Chủ Nhật, 7 tháng 8, 2022
HẠ CÁNH BẰNG BỤNG!
KỶ NIỆM NGÀY SINH ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO
Ngày 8-8-1921: Ngày sinh đồng chí Lê Quang Đạo
Đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Một là, đó là nhà nước của dân, do dân và vi dân; tái cá quyèn lực nhà
nước thuộc về nhân dân.
Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, cỏ sự phản cóng, phối hợp và
kiổm soát chặt chõ giữa các cơ quan nhả nưỏc trong việc thực hiộn các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
Ba là, Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp
luật và bảo đảm cho Miến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong viộc
điều chỉnh các quan hộ thuộc tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội.
Bổn là, Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân;
nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dán; thực hành dân chủ, đồng
thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.
Năm là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sàn Việt Nam lãnh đạo, đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận.
Chức năng cơ bản của nhà nước
Có nhiều cách tiếp
cận khác nhau về chức năng của nhà nước: Từ phạm vi của
nhà nước: có chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Từ tính chất quyền lực chính trị: có chức năng thống trị chính trị
giai cấp và chức năng xã hội. Từ tính chất và nhiệm vụ của nhà nước:
có chức năng trấn áp và tổ chức xây dựng. Từ
chức năng cơ bản của bộ máy nhà nước trung ương: có chức năng lập pháp, chức
năng hành pháp và chức năng tư pháp. Từ đời
sống xã hội: có chức năng kinh tế, chức năng chính trị, chức năng văn hoá
tư tưởng, chức năng xâm lược và chống xâm lược. Nhà nước có các chức năng sau:
Chức
năng thống trị chính trị của giai cấp
và chức năng xã hội. Chức
năng thống trị chính trị của giai cấp (chức năng giai cấp): là chức năng nhà nước
làm công cụ chuyên chính của một giai cấp nhằm bảo vệ sự thống trị của giai cấp
đó đối với toàn xã hội. Chức năng thống
trị chính trị của giai cấp bắt nguồn từ lý do ra đời của nhà nước,
phản ánh bản chất giai cấp sâu sắc của nhà nước. Thực hiện chứng năng này ở nhà
nước khác nhau cũng khác nhau.
Chức năng xã hội (chức năng công quyền):
thực hiện sự quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, thoả mãn một
số nhu cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nhà nước. Tuy
nhiên, thực hiện chứng năng này ở nhà nước khác nhau nó cũng khác nhau, và một
giai cấp, ở những giai đoạn khác nhau, chứng năng xã hội của nhà nước cũng khác
nhau.
Chức năng đối nội và đối ngoại . Chức năng đối nội của
nhà nước nhằm duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị và những trật tự khác
hiện có trong xã hội theo lợi ích của giai cấp thống trị. Thông thường điều đó
phải được pháp luật hóa và được thực hiện nhờ sự cưỡng bức của bộ máy nhà nước.
Ngòai ra, nhà nước còn sử dụng nhiều công cụ, phương tiện khác khác (bộ máy
thông tin,tuyên truyền, các cơ quan văn hóa, giáo dục, v.v.) để xác lập, củng cố
tư tưởng, ý chí của giai cấp thống trị, làm cho chúng trở thành chính thống
trong xã hội. Chức năng đối ngoại của nhà nước nhằm bảo vệ biên giới
lãnh thổ quốc gia và thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với
các nước khác vì lợi ích của giai cấp thống trị và lợi ích quốc gia, - khi lợi
ích quốc gia không mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị.
Đặc trưng cơ bản của nhà nước
Thứ nhất: Nhà nước quản lý dân cư trên một lãnh thổ nhất định và là chủ thể đại diện duy nhất cho
chủ quyền quốc gia trong quan hệ đối ngoại. Khác tổ chức thị tộc, bộ lạc thời nguyên thủy được
hình thành trên cơ sở những quan hệ huyết thống, nhà nước được hình thành trên
cơ sở phân chia dân cư theo lãnh thổ
mà họ cư trú. Quyền lực nhà nước có hiệu lực đối với mọi thành viên sinh sống
trên địa bàn ấy không phân biệt huyết thống. Đặc trưng này làm xuất hiện mối
quan hệ giữa từng người trong cộng đồng nhà nước. Mỗi nhà nước được xác định bằng
một biên giới quốc gia nhất định.
