Thứ Tư, 1 tháng 6, 2022

 

Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách nhận dạng, phân biệt giữa phong cách lắng nghe, học hỏi nhân dân với các biểu hiện mị dân, “theo đuôi quần chúng” - ý nghĩa đối với công tác dân vận hiện nay

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đưa ra những chỉ dẫn sâu sắc về nội dung của phong cách, mà còn là tấm gương sáng về thực hành phong cách lắng nghe, học hỏi nhân dân, nhưng không “theo đuôi” quần chúng. Hiện nay, khi chủ nghĩa dân túy với việc mị dân là đặc điểm nổi bật đang trỗi dậy mạnh mẽ trên thế giới và một số biểu hiện bắt đầu manh nha ở Việt Nam, thì việc vận dụng sáng tạo những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào công tác dân vận đã và đang trở thành một yêu cầu cấp thiết.

Sự khác biệt giữa phong cách lắng nghe, học hỏi nhân dân với các biểu hiện “theo đuôi quần chúng”

Lịch sử ở bất cứ đâu và thời đại nào cũng đều khẳng định chân lý: Nếu chính quyền biết lắng nghe dân để “an dân” thì quốc gia yên bình, thịnh trị; và ngược lại, nếu chính quyền xa dân, khinh miệt dân, o ép dân thì quốc gia ấy sẽ suy vong. Là người xây dựng chế độ dân chủ mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi lắng nghe dân, học hỏi dân là nguyên tắc nhận thức và hành động tiên quyết của người cán bộ, đảng viên.

Để đội ngũ cán bộ, đảng viên quyết tâm thực hành nguyên tắc đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luận giải sự cần thiết phải lắng nghe dân bằng việc phân tích đặc điểm của các thiết chế chính trị ở Việt Nam. Về phía Đảng, Người nhấn mạnh, Đảng ta từ nhân dân mà ra và vì nhân dân mà phấn đấu. Ngay từ khi ra đời, Đảng đã mang trong mình yếu tố dân tộc và “bắt rễ” sâu trong lòng dân tộc. Khi Đảng cầm quyền thì không có nghĩa là có quyền “sai khiến quần chúng mà phải làm đày tớ cho quần chúng”, phụng sự nhân dân. Muốn phụng sự cho tốt thì tất yếu phải lắng nghe để biết rõ, hiểu sâu ý nguyện của nhân dân. Về phía Nhà nước, thì “nước ta là nước dân chủ”; trong Nhà nước đó, dân là chủ và có quyền làm chủ, còn đội ngũ cán bộ, đảng viên là “công bộc” của nhân dân và phải có trách nhiệm lắng nghe tâm tư, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của nhân dân để phục vụ cho tốt. Chủ tịch Hồ Chí Minh rút ra kết luận: “Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi”(1) 

Người cũng chỉ ra lợi ích của việc lắng nghe nhân dân: Khi lắng nghe nhân dân thì Đảng mới có khả năng đề ra được chủ trương, đường lối, chính sách hợp lòng dân. Đảng lãnh đạo trước hết bằng việc đề ra chủ trương, đường lối, nhưng chủ trương, đường lối ấy không thể được hoạch định một cách chủ quan, võ đoán, mà phải nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích hợp pháp và chính đáng của nhân dân. Nói cách khác, chủ trương, đường lối phải được “chưng cất” từ ý dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải lắng nghe nhân dân còn là bởi “tai mắt” của nhân dân rất nhiều; nhân dân “biết nhiều việc mà các cấp lãnh đạo không biết”. Ngay trong công tác cán bộ - nhiệm vụ then chốt, công việc “gốc” của Đảng, muốn biết cán bộ nào tốt, cán bộ nào xấu thì cách tốt nhất là hỏi dân. Do đó, phải lắng nghe dân chúng, “dựa theo ý kiến họ mà cất nhắc cán bộ, nhất định không xảy ra việc thiên tư, thiên vị, nhất định hợp lý và công bằng”(2). Người nhấn mạnh, cán bộ muốn phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm thì “điều quan trọng nhất là để cho dân nói”; cán bộ muốn hoàn thành tốt công việc thì “việc gì cũng bàn với dân, dân sẽ có ý kiến hay”. Từ tầm quan trọng của việc lắng nghe dân, Người đúc kết: “Đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng”(3). Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “lắng nghe dân” là một phẩm chất căn cốt của đạo đức cách mạng và là đặc điểm trọng yếu trong phong cách làm việc của người cán bộ. 

Với tinh thần “xây đi đôi với chống”, Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo một loạt căn bệnh đã cản trở người cán bộ lắng nghe nhân dân, như thói kiêu ngạo, quan liêu, công thần. Người nhấn mạnh, muốn rèn luyện phong cách gần gũi quần chúng và lắng nghe nhân dân thì phải luôn đề phòng các căn bệnh nguy hiểm đó; muốn nghe được ý kiến của nhân dân thì người cán bộ phải thực sự cầu thị, “phải khéo khơi cho họ nói” và “nếu quần chúng nói mười điều mà chỉ có một vài điều xây dựng, như thế vẫn là quý báu và bổ ích”. Những điều dân nói đúng thì cán bộ nhất thiết phải làm theo; còn với những điều chưa đúng thì qua đó, cán bộ cũng biết được dân chúng nghĩ gì để có cách giải thích cho họ hiểu, để có thể tuyên truyền, vận động, lãnh đạo phù hợp và có hiệu quả. Những cảnh báo của Người vẫn còn vẹn nguyên giá trị thời sự trong bối cảnh Đảng ta đang tăng cường, đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới.

Rất tin tưởng quần chúng nhân dân nên Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ không chỉ biết lắng nghe, mà còn phải học hỏi quần chúng nhân dân. Theo Người, sự nghiệp cách mạng luôn mang tính sáng tạo nên tri thức, kinh nghiệm không bao giờ đủ; cán bộ muốn tiến bộ mãi, muốn hoàn thành nhiệm vụ thì phải không ngừng học tập. Họ phải vừa học trong sách vở, vừa học trong công tác; nhưng quan trọng nhất là, “học hỏi quần chúng”. Lý do là bởi dân chúng rất đông đảo, “rất khôn khéo”, “biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”. Người khẳng định: “Không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân. Có biết làm học trò dân, mới làm được thầy học dân(4).

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Muốn “học hỏi dân chúng, thì ắt phải có nhiệt thành, có quyết tâm, phải khiêm tốn, phải chịu khó”(5), bởi nếu tỏ ra chiếu lệ, hờ hững thì nhân dân sẽ không tin cán bộ; nếu có biết họ cũng không nói hoặc có nói cũng không nói hết; như thế, việc học hỏi quần chúng nhân dân sẽ mất đi ý nghĩa và tác dụng trọn vẹn. Bên cạnh đó, Người kịch liệt phê bình những cán bộ cho “dân là dốt không biết gì, mình là thông thái tài giỏi” nên khinh miệt ý kiến của nhân dân, “không thèm học hỏi dân chúng, không thèm bàn bạc với dân chúng”. Người căn dặn, “người lãnh đạo không nên kiêu ngạo, mà nên hiểu thấu. Sự hiểu biết và kinh nghiệm của mình cũng chưa đủ cho sự lãnh đạo đúng đắn. Vì vậy, ngoài kinh nghiệm của mình, người lãnh đạo còn phải dùng kinh nghiệm của đảng viên, của dân chúng”(6). Việc học hỏi quần chúng nhân dân một cách khiêm tốn, cầu thị không chỉ giúp người cán bộ thành công trong công việc; mà qua đó, còn có được lòng dân, vì thực tế chứng minh rằng, quần chúng nhân dân không bao giờ tin cậy và yêu mến những kẻ tự cao, tự đại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh phân biệt rất rõ sự khác biệt giữa việc lắng nghe, học hỏi quần chúng với “theo đuôi”, “a dua” theo quần chúng. Người giải thích, “dân chúng không nhất luật như nhau. Trong dân chúng, có nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau. Có lớp tiền tiến, có lớp chừng chừng, có lớp lạc hậu”(7). Do vậy, cho dù phần đông nhân dân đều rất tốt, biết “điều hay, lẽ phải” và hết lòng tin yêu Đảng, nhưng vẫn có một bộ phận dân chúng, do trình độ hạn chế, ít hiểu biết về pháp luật, lại có phần “nhẹ dạ” nên có thể bị một số đối tượng phản động lôi kéo, kích động, làm nảy sinh trong họ những suy nghĩ chưa đúng, những đòi hỏi và hành động cực đoan, quá khích. Vì thế, Người nhấn mạnh, cán bộ phải biết lắng nghe dân, nhưng “cố nhiên, không phải dân chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt theo”, mà phải có sự so sánh, phân tích kỹ lưỡng các ý kiến khác nhau của quần chúng nhân dân để “chọn lấy ý kiến đúng” và chuyển hóa thành chủ trương, đường lối phù hợp. Nếu người cán bộ không có bản lĩnh và khả năng phân tích để nhận biết cái gì nhân dân làm là đúng, cái gì dân nói là hay, thì sẽ rơi vào tình trạng “đẽo cày giữa đường”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Chúng ta tuyệt đối không nên theo đuôi quần chúng(8) một cách dễ dãi, hời hợt, mà phải có bản lĩnh, sự quyết đoán để phân tích rõ đúng - sai; từ đó, giác ngộ, vận động, cảm hóa quần chúng nhân dân, nhất là bộ phận quần chúng nhân dân còn có nhận thức sai lệch, để họ sống và làm việc theo đúng Hiến pháp và pháp luật. Trước những mong muốn, đòi hỏi không chính đáng của quần chúng nhân dân thì cán bộ phải kiên trì thuyết phục để họ hiểu rằng: Lợi ích tạm thời và lợi ích riêng phải phục tùng lợi ích lâu dài và lợi ích chung; lợi ích địa phương phải phục tùng lợi ích quốc gia - dân tộc... “Không theo đuôi quần chúng” có nghĩa là, cán bộ phải thực hiện sứ mệnh, vai trò lãnh đạo, dẫn dắt quần chúng hành động một cách “tự giác”, có tổ chức, có kỷ luật không để mặc họ hành động tự phát. “Không theo đuôi quần chúng” còn có nghĩa là, cán bộ phải phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của mình trong mọi lĩnh vực. Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ phải kiên định mà không cứng nhắc, bản lĩnh mà không liều lĩnh, quyết đoán mà không độc đoán, mềm dẻo mà không yếu đuối, lắng nghe mà không “ba phải”...

