Thứ Hai, 8 tháng 8, 2022
Những nhận thức mới về giai cấp công nhân hiện nay
TRÒ HỀ CỦA CÁC "NHÀ DÂN CHỦ FAKE"
Cuộc xung đột Nga - Ukraine diễn ra đã 5 tháng, nhưng những cái đầu nóng
của các bên có vẻ chưa chịu giảm nhiệt. Dầu của phương Tây vẫn đổ lửa vào
Ukraine khi vũ khí và các phương tiện chiến tranh vẫn được đổ về nước này. Ngay
từ những ngày đầu xảy ra cuộc chiến, Việt Nam đã bày tỏ quan điểm: Việt Nam kêu
gọi các bên kiềm chế, ngồi vào bàn đàm phán; Việt Nam phản đối chiến tranh;
Việt Nam không chọn “phe” và chỉ chọn hòa bình, chính nghĩa. Bài viết này chưa
đề cấp đến tính đúng - sai, ai mạnh - yếu trong cuộc xung đột này, mà chỉ đề
cập đến một vài trò hề của một số diễn viên không chuyên, khoác áo dân chủ,
nhân quyền ở Việt Nam - một số “Nhà dân chủ fake”.
Đầu tiên phải kể đến vở “hài kịch” mang tên “Lá thư ngỏ” do mấy diễn viên
đã qua tuổi “Thất thập cổ lai hy” công diễn. Cụ thể, ngày 3/3/2022, ba cụ
Nguyễn Khắc Mai, Nguyễn Đình Cống và Mạc Văn Trang lấy danh nghĩa phản đối
chiến tranh, yêu chuộng hòa bình đã lọ mọ, dò dẫm chống gậy đến Đại sứ quán
Ukraine, trao thư ngỏ bày tỏ sự đồng tình, sát cánh cùng chính phủ và nhân dân
Ukraine. Các cụ phán rằng, mình là đại diện cho gần 170 thành viên thuộc 6 hội,
nhóm mà họ gọi là các “tổ chức xã hội dân sự” tại Việt Nam. Danh sách mà các cụ
trưng ra trong các nhóm mình tham gia cho thấy, toàn là những “chàng trai vàng
trong làng chống phá”. Họ đều là những cái tên vang bóng một thời đã từ lâu trờ
thành những kẻ cơ hội chính trị, động cơ thấp hèn không đạt được nên chuyển qua
bất mãn, nói xấu chế độ, tiếp tay cho các thế lực thù địch.
Có thể
điểm vài cái tên như Nguyễn Quang A - thành viên nhóm “Diễn đàn dân sự xã hội”,
từng có tuyên bố hùng hồn “tập hợp ý kiến góp phần chuyển đổi thể chế chính trị
của nước ta từ toàn trị sang dân chủ một cách ôn hòa”. Hay Nguyên Ngọc - thành
viên sáng lập nhóm “Văn đoàn độc lập”, từng là nhà văn nổi tiếng, nay trở cờ
quay lại chống đối chế độ, chống phá Đảng, Nhà nước. Hoặc như Phạm Xuân Yên,
quản trị trang Bauxit Việt Nam đã từng cùng 126 “nhà dân chủ” khác gửi thư ngỏ
đến Bộ Chính trị đòi đổi tên Đảng, đổi tên nước, trả tự do cho những kẻ vi phạm
pháp luật mà họ gọi là “bất đồng chính kiến”… Và còn nhiều tên khá quen thuộc
mà khi nhắc đến người ta đều hình dung ra quá khứ không mấy tốt đẹp của họ như
Lê Thân, Nguyễn Xuân Lướt, Nguyễn Lân Thắng, Đoàn Bảo Châu…
Trở lại nội dung “Lá thư ngỏ”, đậy chính là một trò hề không thể rẻ tiền
hơn. Những người mang mác dân chủ nhưng là dạng “dân chủ fake” đã cao giọng đại
diện cho nhân dân Việt Nam khi viết rằng: “Người Việt Nam chúng tôi thấu hiểu
cái giá mà Ukraine phải trả để giữ vững chủ quyền và nền dân chủ của mình trước
Chủ nghĩa bá quyền Putin. Chúng tôi cũng hiểu rằng, bảo vệ Ukraine lúc này
không chỉ là bảo vệ hòa bình mà còn là bảo vệ một nền dân chủ non trẻ vừa mới
thoát ra khỏi quá khứ độc tài”. Thật buồn cho các vở hài kịch mà các cụ diễn