Thứ hai: Nhà nước có một bộ máy
quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội. Bộ máy quyền lực nhà nước bao gồm:
đội vũ trang đặc biệt (quân đội, cảnh sát, nhà tù...) và bộ máy quản lý hành
chính từ trung ương đến địa phương. Nhà nước thực hiện quyền lực của
mình trên cơ sở sức mạnh cưỡng bức của
pháp luật và dùng các thiết chế bạo lực để pháp luật của mình được thực
hiện trong thực tế. Nhà nước ban
hành pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật, chỉ có nhà nước mới có quyền
ban hành pháp luật và chính nhà nước bảo đảm cho pháp luật được thực thi.
Thứ ba: Nhà nước hình thành hệ thống thuế
khoá để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị. (Thuế là nguồn thu chính của
nhà nước). Do thoát ly sản xuất, nên để tồn
tại, nhà nước phải dựa vào thuế khoá, quốc trái và các hình thức bóc lột khác
có tính chất cưỡng chế để nuôi sống bộ máy cai trị. Vì vậy, nhà nước của giai cấp bóc lột không những
là công cụ trấn áp giai cấp mà còn là công cụ thực hiện sự bóc lột các giai cấp
bị áp bức.
Quan điểm triết học Mác – Lênin về bản chất của Nhà nước
C. Mác và
Ph. Ăngghen khẳng định: “Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp
này dùng để trấn áp một giai cấp khác”(2). Như vậy, bản chất của nhà nước là một cơ quan thống
trị giai cấp, là nền chuyên chế của giai cấp này đối với giai cấp khác và đối với
toàn xã hội.
Thứ nhất, nhà nước là nền chuyên chế của giai
cấp thống trị, do giai cấp thống trị tổ chức và xây dựng nên.
Giai cấp thống trị là giai cấp có đầy đủ các điều
kiện kinh tế, vật chất để tổ chức và thành lập nên nhà nước. Giai cấp thống trị
về kinh tế tổ chức ra nhà nước và sử dụng nhà nước để thống trị cả về mặt chính
trị. Do đó, nhà nước là nhà nước của giai cấp thống trị, còn giai cấp bị trị,
xét về bản chất, không có nhà nước.
Ph. Ăngghen
viết: “Vì nhà nước xuất hiện từ yêu cầu phải kiềm chế giai cấp, xuất hiện đồng
thời trong các cuộc xung đột giai cấp, cho nên, theo quy luật chung, nó là nhà
nước của một giai cấp mạnh nhất giữ địa vị thống trị về mặt kinh tế và nhờ có
nhà nước, giai cấp này thống trị cả về
chính trị”.
Thứ hai, nhà nước chẳng qua chỉ là một
công cụ bạo lực của giai cấp thống trị dùng để bóc lột và trấn áp sự phản kháng
của các giai cấp, từng lớp khác trong xã hội, nhằm giữ vững một trật tự xã hội
hiện hành.
Nhà nước không phải là một tổ chức đứng trên giai cấp, đứng ngoài giai cấp,
do thần thánh lập nên, mà là một tổ chức bạo lực do giai cấp thống trị tổ chức
ra và sử dụng như một công cụ để duy trì sự thống trị và bảo vệ quyền lợi của
giai cấp thống trị trong xã hội. Theo V. I. Lênin, toàn bộ các nhà nước xuất hiện
trong lịch sử từ trước đến nay đều là cơ quan thống trị của giai cấp thống trị
xã hội: “Chẳng những nhà nước thời cổ và nhà nước phong kiến là cơ quan thống
trị của chủ nô và địa chủ để bóc lột nô lệ và nông nô, mà cả nhà nước đại nghị
cũng là công cụ để giai cấp tư sản bóc lột GCVS”(1).
Thứ ba, nhà nước là một bộ phận quan trọng đặc biệt
của kiến trúc thượng tầng xã hội, nó phản ánh cơ sở hạ tầng xã hội. Do đó,
nhà nước là công cụ vật chất để giai cấp thống trị thực hiện việc bảo vệ, duy
trì và củng cố cơ sở hạ tầng cũng như toàn bộ chế độ kinh tế trong xã hội.