Trong mọi hoàn cảnh, gặp gỡ nhân dân, “nghe dân nói”, “nói dân nghe” luôn là phong cách độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày 3-9-1945, mặc dù phải giải quyết vô số công việc của một chính quyền non trẻ, Người đã tuyên bố: “Từ năm nay, tôi sẽ rất vui lòng tiếp chuyện các đại biểu của các đoàn thể”(9). Có thể ai đó đến với nhân dân chỉ để “làm màu”, vì thế họ “gần dân” về khoảng cách mà vẫn “xa dân” về suy nghĩ, tình cảm, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với nhân dân như đến với những người ruột thịt; ở đó, mọi nghi lễ, khoảng cách dường như bị xóa bỏ, chỉ đọng lại sự đồng cảm sâu sắc. Cuối đời, Người đúc kết: “Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi”(10). Người hiến dâng trọn đời vì nước, vì dân, đặc biệt khi ai đó mắc sai lầm thì Người có cách giáo dục, phê bình vô cùng tinh tế mà thấm thía. Với cách làm việc “từ quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”, luôn vui cái vui của nhân dân, đau nỗi đau của nhân dân, thực sự trọng dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu tấm gương sáng, tạo ra sự gắn kết chặt chẽ giữa “Ý Đảng” với “Lòng Dân” - cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Vận dụng phong cách lắng nghe dân, học hỏi dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào công tác dân vận và đấu tranh chống các biểu hiện mị dân, “theo đuôi quần chúng”  hiện nay

Lắng nghe dân - một yêu cầu bắt buộc đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhưng trên thực tế, không phải người cán bộ nào cũng làm được cái việc tưởng chừng như rất đơn giản ấy. Biểu hiện của việc không lắng nghe dân chính là căn bệnh “duy ý chí, áp đặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý mình; không chịu lắng nghe, tiếp thu ý kiến của người khác”, là “quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra đôn đốc, không nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân”(11). Một khi người cán bộ đã không biết lắng nghe dân thì đương nhiên sẽ không thể học hỏi dân; do đó, tầm nhìn của họ sẽ bị hạn chế bởi thiên kiến cá nhân. Điều đó hết sức nguy hiểm cho công tác lãnh đạo của Đảng, cho nên bài học mà Đảng đã rút ra và đặc biệt nhấn mạnh trong tiến trình đổi mới chính là quán triệt quan điểm “dân là gốc” và “đổi mới phải dựa vào dân”.

Niềm tin, sự ủng hộ của nhân dân chính là cội nguồn sức mạnh của Đảng, bởi “tài dân, sức dân, của dân” khi ở dạng tiềm năng, muốn chuyển hóa thành sức mạnh vật chất vô song trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thì Đảng phải làm tốt công tác dân vận. Tuy nhiên, nếu Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định “công tác dân vận còn nhiều mặt hạn chế” thì Văn kiện Đại hội XIII của Đảng vẫn chỉ rõ “công tác dân vận có nơi, có lúc còn hạn chế”; tức là trên thực tế, công tác dân vận vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, cần phải tiếp tục được cải thiện. Trước yêu cầu của sự nghiệp cách mạng hiện nay, những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phong cách lắng nghe, học hỏi quần chúng nhưng “không theo đuôi quần chúng” gợi mở một số giải pháp chủ yếu cho công tác dân vận và đấu tranh chống các biểu hiện mị dân, “theo đuôi quần chúng” trong giai đoạn hiện nay; cụ thể như sau:  

Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác dân vận và trách nhiệm thực hiện công tác dân vận của toàn bộ hệ thống chính trị.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng cảnh báo: “Khuyết điểm to ở nhiều nơi là xem khinh việc dân vận. Cử ra một ban hoặc vài người, mà thường cử những cán bộ kém rồi bỏ mặc họ. Vận được thì tốt, vận không được cũng mặc. Những cán bộ khác không trông nom, giúp đỡ, tự cho mình không có trách nhiệm dân vận. Đó là sai lầm rất to, rất có hại”(12). Đến nay, những chỉ dẫn của Người về công tác dân vận vẫn còn vẹn nguyên giá trị. Do đó, Đảng phải ra sức tuyên truyền để toàn thể cán bộ, đảng viên thực hiện tốt lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tất cả những ai tiếp xúc với nhân dân đều phải làm công tác dân vận. Mỗi cán bộ phải nhận thức rõ rằng, trước khi trở thành cán bộ, họ cũng đều là dân và sẽ đều “hoàn dân”, nên khi tiếp xúc, đối thoại với nhân dân thì phải “đặt mình” vào vị trí, hoàn cảnh của người dân để tìm được tiếng nói chung.

Thứ hai, Đảng và Nhà nước phải nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách và luật hóa những quy định về lắng nghe ý kiến của nhân dân. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói, “chính sách đúng là nguồn gốc của thắng lợi”, trong đó bao gồm cả thắng lợi của công tác dân vận. Ngược lại, nếu đường lối, chính sách chưa đủ “độ chín”, còn thiếu chuẩn xác thì nhân tâm sẽ xao động, công tác dân vận sẽ gặp phải nhiều khó khăn. Để có chính sách đúng thì cán bộ, đảng viên nhất thiết phải nghe dân nói và muốn làm tốt công việc này thì cần phải luật hóa những quy định về việc lắng nghe, tiếp thu và phản hồi ý kiến của nhân dân. Trên thực tế, các địa phương cũng đã ban hành và thực hiện quy chế tiếp dân của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền. Trong nhà nước pháp quyền, mọi người phải hành động theo pháp luật thì việc luật hóa vấn đề tiếp dân, lắng nghe dân, phản hồi ý kiến của nhân dân là việc làm cần thiết.

Thứ ba, công tác dân vận phải hướng mạnh về cơ sở, mềm dẻo, linh động, nắm vững đối tượng và kiên trì trong thực hiện. 

Coi gần dân là phẩm chất hàng đầu của người cán bộ nên Chủ tịch Hồ Chí Minh từng “đề nghị các vị Bộ trưởng nên luyện cho mình có đôi chân hay đi, đôi mắt hay nhìn, cái óc hay nghĩ, không nên chỉ ngồi ở bàn giấy, theo kiểu “đạo nhân phòng thủ”(13). Ngày nay, trong thời đại công nghệ thông tin, cán bộ rất dễ trở nên quan liêu bởi có thể chỉ cần ngồi trong phòng để nghe báo cáo, phổ biến nghị quyết và điều hành công việc bằng hình thức trực tuyến. Tuy nhiên, chẳng “công nghệ” nào phản ánh hết được ý dân, hiểu được lòng dân nếu cán bộ không sâu sát cơ sở. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng yêu cầu cán bộ khi đi cơ sở thì “phải thật thà nhúng tay vào việc” chứ không sa vào các nghi thức rườm rà; phải tiếp xúc trực tiếp với người dân chứ không chỉ gặp gỡ lãnh đạo. Với mỗi đối tượng cụ thể, cán bộ làm công tác dân vận phải có cách tiếp cận, giải thích và vận động khác nhau sao cho thật phù hợp, hiệu quả. Thực tế cho thấy, cán bộ dân vận thường chú ý vận động những người tích cực để làm lực lượng xung kích trong mọi công việc, phong trào. Điều này không sai, nhưng như thế là chưa đủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh việc phải chú trọng vận động cả những phần tử “chậm tiến”, tập trung vào những nơi phong trào còn yếu. Lý lẽ của Người rất đơn giản: Nếu quần chúng tốt cả rồi, phong trào nơi nào cũng mạnh rồi thì cần gì phải dân vận nữa? Để thuyết phục được thành phần chậm tiến thì cán bộ dân vận “phải biết nhẫn nại. Nói với người nghe một lần người ta không hiểu thì nói đến hai lần, ba lần... Về đức tính này, phải học theo những người đi truyền giáo”(14).

Thứ tư, phải chú trọng dân vận bằng phương pháp nêu gương.

Người cán bộ, đảng viên phải gương mẫu từ việc lớn đến việc nhỏ; phải ý thức rằng, mỗi hành vi sai trái trong việc công lẫn việc tư đều là hành động phản tuyên truyền, đều làm vô hiệu hóa công tác dân vận của Đảng. Muốn làm tốt công tác dân vận thì trước hết, phải làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; bên cạnh đó, cũng cần phải có cơ chế, chế tài để cán bộ không rơi vào căn bệnh “hứa suông”. Thêm nữa, không chỉ sự “quan cách” mà ngay cả cách sống cách biệt và sự hưởng thụ chênh lệch của một bộ phận cán bộ, đảng viên so với quần chúng cũng tạo ra “bức tường vô hình” ngăn cách giữa Đảng và nhân dân. Vì thế, việc thực hành “cần, kiệm, liêm, chính” và sự chan hòa, chân thành của đội ngũ cán bộ, đảng viên cũng góp phần quan trọng vào thành công của công tác dân vận. Uy quyền có thể làm người ta sợ chứ không thể làm người ta tin yêu và muốn nhân dân tin yêu thì cán bộ “phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.