bấy lâu nay, “đấu tranh” mãi không thấy ai nghe, lại còn bị người ta gán cho là
“ếch ngồi đáy giếng”, “ếch chết tại miệng” nên lợi dụng xung đột tại Ukraine,
các cụ “đại diện cho người dân Việt Nam” phát ngôn càn rỡ, bậy bạ. Cần nhắc với
các cụ nhớ một điều rằng: các hội nhóm mà các cụ tự xưng là đại diện chưa bao
giờ được pháp luật công nhận, mà đó chính là tập hợp những phần tử ô hợp có tư
tưởng bất mãn chế độ, sử dụng nhiều chiêu trò, thủ đoạn xuyên tạc, kích động,
tổ chức nhiều hoạt động chống đối, bôi nhọ Đảng, Nhà nước, cổ súy cho những giá
trị tự do, dân chủ phương Tây. Xét về nhân cách, phẩm chất, các cụ và các ông
bà lấy tư cách gì đại diện cho người dân Việt Nam, ngoài động cơ chính trị thấp
hèn. Còn nói “thoát khỏi quá khứ độc tài” như các cụ “trăn trở” thì hàm ý ở đây
phải chăng chính là sự rời khỏi Liên bang Xô viết của Ukraine? Một chế độ đã
cứu cả nhân loại thoát khỏi thảm họa diệt chủng của Chủ nghĩa Phát xít?
Một trò hề nữa, mang tên “hội chợ từ thiện” nhằm quyên góp cho Chính phủ và
người dân Ukraine. Nó lố là ở chỗ, dù mang tên “lễ hội” nhưng không hề quảng bá
về đất nước, con người Ukraine mà chiêu trò này để tạo cớ cho các nhà “dân chủ,
nhân quyền” bày tỏ sự ủng hộ Ukraine trong cuộc xung đột và nhân cơ hội đó tiếp
tục tạo một cái cớ khác là “các nhà dân chủ bị chặn không đến được sự kiện do
đại sứ quán Ukraine tổ chức”. Theo VOA thì “các nhà hoạt động cho biết, họ đã
bị an ninh “canh cửa” và “ngăn cản” không cho đến tham gia sự kiện này”! Vở hài
kịch này bắt đầu bằng việc “các nhà dân chủ cho rằng”, “các nhà dân chủ phản
ánh rằng”… mà không hề có hình ảnh, video để chứng minh cho nội dung đó, mà chỉ
có những hình ảnh được cắt ghép, chỉnh sửa từ những video, hình ảnh cũ hoặc
chỉnh sửa, thêm thắt nội dung hình ảnh có thật theo ý đồ để chèo kéo, hướng lái
dư luận.
Nội dung của vở hài kịch là VOA thuật lại lời bà Phạm Thị Lân, vợ của tù
nhân Nguyễn Tường Thụy cho biết rằng: “Bà bị an ninh mặc thường phục canh giữ
trước cửa nhà từ hôm 5/3 mặc dù bà không có ý định đến tham dự sự kiện ở Đại sứ
quán Ukraine. Khi được hỏi, nhân viên an ninh nói với bà Lân rằng họ đến canh
nhà bà vì được chỉ đạo từ cấp trên”. Vậy thì cần phải đặt ra câu hỏi cho rõ
rang rằng: Canh giữ trước cửa nhà, cụ thể thế nào? Xin nói thẳng, đây đích thị
là một trò hề của VOA khi nêu ra câu chuyện này, bởi vì để theo dõi hay ngăn
cản việc di chuyển của một người đàn bà đã ngoại lục tuần thiết nghĩ người ta
không cần “canh cửa”. Chưa kể VOA chỉ dựa vào lời nói chủ quan và không kiểm chứng
của một phụ nữ để quy chụp vấn đề.
Một trò hề gần đây nhất, được mang tên “Tọa đàm văn hóa Ukraine bị phá
rối”. Theo Phạm Minh Hoàng tung tin giất tít trên mạng xã hội rằng là “Phá rối
buổi “tọa đàm” về văn hóa Ukraine Nhà nước CSVN thể hiện bản chất hèn hạ và
thấp kém”. Y bảo “sang đón bà Chi, thấy hai thằng đi kèm bà xuống sảnh, ngang
nhiên không cho bà đi” và khi diễn ra tọa đàm thì “không ai trong khán phòng
cảm thấy lạ lẫm và bất ngờ trước việc bị cúp điện”.
