Đông Dương thuộc Pháp”. Thực dân Pháp gọi đồng bào ta là lũ Annamít dơ bẩn. Thiên hạ gọi chúng ta là vong quốc nô... CMT8 thành công. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi. Nhân dân ta tự làm chủ vận mạng của mình. Tên tuổi của nước ta lại lừng lẫy khắp năm châu, bốn biển”. CMT8 cũng trở thành nguồn động viên to lớn để nhiều dân tộc thuộc địa đứng lên giành độc lập.


Hướng tới một "Việt Nam số"

 Phát biểu chỉ đạo tại buổi Lễ khai trương Hệ thống Thông tin báo cáo quốc gia, Trung tâm Thông tin, chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đánh giá, sự kiện khai trương có ý nghĩa lớn khi được tổ chức đúng vào dịp Văn phòng Chính phủ kỷ niệm 75 năm Ngày truyền thống, Đại hội thi đua yêu nước; cả nước thi đua lập thành tích chào mừng 75 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9. Qua ý kiến của các đại biểu, của các đối tượng thụ hưởng dịch vụ công, Thủ tướng biểu dương sự nỗ lực của Văn phòng Chính phủ, trong đó có vai trò quan trọng của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng và các bộ, cơ quan, đơn vị liên quan đã tích cực phối hợp triển khai, đưa vào khai trương Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia, Trung tâm Thông tin, chỉ đạo điều hành.

Thủ tướng nêu rõ, xây dựng và phát triển Chính phủ số là xu thế tất yếu, nhằm nâng cao tính công khai, minh bạch của Chính phủ, đẩy lùi nạn tham nhũng, lãng phí; góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, năng suất lao động xã hội và là con đường đúng đắn để phát triển một đất nước Việt Nam hùng cường và thịnh vượng. “Do đó, chúng ta cần tiếp tục khẳng định một cách mạnh mẽ rằng năm 2020 là năm chuyển đổi số quốc gia, là năm khởi động tiến trình hướng tới một "Việt Nam số"", Thủ tướng nhấn mạnh.

Nhân dịp này, Thủ tướng đề nghị cần tiếp tục đổi mới trong triển khai xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số, gắn cải cách quản trị công với chuyển đổi số trong hoạt động của cơ quan Nhà nước. Thông tin dữ liệu phải thống nhất, theo tiêu chuẩn, hoạt động thông suốt, đem lại hiệu quả cao nhất. Thúc đẩy mạnh mẽ cán bộ, công chức làm việc trên môi trường mạng; đào tạo, nâng cao năng lực công nghệ thông tin, trang bị kỹ năng số cần thiết để có những thay đổi nhanh chóng; ngày càng thích ứng với môi trường làm việc trên mạng. “Trong thời gian tới, công chức, viên chức Nhà nước phải là những người tinh thông nghiệp vụ và giỏi về công nghệ”, Thủ tướng nhấn mạnh.

Thủ tướng cho rằng, trong tương lai không xa, chúng ta phải hướng tới, xây dựng hệ thống thông tin chia sẻ liên Chính phủ trên một số lĩnh vực với các nước trên thế giới; đặc biệt đối với các nước Cộng đồng ASEAN. Phát triển Chính phủ điện tử có kết nối, liên thông, tương tác quốc tế, được xem là công cụ quan trọng giúp tăng cường ngoại giao và thúc đẩy hợp tác, hội nhập quốc tế.

Đẩy mạnh số hóa liên thông, minh bạch thông tin, dữ liệu

Về Cổng DVCQG, hoàn thành việc tích hợp các dịch vụ công thiết yếu như xuất nhập khẩu, đất đai, xây dựng, khoáng sản, thuế, xử lý vi phạm hành chính, viện phí, học phí… Tiếp tục nâng cấp, hoàn thiện các tính năng của Cổng để bảo đảm phục vụ người dân, doanh nghiệp ngày càng tốt hơn. Mục tiêu là phải hoàn thành chỉ tiêu 30% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 trong năm 2020.