Thứ năm, cán bộ dân vận phải rèn luyện kỹ năng “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng yêu cầu cán bộ dân vận nói riêng, đội ngũ cán bộ cách mạng nói chung, phải “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”. Đặt “óc nghĩ” lên hàng đầu, Người muốn khẳng định, công tác dân vận là một khoa học - khoa học về tâm lý con người, là nghệ thuật - nghệ thuật tiếp cận và vận động con người. Vì thế, cán bộ dân vận phải có trí tuệ, có kỹ năng lắng nghe, nắm bắt, đúc kết ý nguyện chính đáng của quần chúng nhân dân để tham mưu cho Đảng và Nhà nước trong xây dựng chủ trương, chính sách phù hợp với lòng dân. Họ cũng phải học cách nói của quần chúng, nghĩa là ngắn gọn, sinh động, dễ hiểu để vận động quần chúng nhân dân có hiệu quả. Dù có hiểu biết “Thiên kinh vạn quyển”, nói hay đến đâu mà nhân dân không hiểu thì công tác dân vận vẫn thất bại. Để được nhân dân tin tưởng và làm theo thì người làm công tác dân vận phải có uy tín, phải thực hành phương châm “nói đi đôi với làm”, “nói ít, làm nhiều”.

Thứ sáu, phải kiên quyết chống các hình thức mị dân, “theo đuôi quần chúng”.

Bản chất của “mị dân” là lừa mị, dối trá, phỉnh nịnh, nhằm giành được lòng tin và sự ủng hộ nhất thời của nhân dân để phục vụ cho các mưu đồ xấu. Ở Việt Nam hiện nay, các hình thức “mị dân” đã xuất hiện từ các lực lượng chống phá chế độ và cả ở một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất. Các lực lượng thù địch thường nhân danh “quyền con người” để “ru ngủ”, lôi kéo, kích động quần chúng đưa ra những đòi hỏi “tự do, dân chủ” không giới hạn, thiếu tính khả thi; lợi dụng “lòng yêu nước” của nhân dân để kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan, phá hoại đường lối hòa bình và hợp tác của Đảng và Nhà nước ta. Chúng tìm mọi cách khuếch trương những hạn chế, khuyết điểm, khó khăn trong đời sống đất nước, nhất là những sai phạm của một số cán bộ trong bộ máy công quyền để kích động quần chúng nhân dân phản ứng, gây rối, làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Mục đích của chúng không phải là “vì dân”, mà là chống phá Đảng, Nhà nước và cuộc sống bình yên của nhân dân.

Giọng điệu “mị dân” còn xuất hiện ở một bộ phận cán bộ thoái hóa, biến chất, cơ hội chính trị. Biểu hiện “mị dân” của nhóm người này cũng rất đa dạng; trước hết và phổ biến nhất là việc tách rời giữa lời nói và hành động. Những cán bộ này luôn tỏ ra gần dân, lắng nghe dân, đồng cảm với nhân dân, nhưng hành động thì ngược lại, trái với lợi ích căn bản của quần chúng nhân dân. Đặc điểm chung của những cán bộ này là sự “tiền hậu bất nhất”, khi “nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác, nói và làm không nhất quán giữa khi đương chức với lúc nghỉ hưu”(15). Họ nói “bừa”, dùng những từ “lộng ngôn” nhằm thu hút sự chú ý của nhân dân, giải tỏa sự bức xúc nhất thời của nhân dân nhưng không chịu bất cứ trách nhiệm gì về điều đã nói. Biểu hiện thứ hai của những cán bộ “mị dân” là “nói lời hay nhưng không làm việc tốt”. Họ dùng những lời hay, ý đẹp, đưa ra “những lời thề gây bão” để “đánh bóng” tên tuổi cá nhân, tỏ ra mình là người “đức cao, vọng trọng”, là “người của nhân dân”, nhưng hành vi của họ lại hoàn toàn đối lập với những gì họ đã tuyên bố. Điển hình cho biểu hiện này là việc có cán bộ là người có chức, có quyền đã từng viết sách về chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, nhưng kết cục lại là người tham gia vào vụ án tham ô, hối lộ nghìn tỷ. Biểu hiện thứ ba của “mị dân” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên là “hùa” theo ý nguyện trước mắt và lợi ích cục bộ của một bộ phận dân chúng mà có những việc làm và phát ngôn vô nguyên tắc, trái với Cương lĩnh, đường lối, Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước. Biểu hiện thứ tư của “mị dân” là đưa ra những tuyên bố “gây sốc” về việc sẽ nhanh chóng giải quyết những hạn chế, bức xúc trong xã hội đi đôi với “ve vuốt”, ca ngợi, phỉnh nịnh dân, coi việc gì dân làm cũng hay, lời nào của dân cũng đúng nhằm tranh thủ, lợi dụng sự ủng hộ của nhân dân hòng tiến thân trên con đường danh lợi cá nhân. Ở đây, vừa là biểu hiện mị dân, vừa là “theo đuôi quần chúng”. Hiện tượng này thường xuất hiện trước những kỳ đại hội Đảng hay bầu cử các cơ quan dân cử. “Mị dân” còn là, khi mắc sai phạm thì tỏ vẻ nhận lỗi rất thành khẩn, thậm chí còn “tự xỉ vả” mình để “xả van phẫn nộ” của nhân dân, nhưng sau đó không thực tâm sửa chữa khuyết điểm. Những kẻ mị dân cũng thường tỏ ra “dễ dãi, bao dung” trước những sai phạm của người khác, nhưng về thực chất là để né tránh, không gây mất lòng người khác, đi ngược lại chủ trương và quyết tâm đấu tranh chống tiêu cực của Đảng và Nhà nước...

Chính vì vậy, khi phát biểu tại Hội nghị toàn quốc triển khai Chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào ngày 16-8-2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhắc nhở cán bộ tuyệt đối không “mị dân, tiếp xúc với dân một cách hình thức, càng không “theo đuôi” quần chúng”(16). Trước sự manh nha của các biểu hiện mang màu sắc dân túy và sự phát tác của các hiện tượng mị dân, công tác dân vận phải góp phần “lật tẩy” những biểu hiện và tác hại của các luận điệu mị dân, “theo đuôi quần chúng”, để quần chúng nhân dân nhận rõ “chân tướng” và “tẩy chay” những cán bộ rắp tâm “mị dân” nhằm vụ lợi, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ, gây ảnh hưởng xấu tới sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

Nguồn:TCCS

(1), (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 326, 336
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 609
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 432
(5), (6), (7), (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 333, 325, 336, 338
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 9
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 674
(11) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 29 - 31
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 234
(13) Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, t. 10, tr. 131
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 72
(15) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Sđd, tr. 29
(16) Nguyễn Phú Trọng: “Phát huy truyền thống đại đoàn kết, huy động sức mạnh của toàn dân tộc, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi toàn diện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”, Tạp chí Cộng sản, số 973, tháng 9-2021, tr. 12

 

MỐI NGUY HẠI TỪ VIỆC XEM NHẸ MỘT CĂN BỆNH NẶNG!

Chủ nghĩa cá nhân (CNCN) là căn bệnh đặc biệt nguy hại, thế nhưng hiện nay, không ít cán bộ, đảng viên vẫn còn biểu hiện xem nhẹ, thiếu ý thức trách nhiệm trong phòng vệ, đấu tranh. Thậm chí, nhiều nơi vẫn còn biểu hiện xô lệch và sai lệch trong nhận thức, tổ chức thực thi nhiệm vụ “đánh giặc từ bên trong” như chỉ lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời.

Tự cho mình
là tốt, là hay?
CNCN có nguồn gốc từ mỗi con người cụ thể. Với cán bộ, đảng viên cũng vậy. CNCN manh nha, hình thành, trỗi dậy từ chính lòng tham, sự vị kỷ, cùng với lối nghĩ cực đoan mang xu hướng “tự tôn”, tự sùng bái bản thân; thể hiện thông qua tâm trạng, thái độ, hành vi thường nhật, mà dấu hiệu dễ nhận biết là sự ham muốn quyền bính, lợi ích cá nhân (cá thể). Những người rơi vào CNCN thường quan niệm và tuân theo những “triết lý” tự đúc rút; thể hiện sự bảo thủ cao độ, không hạn chế mục đích và ham muốn bản thân. Họ “phản đối” và bất chấp sự can thiệp từ bên ngoài lên sự lựa chọn cá nhân, dù sự can thiệp đó là của xã hội, nhà nước, hoặc bất kỳ một cộng đồng, một tập thể hay một thể chế nào khác. Họ là nhất-hơn tất cả và chỉ lao động hoặc sáng tạo vì lợi ích của riêng họ mà bất chấp bỏ qua những mối liên hệ, mối quan hệ xung quanh trong đời sống xã hội. Những dấu hiệu này đã sớm được Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc rút, chỉ rõ: CNCN là “miễn là mình béo, mặc thiên hạ gầy”; là việc gì cũng chỉ nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết; chỉ biết “mọi người vì mình” mà không lo “mình vì mọi người”.

CNCN hoàn toàn khác với sự cá tính. Dễ nhận thấy, cá tính là phẩm chất có nhiều mặt tích cực, trong khi CNCN là hoàn toàn tiêu cực. Cá tính là cái cần thiết, có thể gọi là “cái tôi” theo nghĩa nào đó để khẳng định “tôi là tôi”-điều đó tạo ra bản sắc và giá trị riêng của mỗi con người. Điều đó khác hoàn toàn với triết lý “tôi là nhất” của CNCN.