Có lẽ câu nói “tử tế thì có hạn, mà khốn nạn thì vô biên” mà Phạm Minh
Hoàng dẫn ra ngay đầu bài viết dành cho chính ông ta về sự vu vạ trắng trợn
này. Thứ nhất, vụ bà Chi của ông bị hai thằng kèm xuống sảnh, ngang nhiên không
cho đi thì thông tin này chỉ do chính mình ông kể, và không hề có một hình ảnh,
một nhân chứng nào. Nếu sự việc có thật, thì mạng xã hội đã tràn ngập ảnh, clip
về việc này chỉ trong vòng vài phút. Có lẽ đây chính là một sự bịa đặt trắng
trợn để tô vẽ vào câu chuyện khôi hài này. Thứ hai, nếu chỉ là các cháu khiếm
thị biểu diễn văn nghệ và các bác đọc thơ thì chắc chắn không ai bị điên mà đi
cúp điện, chắc ông lại nghe “nhà em nói”, và chỉ có “nhà em đành đi một mình
tới viện Sena”. Ngồi nhà, nghe lỏm mà Minh Hoàng tả như thật. Kinh quá!
Qua những trò hề kể trên đây đã thấy, cuộc xung đột nga - Ukraine lại tạo
công ăn việc làm cho những kẻ khoác áo “dân chủ fake”, nó là cái cớ để chúng
tung ra mọi thủ đoạn xuyên tạc, công kích đường lối chính sách của Đảng, Nhà
nước. Đó chỉ là chiêu trò “mượn gió bẻ măng” thường thấy của những diễn viên
không chuyên diễn trò hề dân chủ của những thành phần bất mãn, chống phá chế độ
mà thôi./.
Sử dụng mạng xã hội cần có tầm, có tuệ, có tâm
Mạng xã hội (MXH) là kênh giúp lan truyền, phổ biến rộng rãi các thông tin,
phản hồi, nắm bắt và định hướng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch;
ngăn chặn tin giả, bài viết, video clip có nội dung xấu, độc, xuyên tạc, bôi
đen sự thật; đồng thời, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của quần chúng, cư
dân mạng về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.
Hiện nay, bên cạnh mặt tích cực cần khai thác, MXH cũng đang có những tác
động, ảnh hưởng tiêu cực từ mặt trái của nó đến công tác truyền thông, định
hướng chính trị cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân. Điều này có thể nhận thấy
trên các điểm sau:
(1) MXH đang bị các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phản động triệt để
khai thác, sử dụng như một công cụ chủ yếu để thực hiện âm mưu, thủ đoạn “diễn
biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa”
quân đội, công an; tuyên truyền xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, kích động các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị
chĩa mũi nhọn tấn công, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ thông qua việc khai
thác, sử dụng, tung lên mạng các thông tin, bài viết, video clip có nội dung
xấu, độc về các sự kiện chính trị - xã hội, quốc phòng - an ninh - đối ngoại,
thổi phồng các hạn chế, khuyết điểm của một số cơ quan, đơn vị, biến nó thành
“vấn đề nóng” nhằm chống phá, hạ thấp uy tín, vai trò, vị thế của lãnh đạo
Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Quân đội, Công an; xuyên tạc bản chất, giá trị khoa
học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, lợi ích quốc gia - dân
tộc.
(2) Lợi dụng số lượng người dân Việt Nam sử dụng MXH tăng lên nhanh chóng
trong thời gian qua, không ít tài khoản ảo, nặc danh đã và đang gây nhiều khó
khăn cho công tác quản lý. Với các phương tiện thông tin hiện đại, chỉ là cái
điện thoại thông minh, ai cũng có thể trở thành người cung cấp thông tin cho
MXH, khiến cho MXH trở thành “cái chợ” bị cư dân mạng “lũng loạn, làm nhiễu môi
trường thông tin” thông qua việc tán phát các tin giả, tung bài viết, video
clip có nội dung xấu, sai lệch, làm cho nó phủ kín, lan tràn trên mạng xã hội
với đủ các chiêu trò, hình thức nhảm nhí được che đậy ngày càng tinh vi, xảo
trá. Tình trạng này đang làm cho các nguồn thông tin chính thống, tin thật bị
lấn át, bị lẫn lộn với tin giả.