Thủ tướng đề nghị các công ty công nghệ thông tin, đặc biệt là các Tập đoàn VNPT, Viettel cần phải tiếp tục cố gắng vươn lên, đồng hành, góp phần giúp các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước các cấp trong xây dựng Chính phủ số, cung cấp những giải pháp kỹ thuật tối ưu, an toàn, an ninh nhất, những hệ thống thông tin của người Việt, phục vụ người Việt và bảo đảm tính tự chủ của các hệ thống.

Thủ tướng yêu cầu các bộ, các ngành, các địa phương không được cát cứ thông tin, không được làm đẹp số liệu để lấy thành tích. Thông tin dữ liệu cần chính xác, tin cậy, minh bạch, thống nhất và cần đẩy mạnh số hóa liên thông, hướng tới xây dựng Chính phủ số liêm chính, minh bạch, hành động, phục vụ người dân và doanh nghiệp. Các bộ, các cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ phải chuẩn hóa, điện tử hóa hơn 200 chế độ báo cáo gửi Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ, Quốc hội để tích hợp với Hệ thống thông tin báo cáo Chính phủ, hoàn thành chuẩn hóa, số hóa kiểu mẫu kết nối tích hợp các chỉ tiêu kinh tế - xã hội lên Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia.

Thủ tướng giao Văn phòng Chính phủ chủ trì phối hợp với các bộ, các ngành, các địa phương lựa chọn các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, các chỉ tiêu phục vụ chỉ đạo điều hành hằng ngày của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cung cấp trên Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia, Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành, phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông, Ban Cơ yếu Chính phủ trong việc bảo đảm an ninh, an toàn hệ thống, không để xảy ra lộ lọt thông tin, dữ liệu...

Thứ Ba, 18 tháng 8, 2020

Những ngày Cách mạng tháng 8 sục sôi

 

Trước sức tấn công mạnh mẽ của lực lượng đồng minh, dẫn đầu là Hồng quân Liên Xô trên mặt trận Triều Tiên, Mông Cổ, Trung Quốc và quân đội Mỹ trên mặt trận Thái Bình Dương, ngày 14-8-1945, Nhật hoàng đã phải tuyên bố đ.ầu hàng không điều kiện các nước Đồng minh.

CTTG lần thứ 2 kết thúc – ch.iến thắng của Hồng quân Liên Xô và các lực lượng yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên toàn thế giới trước chủ nghĩa ph.át x.ít đã mở ra con đường giải phóng các dân tộc bị áp bức và tạo điều kiện cho hàng loạt nước XHCN ra đời. Từ đó dẫn đến hệ thống th.uộc đ.ịa của chủ nghĩa đ.ế q.uốc bị lung l.ay, từng bước sụp đổ.

Sau khi Đại hội Quốc dân vừa bế mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ngay lập tức gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên kh.ởi nghĩa giành chính quyền: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta… chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”.

Sáng ngày 19/8/1945, theo lời kêu gọi và thực hiện Chỉ thị của Việt Minh, cả Hà Nội vùng dậy dưới rừng cờ đỏ sao vàng với hàng nghìn nông dân, công nhân, dân nghèo, bằng những vũ khí thô sơ, cùng với hàng vạn quần chúng nhân dân ở khu vực ngoại thành kéo vào, xuống đường tiến thẳng về trung tâm Nhà hát thành phố. Cuộc mít tinh biến thành cuộc biểu tình vũ trang tiến vào chiếm Phủ Khâm sứ, trại lính bảo an và các cơ sở của chính phủ bù nhìn.

Tại Huế, ngày 17/8/1945, Chính phủ Trần Trọng Kim tổ chức mít tinh ra mắt quốc dân nhưng cuộc mít tinh biến thành cuộc tuần hành của quần chúng nhân dân ủng hộ Việt Minh.

Ngày 22/8/1945, Việt Minh gửi công điện yêu cầu Bảo Đại thoái vị, vì chính quyền đã giành về tay nhân dân, Bảo Đại tuyên bố chấp nhận thoái vị, từ bỏ ngai vàng và trở thành công dân Vĩnh Thụy. Ngày 25/8, hàng ngàn người tụ tập trước cửa Ngọ Môn để chứng kiến lễ thoái vị của Bảo Đại và bàn giao ấn kiếm cho Việt Minh.