Khác nhau là vậy, nhưng ranh giới giữa cá tính và CNCN rất mong manh. Nếu quá đề cao cá tính một cách thái quá, hoặc đến độ bảo thủ, cực đoan vì lợi ích của bản thân thì bấy giờ cá tính đã trở thành CNCN. Ví như cán bộ có sự quyết đoán là tốt (đó là cá tính đáng quý), nhưng nếu anh quyết đoán thái quá, bất chấp nguyên tắc, vi phạm dân chủ thì vô hình trung đã rơi vào độc đoán-đấy cũng là lúc cán bộ trượt chân ngã vào CNCN. Hay như khi cán bộ nêu cao tinh thần thực hành phê bình là tốt, nhưng nếu lạm dụng việc phê bình để bôi nhọ, hạ bệ đồng đội, anh em để tự suy tôn, ngợi ca mình... thì đó là biểu hiện của CNCN. Hay giản đơn hơn là việc phê bình không đúng nơi, đúng chỗ, biến nội dung phê bình thành “câu chuyện làm quà” thì khi ấy mầm mống ban đầu của CNCN cũng đã trỗi dậy...

Ngược lại, CNCN thường được “ngụy trang” trong dáng dấp của cá tính. Nhiều người vẫn nhầm tưởng, thậm chí là bày tỏ sự tôn trọng bởi một số cán bộ, đảng viên dám sống đúng với cá tính của mình; thế nhưng, nếu không biết phân tường đúng đắn thì phía sau cá tính đáng quý ấy của một ai đó rất có thể là một bức tranh đen đặc CNCN.

Điều đáng lo ngại hiện nay là không ít cán bộ, đảng viên có tâm lý tự ngợi ca mình, hài lòng với chính mình, không tự nhận ra những khuyết thiếu, tồn tại của bản thân để xác định mục tiêu, trách nhiệm, thái độ, động lực, động cơ và phương hướng để không ngừng rèn luyện, hoàn thiện nhân cách, nhân phẩm làm người và hướng đến các giá trị đạo đức cách mạng của người đảng viên, người chiến sĩ cộng sản trung kiên, mực thước. Thế nhưng, đáng buồn là nhiều cán bộ tự phong cho mình sự hoàn hảo, rồi bỏ ngoài tai tất cả những góp ý chân tình, đúng đắn của tập thể, đồng đội và quần chúng.

Cùng với đó, hiện nay tâm lý tập thể, tâm lý cộng đồng ở nhiều nơi, kể cả trong nội bộ tổ chức đảng, vẫn còn nặng biểu hiện “dĩ hòa vi quý”. Cả trong cuộc sống, công tác, cả ở hội nghị, hay những dịp đánh giá cán bộ theo định kỳ hoặc đột xuất, mọi người vẫn thường xem nhẹ việc chỉ trích và phê bình, hầu như chỉ bày tỏ sự cảm thông, chia sẻ, bỏ qua cho nhau những sai lệch, yếu khuyết từ nhỏ, thậm chí không nhỏ. Thành thử, đến cuối năm, cán bộ nào cũng tốt, đảng viên nào cũng hoàn thành nhiệm vụ và những yếu kém dần bị xem nhẹ, được “bỏ qua” một cách hiển nhiên theo kiểu: “Biến to thành nhỏ, biến nhỏ thành không”. Đó là một nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc tích tụ các khuyết điểm nhỏ thành sai lầm lớn rồi hình thành, kết nên CNCN ở cán bộ, đảng viên.

Thực tế cho thấy, trong hàng loạt cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật buộc phải xử lý, trong số rất nhiều vụ đại án tham nhũng, tiêu cực, thì nguyên nhân sơ khai ban đầu đều xuất phát từ căn bệnh CNCN ở một bộ phận cán bộ, đảng viên. Thậm chí, hiện nay căn bệnh này đang diễn tiến phức tạp, quy mô ngày càng lớn, mức độ nguy hiểm ngày càng nghiêm trọng. Ấy thế nhưng, công bằng mà nói, ở nhiều nơi, việc chống CNCN chỉ dừng lại ở khẩu hiệu hô hào, nặng hình thức, kết quả thiếu thực chất và chưa đạt như mong muốn.

Cần nhớ rằng, CNCN là đặc biệt nguy hại. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng sớm chỉ rõ CNCN là một thứ gian xảo, xảo quyệt, nó khéo dỗ người ta đi xuống dốc, nó là một thứ vi trùng rất độc đẻ ra hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm... Nó phá từ trong phá ra, là bạn đồng minh của chủ nghĩa đế quốc và thói quen truyền thống lạc hậu, nguy hiểm hơn kẻ thù bên ngoài. Đảng ta qua các giai đoạn cách mạng cũng nhất quán cho rằng, CNCN là một trở ngại lớn trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ CNCN.

Tiếp cận như vậy để thấy, CNCN-một căn bệnh hết sức nguy hại, đang diễn ra phổ biến, hậu quả và hệ lụy khó lường, nhưng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở một số nơi lại hồn nhiên xem nhẹ, chưa thật sự đề cao trách nhiệm và quyết tâm chính trị trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi. Biểu hiện rõ nét nhất là sức chiến đấu của tổ chức đảng còn nhiều vấn đề đáng bàn; việc thực hành nguyên tắc tự phê bình và phê bình bị xem nhẹ, thiếu thực chất.

Việc không phải
của mình!
Vì không nhận thức rõ nguồn gốc, bản chất, mức độ nguy hại của CNCN; lại tự cho rằng bản thân mình luôn cố gắng học tập, rèn luyện nên tuyệt nhiên đã trở thành người tốt, có nhân cách hoàn thiện, nhiều cán bộ, đảng viên thường sinh ra tâm lý mặc nhiên, bàng quan, vô cảm trước vấn nạn đang hiện hữu nhãn tiền. Nhiều cán bộ, đảng viên không nhận thấy trách nhiệm bản thân mà phiến diện cho rằng việc chống CNCN là việc của cấp ủy, chính quyền, của cơ quan chức năng và những người có trách nhiệm. Ở nhiều nơi, khi CNCN xuất hiện phổ biến, gây hậu quả nghiêm trọng thì mới “phất cờ” tuyên chiến, đấu tranh theo lối thụ động, vuốt đuôi.

Lại không ít cán bộ cho rằng, CNCN là bệnh của một cá nhân (cá thể) cụ thể nên rất dễ dàng nhận diện, đấu tranh, triệt tiêu được ngay... Thế nhưng, tất cả những nhận thức ấy hoặc là rơi vào sai lầm, hoặc phiến diện một chiều, hoặc mang nặng sự áp đặt chủ quan.

Nên nhớ, CNCN chỉ hình thành, tồn tại và “ký sinh” như ung nhọt trong cơ thể, nhân phẩm mỗi con người cụ thể. Do đó, chống CNCN trước hết thuộc trách nhiệm của mỗi cá nhân, giống như mỗi người phải có trách nhiệm chăm lo sức khỏe bản thân, làm cho đời sống tinh thần trở nên sạch sẽ, lành mạnh.
Để làm được điều đó, đòi hỏi qua từng ngày, từng tuần, từng việc làm, hoạt động cụ thể, mỗi cán bộ, đảng viên phải nhận thức rõ trách nhiệm “tự soi” lại mình để nghiêm khắc, kiên trì “tự sửa” như đánh răng, rửa mặt hằng ngày. Đừng một ai tự cho mình là hoàn hảo; đừng bất chấp thực hành những việc chỉ có lợi cho mình, lại có hại cho người khác hoặc tổ chức. Mỗi cán bộ, đảng viên cần biết cách "định vị lại", "cấu trúc lại" và thường xuyên điều chỉnh cách sống, cách làm theo hệ giá trị chuẩn mực đạo đức cách mạng. Bất cứ khi nào có chuyện khác biệt, rơi vào tình huống có vấn đề, từng người không nên cố gắng tìm những lý do bên ngoài. Thay vào đó, hãy cố gắng tìm trong bản thân xem mình làm điều đó đúng hay sai; có gây tổn hại gì đến người khác không? Có làm điều gì đó trái với luân thường, đạo lý hay không? Có tuân theo các nguyên tắc phổ quát về chân, thiện, mỹ? Một khi, mỗi cán bộ, đảng viên đều nhất quán quyết tâm tự làm mới, tự hoàn thiện bản thân bằng thực tiễn cách mạng thì chắc chắn CNCN sẽ được ngăn chặn, đẩy lùi.

Đối với tổ chức, ở mọi cấp, mọi ngành cần nhất quán quyết tâm chính trị rất cao để nhận
diện, đẩy lùi CNCN trong nội bộ. Tất nhiên, nhận diện CNCN không phải chuyện giản đơn, do đó, các cấp cần có chủ trương phát huy tinh thần tự giác, đề cao trách nhiệm của từng thành viên trong tập thể; đồng thời phải có cơ chế để giám sát, có chế tài để xử phạt, xử lý một cách nghiêm khắc, triệt để.

Với tinh thần đó, từng cán bộ, đảng viên phải có thái độ tích cực, quyết liệt, không khoan nhượng trong nhận diện, đấu tranh, ngăn chặn các dấu hiệu, biểu hiện CNCN của đồng chí, đồng nghiệp, nhất là người đứng đầu. Việc nhận diện CNCN cần được vận hành trên cả 5 thành tố: Tư tưởng, chính trị, tổ chức, đạo đức, cán bộ; nhận diện trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, trước hết là các khu vực liên quan đến lợi ích kinh tế, tài chính, cán bộ và chính sách; trên cả phẩm chất, năng lực cán bộ, mà trước hết là khí chất, tính cách, tư cách, lối sống, cách sống của cán bộ, đảng viên.