Điều đó, đã và đang lôi kéo, thu hút, làm pha loãng bầu không khí chính trị
ở nước ta bởi tâm lý “đám đông”, các luồng thông tin, “dư luận xã hội” xấu. Sự
lây lan quan điểm, tư tưởng lệch lạc trong xã hội tạo thành các “đợt sóng”, các
luồng dư luận xã hội thiếu lành mạnh, không có lợi cho việc tuyên truyền chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước dẫn đến hiệu ứng
“tẩy chay”, “quay lưng”, “ném đá giấu tay”, phản đối các chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước, Quân đội, dù người phản đối chưa hiểu rõ các thông tin trên
MXH là thật hay giả, đúng hay sai, có lợi ích gì cho quốc gia - dân tộc và gia
đình mình.
(3) Sự xuất hiện của các luồng tin sai trái, độc hại, nhất là các video
clip xấu, độc lan tràn trên MXH đã và đang đặt ra sự cần thiết phải làm tốt hơn
công tác bảo mật thông tin, nhất là các thông tin chứa đựng bí mật quân sự,
quốc gia. Điều đáng quan tâm ở đây là một số tài khoản MXH của các tổ chức
Đảng, Nhà nước, Quân đội, Công an và của cán bộ công chức, viên chức, sĩ quan
quân đội, công an có thể bị tấn công hoặc bị xâm nhập trái phép, thậm chí bị
đánh cắp thông tin, các dữ liệu. Thế nhưng, không ít chủ thể, vì nhiều nguyên
nhân khác nhau, lại chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc vị trí, vai trò, tầm quan
trọng của việc bảo mật thông tin, đặc biệt là tác hại, mức độ nguy hiểm của
việc vô ý để lộ, lọt, đánh mất thông tin của cá nhân hoặc của tổ chức khi đăng
tải hình ảnh, thông tin về hoạt động của đơn vị trên mạng xã hội.
Sự thiếu chuyên nghiệp, chưa hiểu biết về “kỹ thuật máy tính”, “công nghệ
thông tin” và sự vô ý, tắc trách của chủ thể đã vô tình tiếp tay cho bọn cơ hội
chính trị, các phần tử xấu để những người này lợi dụng sơ hở ấy, khai thác, sử
dụng thông tin chế biến tin thật thành tin giả, đúng thành sai để chống lại
Đảng, Nhà nước, chế độ, gây nên tình trạng nhiễu loạn thông tin, dư luận xã hội
xấu, làm rối loạn tình hình, gây bất ổn chính trị - xã hội, an ninh quốc gia;
làm xáo trộn đời sống tâm lý của cán bộ, chiến sĩ và người dân.
Rõ ràng là, MXH đã, đang và sẽ đem lại nhiều tiện ích và cơ hội lớn cho xã
hội nhưng mặt trái của nó là không thể xem thường, bởi nó chứa nhiều nguy cơ,
thách thức. Vì vậy, chủ thể sử dụng và khai thác thông tin trên MXH cần được
trang bị đầy đủ tri thức lý luận chính trị, quân sự; kiến thức, kỹ năng sử dụng
công nghệ thông tin và các thiết bị máy móc liên quan đến MXH và tác chiến để
không rơi vào tình trạng sử dụng máy móc, trang thiết bị công nghệ hiện đại
nhưng lại chưa hiểu hết tính năng, tác dụng và tác hại của nó. Chủ động nghiên
cứu, tích cực học tập; khắc phục sự thiếu hụt về mảng tri thức còn thiếu là
phương cách tốt nhất để phòng tránh mọi sai lầm; sử dụng và khai thác hiệu quả
mạng xã hội, biến nó thành vũ khí, trang bị tốt nhất để phục vụ công tác thông
tin, tuyên truyền và chuyên môn của từng chủ thể.
Để phòng tránh việc rơi vào “vòng xoáy của bão thông tin mạng” và không bị
mắc kẹt, hoặc bị mắc lừa bởi các tin giả, bài viết, video clip xấu; mỗi cán bộ,
chiến sĩ, người dân cần thực hiện tốt các điểm sau:
- Lựa chọn các kênh MXH phù hợp với nhu cầu, sở thích, đúng với mục đích khai
thác và sử dụng thông tin phục vụ công tác, chuyên môn nghiệp vụ, đời sống gia
đình và của riêng mình. Vì vậy, chỉ nên lựa chọn những nền tảng MXH phổ biến,
dễ khai thác, dễ sử dụng và có tính bảo mật cao, đặc biệt ưu tiên sử dụng các
MXH trong nước... như kênh giao tiếp, kết nối chủ đạo để liên hệ với nhau trong
cơ quan, đơn vị và xã hội với ý thức trách nhiệm cao. Cần tránh sử dụng các MXH
không được coi trọng ở khâu bảo mật, dễ lộ, lọt, mất thông tin cho dù dễ sử
dụng. Không nên sử dụng các MXH i chứa đựng nhiều thông tin, bài viết, video clip
xấu, độc, không phù hợp với công tác học tập, công tác chuyên môn và truyền
thông; đã đươc đơn vị cảnh báo.