Thứ tư, trong những điều kiện lịch sử nhất định của cuộc
đấu tranh giai cấp và CMXH, khi chưa có giai cấp nào giành thắng lợi thì nhà nước
như là một tổ chức trung lập của các giai cấp, song cuối cùng nó cũng thuộc về
một giai cấp nhất định.
Từ nguồn
gốc, bản chất của nhà nước, có thể định nghĩa về nhà nước như sau:
Nhà nước là tổ chức
chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp
sự phản kháng của các giai cấp khác trong xã hội.
Ph. Ăngghen viết: “Nhà nước chẳng qua chỉ là bộ máy trấn áp của
một giai cấp này đối với một giai cấp khác, điều đó, trong chế độ cộng hoà dân
chủ cũng hoàn toàn giống như trong chế độ quân chủ vậy”[1].
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh về nguồn gốc của Nhà nước
Một là, trong xã hội cộng sản nguyên thủy, không
có nhà nước, dù có tổ chức quyền lực do nhân dân bầu ra. Tổ chức xã hội là thị tộc, bộ lạc, đứng đầu
là tộc trưởng, hội đồng tộc trưởng và thủ lĩnh quân sự do nhân dân bầu ra. Quyền
lực của những người đứng đầu thuộc về uy tín và đạo đức; việc điều chỉnh các
quan hệ xã hội được thực hiện bằng quy tắc chung. Quyền lực chưa mang tính
chính trị, và phục vụ
cho mục đích chung, không sử dụng bạo lực. Đó là một thể chế tự quản của nhân
dân. Quản lý xã hội chứ không cai trị xã hội. Ph.
Ăngghen viết: “Với tất cả tính ngây
thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc quả là một tổ chức tốt đẹp biết bao!
Không có quân đội hiến binh, không có quý tộc, vua chúa, tổng đốc, trưởng quan
và quan toà, không có nhà tù, không có những vụ xử án, thế mà mọi việc đều trôi
chảy”[1].
Hồ Chí
Minh: “Nhà nước là gì? Trải mấy muôn năm, xã hội cộng sản nguyên thuỷ
không có chế độ tư hữu, không có sự bóc lột, không có giai cấp, thì không có
nhà nước. Từ khi có chế độ tư hữu, người giàu thành giai cấp bóc lột, người
nghèo thành giai cấp bị bóc lột. Giai cấp người giàu xây dựng bộ máy thống trị
gồm có chính phủ, quân đội, toà án, cảnh sát... Bộ máy ấy gọi là nhà nước đẻ thống
trị giai cấp bị bóc lột”[2].
Hai là, nhà nước chỉ xuất hiện
khi công xã nguyên thuỷ tan rã và xã hội
có sự phân chia thành giai cấp đối kháng: giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Bởi
vì: Do lực lượng sản xuất phát triển, dẫn đến
sự ra đời của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, xã hội phân chia thành giai cấp
đối kháng, chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã, chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời.
Trong cuộc đấu tranh giai cấp một mất một còn, giai cấp thống trị với một lực
lượng nhỏ không thể tồn tại trước sức mạnh của quảng đại quần chúng nhân dân,
buộc chúng phải tổ chức ra bộ máy quyền
lực chính trị, nhằm tập trung sức mạnh kinh tế, quân sự, pháp luật để
duy trì trật tự bóc lột và đè bẹp
sự phản kháng của quần chúng. Công cụ bạo lực đó là nhà nước. Nhà nước chủ nô là tổ chức chính quyền nhà nước
xuất hiện đầu tiên trong lịch sử. Các nhà nước tiếp theo là nhà nước phong kiến,
nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, nhà nước không phải là cái vốn
có, cái được áp đặt từ bên ngoài, cũng không phải do ý muốn chủ quan của một cá
nhân hay một giai cấp, mà là một hiện tượng lịch sử, có nguồn gốc hiện thực từ
tiền đề kinh tế và chính trị - xã hội. Nguyên nhân sâu xa từ kinh tế là chế độ
tư hữu về tư liệu sản xuất; nguyên nhân trực tiếp là mâu thuẫn giai cấp không
thể điều hoà.