Bàn về giải pháp đẩy lùi CNCN, trong bài nói “Phát huy chủ nghĩa tập thể, tiếp tục chống CNCN”, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị từng quan niệm, cho rằng cuộc đấu tranh giữa CNCN và chủ nghĩa tập thể luôn diễn ra hằng ngày, hằng giờ. CNCN tuy rất nguy hiểm và ngoan cố, nhưng nó kỵ chủ nghĩa tập thể như lửa kỵ nước. Chỉ cần mỗi cán bộ, đảng viên có dũng khí đứng lên phất cao ngọn cờ chủ nghĩa tập thể, nói nhiều về chủ nghĩa tập thể, nghĩ nhiều đến chủ nghĩa tập thể, gây một phong trào làm việc nhiều cho tập thể, tổ chức đông đảo quần chúng hành động theo khẩu hiệu “ta vì mọi người, mọi người vì ta”, nhất định chúng ta sẽ thắng lợi./.
Yêu nước ST.

KHÔNG THỂ CA NGỢI HAY VINH DANH NGUYỄN ÁNH KẺ MANG TRỌNG TỘI "CÕNG RẮN CẮN GÀ NHÀ"!

         10 tội lỗi của Nguyễn Ánh kẻ bán nước cầu vinh đang được suy tôn và dâng hương tại Huế.

1, Nguyễn Ánh, cắm con (Hoàng tử Cảnh) để bán nước là cha vô tình.

2, Ánh giết con (Hoàng tử Cải) là kẻ bất nhân.

3, Ánh giam vợ đến chết (bà Phi Yến) khi vợ khuyên không nên cầu viện ngoại bang là chồng bất nghĩa bội bạc.

4, Ánh để cho quân Trịnh quật mồ mả tổ tiên moi vàng moi bạc là con mà bất hiếu. 

5, Ánh quỳ mọp dưới chân Vua Xiêm để cầu viện là người hèn mạt. 

6, Ánh đánh Tây Sơn bằng vũ khí Pháp, cố vấn Pháp, chỉ huy Pháp là Tướng bất tài.

7, Ánh cõng rắn cắn gà nhà là kẻ bất trung.

8, Ánh cắt đất cho nước ngoài là kẻ bán nước

9, Ánh trả thù Tây Sơn hèn hạ là kẻ tiểu nhân bất dũng.

 10, Ánh phá Thành Thăng Long chở gạch ngói vào Phú Xuân xây kinh đô Huế là kẻ vô văn hóa.


 Tây Sơn đánh tan Trịnh Nguyễn thống nhất Đàng Trong - Đàng Ngoài là chính nghĩa. Còn với Ánh chỉ là tội đồ dân tộc vậy mà người ta tôn vinh Nguyễn Ánh thì lịch sử đảo điên, điên đảo thật rồi. 

Truyền thông bẩn đã có cả chiến dịch ra sức bôi nhọ anh hùng Quang Trung - Nguyễn Huệ và nay chúng đang tiến hành ca ngợi Nguyễn Ánh. Chúng đã quên lịch sử dân tộc qua bài thơ "Lịch sử nước ta" mà Bác Hồ đã từng răn dạy. Buồn cho hậu thế!

Yêu nước ST.

Mối nguy hại từ việc xem nhẹ một căn bệnh nặng

 

Chủ nghĩa cá nhân (CNCN) là căn bệnh đặc biệt nguy hại, thế nhưng hiện nay, không ít cán bộ, đảng viên vẫn còn biểu hiện xem nhẹ, thiếu ý thức trách nhiệm trong phòng vệ, đấu tranh. Thậm chí, nhiều nơi vẫn còn biểu hiện xô lệch và sai lệch trong nhận thức, tổ chức thực thi nhiệm vụ “đánh giặc từ bên trong” như chỉ lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời.

PHÒNG CHỐNG CL "DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH" MỆNH LỆNH TỪ TRÁI TIM!

     Chủ nghĩa đế quốc trước sau vẫn coi sự tồn tại của các nước xã hội chủ nghĩa là mối đe dọa lớn nhất đối với chế độ tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa đế quốc luôn nhằm vào tiêu diệt các nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng chúng đều thất bại, thảm hại nhất là cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ - nước đế quốc đầu sỏ, lớn mạnh nhất.
     Dùng vũ lực thất bại, nhưng mục tiêu xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa vẫn không thay đổi. Chủ nghĩa đế quốc thay đổi chiến lược, chuyển từ phương thức chiến tranh, tiến công bằng sức mạnh quân sự sang phương thức "diễn biến hoà bình", "tiến hành một cuộc chiến tranh không có khói lửa" sử dụng các biện pháp “phi vũ trang” để giành "chiến thắng không cần chiến tranh".
     Các biện pháp chủ nghĩa đế quốc dùng để thực hiện chiến lược "diễn biến hoà bình" là: "Chiến tranh tâm lý" chống chủ nghĩa xã hội trên mặt trận tư tưởng, tinh thần. Chúng sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, công kích chủ nghĩa Mác - Lênin, xuyên tạc, nói xấu chủ nghĩa xã hội, tuyên truyền, tán dương chế độ tư bản, kích động tâm lý chống đối trong nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa; Chiến tranh gián điệp" chống phá về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Thông qua hoạt động gián điệp, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch sử dụng nhiều thủ đoạn tác động vào đường lối, tổ chức, nhân sự để dẫn tới chệch hướng về đường lối, phá vỡ về tổ chức, cài cắm nội gián để chuyển hoá chế độ chính trị các nước xã hội chủ nghĩa. Tất cả những biện pháp trên đều được sự hậu thuẫn của "răn đe quân sự".
     Như thế, các biện pháp của chiến lược "diễn biến hoà bình" đều không trực tiếp dùng vũ lực, không thực hiện phương thức chiến tranh, nhưng nó diễn ra rất quyết liệt và vô cùng nguy hiểm, nhằm mục đích xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa. Cho nên "diễn biến hoà bình" thực chất không khác gì “một cuộc chiến tranh không có khói súng”, chỉ khác chiến tranh thông thường là không trực tiếp xung đột vũ trang.
Vì vậy mỗi CB,CS trong Quân đội ta cần nêu cao tinh thần cảnh giác, nâng cao sức mạnh chiến đấu, sẵn sàng đánh bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch./.


Yêu nước ST.

BÁC ĐÃ TIÊN LIỆU TRƯỚC!

         "Tôi không sợ bọn đế quốc, bọn phản động. Đồng bào sẽ đánh thắng chúng. 
     Tôi chỉ sợ những hành vi xấu xa của cán bộ, làm cho đồng bào mất lòng tin với chế độ, Nhà nước và Đảng. Có thể nói, kẻ phá hoại sự nghiệp cách mạng đáng sợ nhất là những người ấy, vì trước mắt đồng bào, họ là Đảng và Nhà nước.
     Kẻ thù hàng ngày nói xấu chúng ta, đồng bào ta không mắc lừa. Người của ta làm hại cách mạng là nguy hiểm nhất. Đồng bào sẽ xa lánh, không tin chúng ta. Đưa những người yếu kém về năng lực, nhất là kém cỏi về phẩm chất, nhân cách vào bất kỳ nhiệm vụ nào cũng nguy hại".
Lời Bác Hồ căn dặn cán bộ, Báo Nhân Dân ngày 19/8/1967; In lại trong cuốn "Nhân Dân, Tuyển tập các tác phẩm đoạt giải báo chí Hội nhà báo và giải báo chí quốc gia", NXB CTQG_ ST, H 2011./.
Yêu nước ST.

ỦY BAN TÔN GIÁO HOA KỲ LÀM GÌ CÓ QUYỀN PHÁN QUYẾT VỀ NHÂN QUYỀN VIỆT NAM!

         Trả lời câu hỏi của cộng đồng mạng các nước về việc ngày 28-4 Bộ Ngoại giao Hoa kỳ có báo cáo về tình hình nhân quyền các nước trong đó có Việt Nam trong năm 2021. Bộ Ngoại giao Hoa kỳ tự cho quyền mình xác định nước CHXHCN Việt Nam là quốc gia độc tài, một đảng cầm quyền, không có bầu cử quốc hội tự do, công bằng, báo cáo còn xuyên tạc sự thực rằng chính phủ Việt Nam bắt người, giết người bất hợp phát và tuỳ tiện. Tra tấn, đối xử, trừng phạt vô nhân đạo đối với tù nhân, bắt giữ, giam giữ tuỳ tiện tù nhân chính trị ...
Đặc biệt là hơn là ngày 25-4-2022 Ủy ban tự do tôn giáo quốc tế Hoa kỳ (USCIRF) đã công bố báo cáo và đề nghị chính phủ Hoa kỳ xếp Việt Nam vào vào các nước cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo (CPC).
Đại diện cộng đồng mạng Việt Nam xin được trả lời như sau:
Chúng tôi cực lực phản đối những cáo buộc hết sức phi lý và vô căn cứ mà BNG Hoa kỳ. Ủy ban tôn giáo quốc tế Hoa kỳ áp đặt cho Việt Nam, những áp đặt và cáo buộc trên, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam, không đúng sự thực nhằm bôi nhọ những cố gắng mà đất nước chúng tôi đã và đang xây dựng.
77 năm qua từ khi dành được độc lập đến nay Đảng, Nhà nước và CP Việt Nam luôn thực hiện các chính sách nhất quán, đó là tôn trọng, bảo vệ, và thúc đẩy các quyền của người dân. Các nỗ lực, thành tựu đạt được trong lĩnh vực này được phần lớn cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. (trừ một số quốc gia không thân thiện).
Chúng tôi luôn lấy pháp luật là thượng tôn, mọi công dân sẽ rất thoả mái khi sống, học tập, làm việc theo đúng hiến pháp và pháp luật, tất cả những hành vi vi phạm luật pháp của cá nhân, hay bất cứ tổ chức nào đều bị xử lý nghiêm khắc, dựa trên các quy định mà pháp luật đã đề ra. 
Đánh giá của BNG Hoa kỳ cho thấy sự hiểu biết của Hoa kỳ về thực tế tại Việt Nam hoàn toàn không có, rất thiếu khách quan và dựa vào những thông tin chưa được kiểm chứng.
Chính phủ Việt Nam luôn cởi mở sẵn sàng đón tiếp và trao đổi với phía Hoa kỳ về các lĩnh vực nhân quyền, tuy nhiên phải trên tinh thần hợp tác, tôn trọng lẫn nhau.
CĐ mạng Việt Nam cũng yêu cầu phía Hoa kỳ rút lại những cáo buộc trên, chỉ có như vậy mới có thể xây dựng quan hệ giữa 2 nước, 2 chính phủ đúng tầm như mong đợi./.