Tại miền Nam, ngày 25/8/1945, Việt Minh mà Thanh niên Tiền phong làm nòng cốt tổ chức biểu tình và giành chính quyền tại Sài Gòn (nơi chịu sự cai trị trực tiếp của Nhật).

Chỉ trong vòng 12 ngày, từ ngày 14 đến ngày 25/8/1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng và ngọn cờ của Việt Minh, hơn 20 triệu nhân dân ta từ Bắc đến Nam đã tiến hành cuộc Tổng kh.ởi nghĩa cách m.ạng tháng Tám giành chính quyền. Thắng lợi của cuộc Tổng kh.ởi nghĩa Tháng 8/1945 đã phá tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp hơn 80 năm và ách thống trị của phát xít Nhật gần 5 năm, lật nhào ngai vàng ph.ong kiến tồn tại hơn 1000 năm trên đất nước ta, và mở ra một trang sử mới trong lịch sử dân tộc. Đất nước ta bước vào kỉ nguyên độc lập, tự do, nhân dân lao động làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh dân tộc./.

Bg200801


 

NÂNG CAO NHẬN THỨC, KHẢ NĂNG “ĐỀ KHÁNG” TRƯỚC DỊCH BỆNH COVID-19

 


Nâng cao nhận thức, khả năng “tự miễn dịch” cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân là nội dung quan trọng trong đấu tranh phòng chống thông tin giả, tin đồn thất thiệt về tình hình dịch bệnh Covid-19. Để làm tốt điều này, đòi hỏi sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và sự chung sức, đồng lòng của Nhân dân. Trước hết, cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung sau:

Thứ nhất, mỗi cán bộ, đảng viên và người dân phải thể hiện trách nhiệm với chính bản thân mình và cộng đồng, bình tĩnh, cảnh giác khi tiếp nhận thông tin, tránh vô tình tiếp tay cho kẻ xấu, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội lan truyền những tin giả, thông tin bịa đặt trên không gian mạng. Tăng cường chia sẻ, lan tỏa những thông tin tích cực về gương người tốt, việc tốt, điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực, nhất là những việc làm, hành động đẹp trong phòng chống dịch bệnh, tạo hiệu ứng tích cực trong xã hội.

Thứ hai, đa dạng hóa nội dung, phương thức, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền. Chủ động, kịp thời cung cấp đầy đủ, chính xác những thông tin chính thống về diễn biến dịch bệnh, các biện pháp phòng chống và kết quả đạt được để cán bộ, đảng viên và mọi người dân có cơ sở phân biệt và nhận diện rõ những thông tin giả mạo, tin đồn thất thiệt ngăn chặn tác động tiêu cực của nó trong cộng đồng. Phát huy vai trò của các cơ quan báo chí, truyền thông, nhất là hệ thống truyền thanh cơ sở; tận dụng tốt những tiện ích của internet, mạng xã hội để kết nối thông tin đến mọi người dân, đảm bảo thông tin chính thống giữ vững vai trò chủ đạo, định hướng dư luận.

Thứ ba, tăng cường công tác quản lý Nhà nước trên lĩnh vực thông tin, truyền thông; tập trung hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Thực hiện các biện pháp cụ thể để quản lý, giám sát, xử lý triệt để thông tin giả, tin đồn thất thiệt. Phối hợp tốt với các nhà cung cấp thông tin, dịch vụ nước ngoài để ngăn chặn, xử lý các hành vi phạm pháp luật trên lãnh thổ Việt Nam.

Thứ tư, chủ động, kịp thời đấu tranh, phản bác những bài viết có nội dung vu khống, thổi phồng, bóp méo, xuyên tạc sự thật, nhất là trên không gian mạng. Xử lý nghiêm đối với những cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và người dân đăng tải, phát tán những thông tin xuyên tạc, bịa đặt. Kịp thời phát hiện, ngăn chặn và có biện pháp xử lý thích đáng đối với những phần tử cơ hội, bất mãn chính trị lợi dụng tình hình dịch bệnh đưa ra thông tin giả, tin đồn thất thiệt gây hoang mạng dư luận, ảnh hướng tới sự nghiệp chung của đất nước.