Về hội nhập quốc tế và tham gia tiến trình toàn cầu hóa của Việt Nam
Quan điểm triết học Mác - Lênin về nguồn gốc ra đời của Nhà nước
Nhà nước là một hiện tượng lịch sử, ra đời, tồn tại trong một giai đoạn nhất định của
sự phát triển xã hội và mất đi khi những cơ sở tồn tại nó không còn nữa. Nhà nước
ra đời từ 4 nguyên nhân sau:
Thứ nhất: Sự phát triển của lực lượng sản
xuất đưa đến kết quả song trùng: chế độ tư hữu tư nhân và tình trạng người bóc
lột người.
Thứ
hai: Do sự dư thừa sản phẩm tiêu dùng, xuất hiện khát vọng chiếm đoạt, kẻ có
quyền lực vơ vét của dư, dẫn đến sự phân hoá giai cấp.
Thứ ba: Do những cuộc chiến tranh ăn cướp
giữa các thị tộc, bộ lạc làm cho quyền lực của các thủ lĩnh được củng cố và
tăng cường hình thành tổ chức nhà nước.
Thứ tư: Cơ quan tổ chức thị tộc, bộ lạc
dần dần tách khỏi nhân dân trở thành cơ quan quyền lực đối lập nhân dân, nhà nước
ra đời. Từ chỗ là công cụ của nhân dân trở thành cơ quan áp bức, đàn áp nhân
dân. Ph. Ăngghen viết:
“Lúc đầu xã hội, bằng sự phân công đơn
giản trong lao động, thiết lập ra những cơ quan đặc thù để bảo vệ những lợi ích chung của mình. Nhưng với thờ gian, các cơ
quan ấy, mà cơ quan chủ chốt là chính quyền nhà nước, do phục vụ lợi ích riêng
của mình, đã từ chỗ là tôi tớ của xã hội biến thành chủ nhân xa xã hội”(1).
Tóm lại, nhà nước xuất hiện khi xã hội xuất hiện chế độ chiếm hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất (tư hữu), và sự xuất hiện giai cấp với những đối
kháng, những mâu thuẫn không thể điều hoà được. Trong đó chế độ tư hữu là nguyên nhân sâu xa,
nguyên nhân kinh tế quyết định sự ra đời của giai cấp và sau đó là nhà nước.
Giai cấp nào có quyền lực về kinh tế thì có quyền thành lập nhà nước để bảo vệ
lợi ích của giai cấp đó. Nguyên nhân
trực tiếp là sự xuất hiện giai cấp với những mâu thuẫn giai cấp không thể điều
hoà được. Cuộc đấu tranh giai cấp đòi hỏi phải có một tổ chức, với sức mạnh
bạo lực, ra đời để trấn áp những cuộc đấu tranh đó. Nếu không có một tổ chức đặc
biệt với sức mạnh bạo lực thì các cuộc đấu tranh sẽ dẫn đến nguy cơ huỷ hoại xã
hội. Ph. Ăngghen viết: “Nhà nước là sản
phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được”(13). V. I. Lênin phát triển thêm: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những
mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng
nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được,
thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những
mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà được”(1).
Như vậy, nhà nước không phải là một
cơ quan điều hoà mâu thuẫn giai cấp, mà sự xuất hiện nhà nước chứng tỏ những mâu thuẫn giai cấp là không
thể điều hoà được.
Nhà nước ra đời không phải để xoa dịu mâu thuẫn
giai cấp, mà chính là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp. Sự tồn tại của nhà
nước phản ánh những đối kháng giai cấp trong xã hội. Và sự tồn tại của nhà nước
là để kiềm chế các đàn áp cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp bị trị chống lại
giai cấp thống trị bóc lột trong xã hội. Sự ra đời của nhà nước là một tất yếu
khách quan để làm dịu sự xung đột giai cấp, để làm cho sự xung đột ấy diễn ra
trong vòng “trật tự”, nhằm duy trì một chế độ trong đó cho phép giai cấp này được quyền bóc lột giai cấp
khác.