Yêu nước ST.

TỘI CHỒNG THÊM TỘI


Ai cũng muốn mình được khen là người tốt. Ai cũng muốn mọi người nhìn mình với thiện cảm. Ai cũng muốn che đậy lầm lỗi của mình. Ai cũng muốn bày tỏ ra phẩm chất tốt đẹp. Nhưng thẩm sâu trong tâm ai cũng có thể còn bị khuynh hướng ác độc, dâm dục, tham lam, nóng giận xuôi khiến hành động. Khi hành động theo tâm xấu xa rồi thì trở lại cái mong ước đừng ai biết mình xấu để không khinh thường mình.

Để có thể che đậy cái tội thứ nhất, người ta thường gây thêm cái tội thứ hai. Tội chồng thêm tội.

Trù dập người nói lỗi của mình, cũng là tội thứ hai. Gài bẫy mưu hại người biết bí mật xấu của mình, cũng là tội thứ hai. Muốn giành hết tài sản ăn trộm được nên thủ tiêu đồng bọn, cũng là tội thứ hai. Vu khống nói xấu bôi nhọ làm cho mất uy tín người có thể lật tẩy mình để không ai tin lời người đó nữa, cũng là tội thứ hai. Không muốn cưới cô gái lỡ có mang với mình nên lén sát hại người ta, cũng là tội thứ hai. Đứa bé ăn cắp tiền rồi nói dối là em nó ăn cắp chứ nó không có, đó cũng là tội thứ hai...

Không ai can đảm nhận lỗi, không ai muốn bị phát hiện, nên không ai dừng lại ở tội thứ nhất. Thật ra nếu dừng lại ở tội thứ nhất, biết ăn năn sám hối, thì cái tội thứ nhất đó sẽ được giảm nhẹ rồi. Tội thứ nhất thường là không kinh khủng như tội thứ hai. 

Giá trị của một con người biết sống là càng lúc càng bớt gây tội. Đến khi lớn tuổi thì đời sống trở nên trong sạch đáng kính . Bớt được tội nào hay tội ấy. Nhưng chỉ vì sợ mất danh dự mà kẻ xấu thường chọn cách gây nên tội thứ hai. Người ta rất quý danh dự, nhưng lại bảo vệ nó bằng tội ác. Lẽ ra người ta phải bảo vệ danh dự bằng đời sống hiền thiện thì lòng an vui hạnh phúc hơn.

Tóm lại, làm sao đừng phạm tội là tốt nhất. Nhưng có một cái gì bên trong hay thúc đẩy người ta phạm tội. Nếu ta không chuẩn bị từ rất sớm thì khi cơ hội đến, ta sẽ phạm tội, ta không đủ sức cưỡng lại cái sức mạnh của tham lam thù hận từ nội tâm. Ta phải khẩn trương dọn dẹp nội tâm từ bây giờ, kẻo muộn mất.

Đặng Duy Khánh

TỰ CHỦ TRONG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KHÔNG CÓ NGHĨA LÀ TỰ CHỦ VỀ NGÂN SÁCH ĐỂ MÀ TĂNG HỌC PHÍ!

     “Học phí trường công lập cần xây dựng căn cứ mức sống thu nhập người dân chứ không phải trường tự tính, tự đội học phí lên cao khiến cho sinh viên không chịu nổi đành bỏ học.
     Trên thế giới một nền giáo dục tốt cần đảm bảo 3 tiêu chí: Công bằng - Hiệu quả - Chất lượng.
     Nếu chính sách học phí của ta không đảm bảo tính công bằng, người nghèo không có cơ hội tiếp cận với giáo dục thì không thể là nền giáo dục tốt”, Tiến sĩ Khuyến nói.
     Bởi Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã nhiều lần nhấn mạnh, nhất là tại cuộc họp với lãnh đạo các bộ ngành, cơ sở giáo dục đại học về dự thảo nghị định của Chính phủ về giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu cung cấp sản phẩm, dịch vụ công sử dụng ngân sách nhà nước từ nguồn kinh phí chi thường xuyên diễn ra ngày 18/7/2018, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam khẳng định: “Nhiều người hiểu tự chủ đại học là không còn ngân sách nhà nước đầu tư mà trường phải tự túc về kinh phí. Đó là quan điểm sai lầm…”.
     “Chúng ta cho các trường tự chủ về học thuật, tổ chức bộ máy, tài chính, tăng khả năng huy động các nguồn tài chính khác, nhưng nguồn từ ngân sách nhà nước không được cắt giảm.
     Mục đích hiện nay là đổi mới đại học sao cho phát huy được sự sáng tạo, tăng cường năng lực đào tạo, nghiên cứu khoa học trong các trường đại học…”, Phó Thủ tướng nhấn mạnh./.

Môi trường ST.

ĐẤT NƯỚC SẼ KHÔNG BAO GIỜ QUÊN!

     Một trong những người học trò xuất sắc nhất của lãnh tụ Hồ Chí Minh, mà tên tuổi luôn luôn được gắn với Bác, chính là Đại tướng - Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam Võ Nguyên Giáp. Suốt đời vì nước, vì dân; thực hiện lời dạy của Bác Hồ đặt lợi ích của toàn dân lên trên hết, không bao giờ bợn chút cá nhân, Đại tướng Võ Nguyên Giáp sẽ trường tồn trong lòng nhân dân.
Với các lực lượng vũ trang, không bao giờ quên người Anh Cả của toàn quân, từ 78 năm trước trong khu rừng Trần Hưng Đạo đã đứng lên thành lập đơn vị đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, để rồi sau đó trực tiếp cầm quân đánh thắng tất cả các đạo quân xâm lược, từ chiến thắng Điện Biên Phủ tháng 5/1954 đến giải phóng quần đảo Trường Sa ngay nửa tháng trước ngày giải phóng Sài Gòn, thu cả non sông về một mối, để cho quân dân ta ngày nay tiếp tục nắm chắc tay súng, bảo vệ hòa bình, gìn giữ di sản toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
 
Các lực lượng an ninh ta ngày nay không bao giờ quên những bài học quý báu lãnh đạo đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng những ngày đầu thành lập nước, khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp là Bộ trưởng Bộ Nội vụ ra sức bảo vệ cách mạng chống thù trong giặc ngoài, trước khi nước ta phải bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc.
 
Giai cấp công nhân Việt Nam không bao giờ quên nhà báo trẻ Võ Nguyên Giáp từ những năm 30 của thế kỷ trước đã đạp xe đạp một mạch từ Hà Nội ra vùng mỏ Quảng Ninh để điều tra, viết bài ủng hộ công nhân mỏ than đình công chống bóc lột của chủ mỏ.
 
Giai cấp nông dân Việt Nam không thể nào quên cuốn sách “Vấn đề dân cày” mà Đại tướng viết chung với đồng chí Trường Chinh với bút danh Vân Đình và Qua Ninh, một cuốn sách nghiên cứu sâu về tình cảnh dân cày và hoàn cảnh ruộng đất lúc ấy, đưa ra giải pháp phải thực hiện chế độ người cày có ruộng. Đến thời hòa bình lập lại, sau những năm 1950, tuy còn bộn bề công tác quân sự, nhưng Đại tướng vẫn suy nghĩ nhiều đến nông dân, nông nghiệp và đã đề xuất những chương trình đưa khoa học, kỹ thuật vào nông nghiệp để nâng cao năng suất, cải thiện đời sống của nông dân.
 
Ngư dân Việt Nam không thể nào quên những năm 1977, sau khi đi thăm các đảo Côn Lôn, Thổ Chu, Cô Tô và hai tỉnh duyên hải Phú Yên-Khánh Hòa, Phó Thủ tướng Võ Nguyên Giáp đã triệu tập hội nghị lần thứ nhất về biển, đề xuất một chiến lược về khoa học biển và kinh tế biển, đồng thời từ những chuyến đi thực tế, xây dựng được một kế hoạch đổi mới cơ chế kinh tế, không để ngư dân làm ăn đơn độc, riêng lẻ gặp khó khăn không biết gỡ, lần đầu tiên đưa ra đường lối cơ cấu một nền kinh tế nhiều thành phần, không chỉ có quốc doanh mà còn có kinh tế hợp tác xã và kinh tế tư nhân.
 
Đồng bào các dân tộc thiểu số trong nước không thể nào quên những kỷ niệm Đại tướng cùng với Bác Hồ và các lãnh tụ đã sống trong sự đùm bọc thân thương của đồng bào, không thể nào quên "Anh Văn", nói sõi tiếng dân tộc của đồng bào, đã viết Việt Minh ngũ tự kinh giải thích bằng văn thơ tiếng dân tộc nhiệm vụ cứu nước trong thời kỳ cách mạng còn đang trong trứng nước. Đồng bào Cao Bằng không thể quên lời chân thành của Đại tướng nói: “Cao Bằng là quê hương thứ hai của tôi”. Đồng bào Điện Biên ở khu di tích Mường Phăng mãi mãi gọi ngọn đồi chỉ huy sở của Chiến dịch Điện Biên là “Đồi Đại tướng”.
 