- Tăng cường bảo vệ thông tin chính thống, bảo mật thông tin đường truyền
mạng, bảo mật cổng thông tin, trang thông tin điện tử, nhất là báo điện tử.
Cùng với đó, đề xuất các giải pháp, biện pháp bảo đảm an ninh, an toàn thông
tin mạng tại gia đình, cơ quan, đơn vị và cá nhân; tạo dựng các “tường lửa” để
phòng, chống tin tặc tấn công gây hậu quả xấu hoặc lấy cắp thông tin, nhất là
thông tin mật, thông tin nội bộ và tin mật cấp quốc gia. Không được phép để rò
rỉ hoặc phát tán thông tin về công tác tổ chức, cán bộ và các thông tin về tác
chiến, bảo vệ, bảo mật các bí mật quân sự, quốc gia.
- Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên môn
kỹ thuật, phụ trách MXH, cổng thông tin điện tử, báo điện tử. Để phòng tránh
“từ sớm, từ xa” các sai sót, khuyết điểm; bảo đảm kết nối thông tin truyền
thông, sử dụng MXH một cách hiệu quả, thiết thực hơn, nhất thiết phải nâng cao
chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ
thuật, giúp họ không chỉ có bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng mà còn giỏi
về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng sử dụng MXH. Có như vậy, họ mới tự tin, đủ
trình độ, phương pháp xây dựng, chủ trì và duy trì các nền tảng xã hội phù hợp
với đơn vị, phù hợp với tác chiến trong điều kiện sử dụng vũ khí công nghệ cao;
giúp cán bộ, chiến sĩ và người dân lựa chọn và sử dụng MXH hiệu quả.
Mặt khác, cần thiết kế, thi công các tin, bài ngắn gọn, có hình ảnh đẹp,
chứa đựng cảm xúc bởi một bộ phận cư dân mạng chưa có điều kiện quan tâm và
hiểu sâu các vấn đê lý luận trừu tượng. Vì vậy, các nền tảng MXH chính thống
cần kết hợp đưa lên MXH những thông tin lý luận chính trị ngắn gọn gắn với các sự
kiện, sự việc thời sự, những câu chuyện giản dị, người thật, việc thật, dễ xem,
dễ hiểu, dễ tiếp thu, dễ học tập và làm theo người tốt, việc tốt, gương điển
hình tiên tiến. Đồng thời, tăng cường kích thích thông tin thị giác như hình
ảnh, các video clip đẹp, các đồ họa sinh động; đặc biệt là hình thức live tream
đang được công chúng mạng ở Việt Nam yêu thích bởi tính hấp dẫn, trực quan của
nó. Đây là một trong những phương cách hữu hiệu nhất để giảm bớt sự phân tán
tâm thức, tập trung thời gian, sự quan tâm của cư dân mạng vào các thông tin
xấu, độc, có hại; chỉ hướng đến các thông tin chính thống, có tác dụng tốt.
- Chủ động, tích cực đề xuất các chủ trương, giải pháp, biện pháp mới, thiết
thực, hiệu quả để phát huy vai trò của các kênh truyền thông chính thống, nhất
là các báo, đài lớn, có uy tín, có tầm ảnh hưởng rộng rãi trong xã hội và trong
quân đội để định hướng nhận thức, nhất là phát ngôn, viết bài, xây dựng các
video clip, tiếp nhận thông tin, lan truyền thông tin chính thống, tích cực.
Đồng thời, trừng trị và xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm thông tin sai
trái, tuyên truyền sai sự thật, phát ngôn bừa bãi, thiếu ý thức xây dựng, lan
truyền các tin giả, video clip có nội dung xấu, độc, phản động, chống đối Đảng,
Nhà nước và chế độ.