Nêu cao tinh thần cảnh giác, đấu tranh phản bác, ngăn chặn các thông tin giả mạo, bịa đặt là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên. Đây cũng là yếu tố góp phần tạo nên sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong nhân dân để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân quyết tâm đẩy lùi dịch bệnh, đưa nước ta vượt qua giai đoạn đầy khó khăn, thử thách này.

 

 

"Như cây một cội, như con một nhà"

 

Hôm nay (19-8), kỷ niệm 75 năm Ngày truyền thống Công an nhân dân (CAND) Việt Nam. 75 năm qua, lực lượng CAND không ngừng trưởng thành và lớn mạnh, xứng đáng là "thanh bảo kiếm" bảo vệ Đảng, Nhà nước, Tổ quốc và nhân dân.

Cùng với Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam, CAND là LLVT cách mạng của Đảng, Nhà nước và nhân dân, là lực lượng trọng yếu, nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN). Cũng bởi lẽ đó, mối quan hệ đoàn kết, gắn bó, phối hợp công tác giữa hai lực lượng là yêu cầu tất yếu khách quan.

QĐND Việt Nam "từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”; “Công an của ta là công an của nhân dân, vì dân mà phục vụ và dựa vào dân mà làm việc...”. Đó là những quan điểm cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh đối với hai lực lượng trọng yếu, đặc biệt tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Người cũng nhiều lần căn dặn hai lực lượng quân đội và công an về sự đoàn kết, phối hợp công tác: “Công an và quân đội là hai cánh tay của nhân dân, của Đảng, của Chính phủ, của vô sản chuyên chính. Vì vậy, càng phải đoàn kết chặt chẽ với nhau, giúp đỡ lẫn nhau...”. QĐND, CAND “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, phục vụ”. Đó là nguồn cội, cũng là sợi chỉ hồng sâu kết, gắn bó giữa hai lực lượng.

Thực hiện lời dạy của Người, từ khi thành lập đến nay, trải qua các giai đoạn cách mạng, trong bất luận hoàn cảnh nào, dù khó khăn, gian khổ đến đâu, QĐND và CAND luôn kề vai, sát cánh, đoàn kết, hiệp đồng chiến đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Trong thời chiến cũng như thời bình, tuy mỗi lực lượng có nhiệm vụ cụ thể khác nhau, nhưng đều chung một mục đích thiêng liêng là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân. Tình đoàn kết, gắn bó ấy đã trở thành truyền thống, "như cây một cội, như con một nhà", cũng là cội nguồn sức mạnh đi đến mọi thắng lợi. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, cơ chế phối hợp giữa hai lực lượng ngày càng toàn diện, đi vào chiều sâu và được cụ thể hóa trong Luật CAND, Luật Quốc phòng và các nghị định của Chính phủ. Mới nhất là Nghị định số 03/2019/NĐ-CP về phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và nhiệm vụ quốc phòng.

Bảo vệ an ninh quốc gia là nhiệm vụ của toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó QĐND và CAND là lực lượng nòng cốt. Trong bối cảnh hiện nay, các thế lực thù địch không ngừng chống phá cách mạng Việt Nam với những thủ đoạn, phương thức phi vũ trang, thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong... càng đòi hỏi QĐND và CAND phải kề vai sát cánh, đồng tâm hiệp lực hơn nữa. Sự phối hợp giữa hai lực lượng phải được nâng lên tầm cao mới, tạo ra được sức mạnh tổng hợp đánh bại mọi kẻ thù xâm lược; ngăn chặn, hóa giải các mối đe dọa an ninh quốc gia từ bên trong cũng như bên ngoài. Nâng cao hiệu quả phối hợp trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ và phát huy vai trò, thế mạnh, sở trường của từng lực lượng.

Trong đó, hai lực lượng cần đặc biệt chú trọng phối hợp xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn kết chặt chẽ với xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc; xây dựng lực lượng QĐND và CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thực sự là lực lượng trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Việc phối hợp giữa hai lực lượng trong các mặt công tác là đòi hỏi tất yếu khách quan, hoàn toàn phù hợp và không gì có thể tách rời, chia rẽ. Bởi vì, cả hai lực lượng cùng chung cội nguồn “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, phục vụ”./.