Các nhà trí thức Việt Nam không thể quên những hoạt động của Đại tướng khi được phân công phụ trách khoa học kỹ thuật, đã thành lập nhóm nghiên cứu về cách mạng khoa học kỹ thuật thế giới và thực trạng công nghệ hiện có ở Việt Nam, để đưa lực lượng khoa học trong nước gắn với lực lượng sản xuất, thành một động lực mới đẩy mạnh kinh tế quốc dân, hiện đại hóa nông nghiệp, và trên cơ sở ấy thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp.
 
Thanh niên và sinh viên, học sinh toàn quốc không thể nào quên những suy nghĩ của Đại tướng đề xuất về một chiến lược đổi mới giáo dục, đã in thành sách “Mấy vấn đề về khoa học và giáo dục”. Đại tướng cũng là người đã đề ra sáng kiến lập ra giải thưởng Vifotec để khen thưởng những sáng tạo thành công của giới trẻ ở các ngành công nghệ và kỹ thuật.
 
Các doanh nhân Việt Nam không thể nào quên Đại tướng đã mệnh danh các doanh nhân hiện nay như những “chiến sỹ trên thương trường” và đã cổ vũ lấy ngày 13/10 làm Ngày Doanh nhân Việt Nam để khích lệ tinh thần dân tộc ở các doanh nhân Việt Nam khi hội nhập với thế giới.
 
Bà con kiều bào ta ở nước ngoài không thể nào quên tấm gương suốt đời vì nước của Đại tướng, không thể nào quên tư tưởng coi kiều bào như một bộ phận không thể tách rời với đất nước và tình cảm thân thiết với các cháu từ nước ngoài về dự trại hè trong nước đã đến thăm Đại tướng trong chuyến trở về dự trại hè đầu tiên.
 
Bạn bè quốc tế, kể cả những người có liên quan đến chiến tranh Việt Nam trước đây, những người từng ở phía bên kia chiến tuyến cũng ngả mũ kính trọng và không thể quên nhân cách chính trị và nhân cách văn hóa của vị nhân tướng Việt Nam, vị tướng của Hòa bình, đã tranh đấu cho Hòa bình, Tự do và tình Hữu nghị giữa các dân tộc. Tình cảm bền chặt của những Patti, Thomas, Mac Shin, Clinton (ở Bắc Mỹ), của Fidel Castro (ở Trung Mỹ), của Hugo Chavez và nhiều nguyên thủ ở Nam Mỹ và châu Phi từ tình cảm gắn bó với Đại tướng đã trở thành những nhịp cầu liên kết toàn thế giới với Việt Nam. Với nhân dân thế giới Đại tướng Võ Nguyên Giáp mãi mãi là vị tướng của Hoà bình.
ĐẠI đoàn kết nhân dân là sức mạnh.
TƯỚNG và quân lớn mạnh bởi kết đoàn.
VÕ học trí cao anh tài cứu quốc.
NGUYÊN khí thịnh suy vận nước là đây.
GIÁP trận chiến công vang kháp toàn cầu.
KÍNH già thương trẻ sáng ngời đạo đức.
YÊU mến vì dân suốt đời tận tụy
TRƯỜNG kỳ kháng chiến sử ghi huyền thoại.
THỌ với non sông mãi lưu danh./.
Môi trường ST.

ANH CHÀNG NGƯỜI MỸ GỐC VIỆT CHỨNG MINH TRƯỜNG SA CỦA VIỆT NAM KHIẾN CẢ NƯỚC MỸ NGHIÊNG MÌNH THÁN PHỤC !

 Lần đầu tiên những bản đồ cổ giúp chứng minh chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa do Việt kiều Trần Thắng sưu tầm được trưng bày ở Mỹ.

Người sưu tầm 100 bản đồ Trung Quốc không có Hoàng Sa
20 bản đồ Hoàng Sa, 20 bản đồ cổ Trung Quốc và 2 sách atlas Trung Quốc được triển lãm tại Hội thảo quốc tế "Sự xung đột trong Biển Đông", tổ chức tại ĐH Yale, Mỹ cuối tuần qua. Ðây là 40 bản đồ trong bộ sưu tập 150 bản đồ cổ Hoàng Sa và Trung Quốc, cùng 3 sách atlas Trung Quốc mà ông Trần Thắng, Việt kiều Mỹ, sưu tập từ giữa năm 2012. Những bản đồ này đã được ông Thắng gửi tặng cho Việt Nam và UBND huyện đảo Hoàng Sa, Đà Nẵng.
Prevost Bellin, Đức, 1747, cho thấy lãnh thổ Trung Quốc chỉ dừng lại ở đảo Hải Nam. Ảnh: Trần Thắng.
20 bản đồ Hoàng Sa do các nước phương Tây và Việt Nam vẽ, từ năm 1618 đến 1859, chứng minh vùng quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Trong khi đó, 20 bản đồ các nước phương Tây vẽ về Trung Quốc từ năm 1626 đến 1980, cho thấy miền Nam của Trung Quốc chỉ dừng lại ở đảo Hải Nam. Hai sách bản đồ Atlas, một cuốn do Nhà nước Trung Hoa phát hành tại Nam Kinh năm 1933, cuốn còn lại do Phái bộ truyền giáo Trung Quốc phát hình tại Anh năm 1908 cũng chỉ rõ lãnh thổ nước này dừng lại ở Hải Nam.
Giáo sư Carl Thayer, chuyên gia người Australia nghiên cứu các vấn đề về Biển Đông, từng nhận xét bộ sưu tập của ông Trần Thắng cho thấy những mâu thuẫn trong tuyên bố của Trung Quốc về cái gọi là "chủ quyền không thể tranh cãi" đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ông Trần Thắng (bìa phải) và Giáo sư Carl Thayer tại Hội thảo.
Trao đổi với VnExpress, ông Trần Thắng, chủ tịch Viện văn hóa - giáo dục Việt Nam (IVCE), cho biết các học giả tham dự hội thảo đều cho rằng, hiện chưa có sách hoặc công trình nghiên cứu về Hoàng Sa và Trường Sa được viết bằng tiếng Anh được phát hành rộng rãi. Điều này khiến các học giả quốc tế than phiền rằng họ không có tài liệu để nghiên cứu.
"Việt Nam được một số học giả quốc tế tranh đấu bảo vệ lợi ích Biển Ðông. Chính phủ Việt Nam cũng cần lập ra quỹ về Biển Ðông để tạo mọi điều kiện phát triển thông tin về Biển Ðông. Từ nguồn ngân sách này, có thể dùng dịch sách, các công trình nghiên cứu, phim tài liệu và tài liệu về Biển Ðông sang tiếng Anh và tiếng Trung Quốc", ông Thắng nói và cho rằng quỹ Biển Ðông cũng sẽ hỗ trợ cho các công trình nghiên cứu Biển Ðông.
The Atlas of The World, Johnsons Atlas, New York, 1869. cũng cho thấy chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa thuộc Việt Nam. Ảnh: Trần Thắng.
Hiện Trung Quốc và các nước trong khối Ðông Nam Á tăng cường phát triển quân sự, có nghĩa là phát triển "sức mạnh cứng". Cái giá phát triển sức mạnh cứng là hàng tỷ tỷ USD, trong khi giá thành phát triển sức mạnh mềm như đầu tư nghiên cứu Biển Đông chỉ vài triệu USD. "Ðiều quan trọng của sức mạnh mềm là gìn giữ được hoà bình trong khu vực trong các cuộc xung đột về Biển Ðông", ông Thắng nói.
"Tôi nghĩ Chính phủ cần phải công khai giải pháp cụ thể về Biển Đông. Ví dụ như trường hợp Philippines họ chọn giải pháp về môi trường biển và giá trị pháp lý về đường lưỡi bò để chống lại Trung Quốc tại tòa án quốc tế, và giải pháp này được công khai trong nước và cả thế giới", ông cho biết thêm.
Ông Trần Thắng tốt nghiệp kỹ sư cơ khí tại University of Connecticut và làm việc cho công ty động cơ máy bay Pratt & Whitney từ năm 2000. Ông đồng thời là Chủ tịch Viện văn hóa - giáo dục Việt Nam (IVCE) tại New York, nhằm phát huy giáo dục Mỹ tại Việt Nam và giới thiệu văn hóa Việt Nam tại các ÐH Mỹ.
Năm 2012, ông Trần Thắng sưu tầm 150 bản đồ cổ Trung Hoa, bản đồ Hoàng Sa và 3 sách atlas Trung Hoa chứng minh chủ quyền biển đảo Việt Nam. Với đóng góp này, ông nhận được bằng khen của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Bộ Thông tin và Truyền thông, Ủy Ban biên giới - Bộ Ngoại giao, UBND thành phố Ðà Nẵng.

GIÁM SÁT NHỮNG VẤN ĐỀ TỪ CUỘC SỐNG

 Ngay trong ngày họp đầu tiên của kỳ họp thứ ba, các đại biểu Quốc hội đã dành thời gian nghe đánh giá kết quả thực hiện Chương trình giám sát năm 2021 và bước đầu triển khai Chương trình giám sát năm 2022, nghe trình bày Tờ trình dự kiến Chương trình giám sát của Quốc hội năm 2023.

Các đại biểu cơ bản tán thành những nội dung đánh giá trong Tờ trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và cho rằng tờ trình được chuẩn bị kỹ lưỡng, công phu; đồng thời nhất trí với đánh giá kết quả thực hiện Chương trình giám sát năm 2021, việc xây dựng chương trình và kết quả bước đầu thực hiện Chương trình giám sát năm 2022 cũng như dự kiến Chương trình giám sát năm 2023.
Bên hành lang Quốc hội và thảo luận tại hội trường, nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng, những đổi mới trong hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong năm qua tiếp tục nhận được sự quan tâm, đồng thuận của cử tri, nhân dân cả nước và các cơ quan, địa phương. Đáng chú ý, vào tháng 11/2021, lần đầu tiên trong nhiệm kỳ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tổ chức Hội nghị toàn quốc để triển khai chương trình giám sát chuyên đề.
Thực tế thời gian qua cho thấy, hoạt động giám sát chuyên đề có nhiều đổi mới, như: không xác định đơn vị được giám sát ngay từ đầu mà căn cứ vào báo cáo của các đơn vị chịu sự giám sát và kết quả giám sát của 63 Đoàn đại biểu Quốc hội để từ đó lựa chọn đơn vị được giám sát. Công tác chuẩn bị giám sát kỹ lưỡng, chuẩn bị từ sớm, từ xa và có sự phối hợp chặt chẽ với cơ quan kiểm toán, thanh tra để nâng cao hiệu quả giám sát chuyên đề. Nhiều báo cáo về tình hình, kết quả thực hiện các chương trình, dự án được dư luận xã hội và cử tri, đại biểu Quốc hội quan tâm được báo cáo tại kỳ họp để Quốc hội xem xét, thảo luận.
Một nội dung quan trọng của giám sát được thực hiện hiệu quả hơn, đó là thông qua giám sát đã kịp thời phát hiện và có các kiến nghị để phát huy điểm tích cực, điều chỉnh, bổ sung, giảm những hệ lụy nảy sinh từ chính sách và kịp thời chấn chỉnh những sai sót, khuyết điểm trong quá trình thực hiện. Các lĩnh vực được lựa chọn để đưa vào chất vấn các thành viên Chính phủ trong các kỳ họp qua đã đúng và trúng những vấn đề nóng, đã bám sát thực tiễn, hơi thở cuộc sống, đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân và cử tri.
Liên quan hoạt động giám sát và chất vấn, trong đó có nội dung giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân, Tổng Thư ký Quốc hội Bùi Văn Cường cho rằng, vẫn còn có biểu hiện né tránh, đùn đẩy, dẫn đến đơn thư nhiều, khiếu nại vượt cấp, đông người còn phức tạp. Đồng chí gợi ý Ban Dân nguyện có thể đề nghị Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội bố trí phiên họp để chất vấn bộ trưởng, trưởng ngành và nếu cần thì mời cả chủ tịch UBND một số tỉnh, thành phố có nhiều đơn thư, nhiều vụ việc chưa được giải quyết… tham gia làm rõ những vấn đề đang vướng mắc.
Đây là một đề xuất nhận được nhiều sự quan tâm của các đại biểu Quốc hội và cần được nghiên cứu, xem xét để sớm triển khai trong thực tế; bởi đối với những vấn đề nóng, cấp bách, khó khăn ở cơ sở, chủ tịch UBND tỉnh là một trong những người đứng đầu nắm rõ nhất, hiểu sâu nhất.
Từ thực tế giám sát ở các tỉnh, thành phố, một số đại biểu Quốc hội cho biết, công tác giám sát luôn được các đại biểu dân cử quan tâm và mong muốn làm tốt. Tuy nhiên, quá trình thực hiện còn gặp những khó khăn, hạn chế, như: số lượng chuyên gia ở địa phương liên quan lĩnh vực giám sát rất hạn chế; việc có được các tài liệu của kiểm toán, thanh tra ở địa phương còn rất khó khăn…
Đáng chú ý, một số vấn đề giám sát ở địa phương nhưng không thuộc thẩm quyền giải quyết của chính quyền địa phương mà thuộc thẩm quyền của trung ương, cho nên khó đưa ra kết luận. Do đó, cần có đề cương giám sát riêng cho địa phương, cho phép địa phương lựa chọn một số nội dung cụ thể trong nội dung chung của Đoàn giám sát phù hợp tình hình ở địa phương để tiến hành giám sát.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã lựa chọn 4 chuyên đề trình Quốc hội xem xét, quyết định tổ chức giám sát trong năm 2023 gồm: việc sử dụng các nguồn lực phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid-19, việc thực hiện chính sách, pháp luật về y tế cơ sở, y tế dự phòng; các chương trình mục tiêu quốc gia; đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông; phát triển năng lượng giai đoạn 2016-2021… Các nội dung được lựa chọn này là đúng, trúng, quan trọng, mang tính thời sự và đáp ứng mong muốn của cử tri, nhân dân.

LỜI BÁC DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: “Tiền đồ của mỗi người nằm trong tiền đồ của cách mạng, của dân tộc”.

 Câu nói trên trích trong bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Đại hội chiến sĩ thi đua ngành thương nghiệp lần thứ nhất được tổ chức từ ngày 31 tháng 5 đến ngày 05 tháng 6 năm 1956, tại Hà Nội. Tham dự Đại hội có 354 đại biểu là chiến sĩ thi đua và đại diện cho các đơn vị tiên tiến thuộc ngành thương nghiệp cả nước.

Lời của Bác, khẳng định lợi ích của dân tộc phải được đặt lên trước lợi ích của cá nhân. Thực tiễn đã chứng minh, nước độc lập thì ai cũng được tự do; nếu mất nước thì ai cũng làm nô lệ. Cách mạng giải phóng dân tộc giành được thắng lợi, không chỉ dân tộc được giải phóng mà các giai cấp, tầng lớp trong xã hội cũng được giải phóng. Quan điểm đó đã góp phần khơi dậy, phát huy sức mạnh của mỗi cá nhân và cả cộng đồng đóng góp cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Quan điểm trên của Người, tiếp tục được Đảng ta vận dụng vào đường lối lãnh đạo cách mạng Việt Nam; toàn bộ hoạt động của Đảng đều xuất phát và phục vụ lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Hiện nay, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên sa sút về phẩm chất đạo đức, phai nhạt lý tưởng cách mạng, quá coi trọng đến lợi ích cá nhân, đã và đang làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ, thì việc nắm vững những quan điểm của Người về đặt lợi ích chung của dân tộc, của Đảng, của nhân dân lên trên lợi ích của cá nhân có giá trị thực tiễn sâu sắc; là nội dung, phương hướng rèn luyện đạo đức của mỗi người theo tư tưởng, tấm gương đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh.
Quân đội ta là đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, sẵn sàng chiến đấu hy sinh “vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân”, cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân luôn thấm nhuần lời dạy của Bác về việc phải biết đặt lợi ích của đất nước lên trên, lên trước lợi ích của cá nhân, kiên định với mục tiêu, con đường cách mạng mà Đảng và Bác đã lựa chọn; quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nêu cao ý chí, quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; luôn chủ động tham gia đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn "diễn biến bình" của các thế lực thù địch; nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng là lực lượng nòng cốt trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

CHUYÊN GIA VIỆT NAM CHIẾN THẮNG TẠI CUỘC THI TẤN CÔNG MẠNG HÀNG ĐẦU THẾ GIỚI

 Cuộc thi tấn công mạng hàng đầu thế giới, Pwn2Own, vừa công bố, hai cao thủ bảo mật thuộc Công ty An ninh mạng Viettel (Viettel Cyber Security) - thành viên của Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel) đã xuất sắc giành chiến thắng tại Pwn2Own Vancouver 2022.

Cuộc thi có sự góp mặt của hơn 20 cao thủ thuộc “top” đầu thế giới, đến từ những hãng công nghệ nổi tiếng như: STAR Labs, Sea Security,…
Tham dự cuộc thi năm nay, 2 chuyên gia của Viettel đã giành thắng lợi tại hạng mục Local Elevation of Privilege (Leo thang đặc quyền) với mục tiêu là Microsoft Windows 11.
Đây là lần thứ 3, cao thủ bảo mật Viettel được vinh danh tại cuộc thi này. Trước đó tại Pwn2Own Tokyo 2020, Viettel cũng có 2 cao thủ giành chiến thắng khi chiếm quyền điều khiển SmartTV Samsung và Sony, và tại Pwn2Own Vancouver 2021, 2 chuyên gia khác cũng đã khai thác thành công các lỗ hổng trên hệ điều hành Windows 10 và Microsoft Exchange Server.
Hai cao thủ được vinh danh tại cuộc thi năm nay là Đào Trọng Nghĩa (sinh năm 1998) và Trần Hữu Phúc Vinh (sinh năm 2000).
Đào Trọng Nghĩa là một trong những chuyên gia an ninh mạng đã từng phát hiện hơn 12 lỗ hổng bảo mật quan trọng của hệ điều hành Windows. Đây là năm thứ hai liên tiếp Nghĩa tham gia và được vinh danh tại cuộc thi Pwn2Own. Trong khi đó, Trần Hữu Phúc Vinh lần đầu tiên tham gia cọ sát tại đấu trường thế giới.
Pwn2Own là cuộc thi tấn công mạng uy tín và lớn nhất thế giới được hãng bảo mật TrendMicro tài trợ và Zero Day Initiative tổ chức thường niên từ năm 2007. Tại đây, các hãng công nghệ nổi tiếng sẽ đem các sản phẩm của mình làm mục tiêu, các hacker sẽ thể hiện kỹ năng của mình để tấn công, khai thác phần mềm hoặc thiết bị, qua đó các nhà sản xuất có thể khắc phục ngay lập tức những sai số, nâng cao tính bảo mật giúp đảm bảo an toàn thông tin cho khách hàng sử dụng.
Pwn2Own 2022 được tổ chức tại Vancouver, Canada tập trung nhắm mục tiêu tìm ra những lỗ hổng trên các nền tảng hệ điều hành lớn gồm: Windows 11, Microsoft Teams, Ubuntu Desktop, Mozilla Firefox, Apple Safari, Oracle VirtualBox, Tesla,.. Pwn2Own Vancouver 2022 kết thúc tới 17 cuộc khai thác lỗ hổng thành công, trao thưởng 1.155.000 USD cho các hacker mũ trắng và các nhà nghiên cứu bảo mật.