- Kiên quyết đấu tranh, xử lý một số cơ quan báo đài, một số nhà báo, người
dân nhân danh chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, tệ nạn xã hội để đăng tải
các tin bài, video clip với các thông tin, hình ảnh chưa được kiểm chứng, những
ý kiến cá nhân trái chiều, đi ngược lại chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, làm tổn hại đến uy tín, vị thế của các đồng chí
lãnh đạo, nguyên lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Quân đội, Công an, gây
hại cho lợi ích quốc gia - dân tộc.
Vì vậy, mỗi cán bộ, chiến sĩ, người dân hãy cư xử có đạo đức, có văn hóa
trên mạng xã hội, thực hiện nghiêm quy tắc ứng xử và những điều quy định của
Đảng về những điều đảng viên không được làm, có thái độ, hành vi và phát ngôn
đúng mực, góp phần đấu tranh vạch mặt những kẻ xấu, ném đá giấu tay, tung tin
nhảm nhí, tràn lan trên mạng xã hội. Có làm như vậy, chúng ta mới hạn chế đến
mức thấp nhất những tác động tiêu cực của tin giả, video clip xấu, độc, góp
phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới./.
Lại thêm một “Tổng thống” huyễn hoặc
Xem ra chứng hoang tưởng chính trị của Nguyễn Văn Đài vẫn không hề thuyên
giảm sau quang thời gian sống vong quốc hủi nô. Mới đây Nguyễn Văn Đài lập ra
một Fanpage mới có tên “Học viện Tổng thống Việt Nam”. Nguyễn Văn Đài cũng xưng
là “Tổng thống” của trang đó.
Có vẻ như Nguyễn Văn Đài chuẩn bị gia nhập gia nhập hàng ngũ các Tổng thống
chính phủ VNCH lưu vong như Đào Minh Quân, Nguyễn Thế Quang, Trần Dần, Lê Trong
Quát, Trần Thanh Đằng, Nguyễn Hữu Chánh, Nguyễn Bá Cẩn, Nguyễn Ngọc Bích...
Trong số này, Nguyễn Văn Đài xem ra là trẻ và tiềm năng nhất bởi những cái tên
Tổng thống đương nhiệm vừa được xướng lên ở trên hiện đã nằm trong danh sách
"Mầm non nghĩa địa" hết cả rồi.
Bà con
người Việt ở Hải ngoại chuẩn bị đóng góp quỹ để Nguyễn Văn Đài có thể thoát
khỏi cảnh "nhặt lá đá ông bơ", rồi "ăn tục nói phét, đánh rắm
rong" nhé.
Luật sư người Mỹ gốc Việt Trịnh Quốc Thiên đã cảnh báo trên trang YouTube
cá nhân của ông, trong đó khẳng định: "Mấy chính phủ này tồn tại như các
công ty đa cấp chuyên bán hàng giả, hàng gian, chuyên môn gom tiền, thụt két …
rổn rảng, ma mị nhưng thực chất là các nhóm lừa đảo, vô tích sự, không làm được
việc gì cho cộng đồng hải ngoại. Mỗi tổ chức chỉ dăm ba mống, tối ngày cãi nhau
mà mục đích cuối cùng là moi tiền, gạt tiền, lấy được tiền rồi bỏ chạy” - Luật
sư Thiên khuyến cáo, để mọi người không bị mê hoặc, để vừa mất tiền bạc, vừa
trở thành kẻ chống phá đất nước.
Không thể phủ nhận vị thế, vai trò của Việt Nam
Một trong những yếu tố quan trọng làm nên vị thế quốc gia của Việt Nam chính là sự
phát triển ổn định của nền kinh tế. Ngày 26/5/2022, Tổ chức xếp hạng tín nhiệm S&P
Global Ratings (một trong ba cơ quan xếp hạng tín dụng lớn và uy tín nhất thế giới)
đã nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam lên mức BB+ với triển
vọng “ổn định”. Trong bảng đánh giá mới nhất của tổ chức này, Việt Nam là nước
duy nhất trong khối ASEAN được nâng hạng trong năm 2022.
Lợi dụng tình hình kinh tế trong nước có dấu hiệu khủng hoảng tạm thời, thế lực thù
địch cùng các cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí đã vội vã tung ra hàng loạt luận điệu
xuyên tạc như: “người lao động chịu hậu quả của chính sách, giai cấp công nhân rơi
vào cảnh khốn cùng, niềm tin của người dân vào nhà cầm quyền đã không còn”…
Ngay lập tức, vài tờ báo chống cộng cũng vào hùa khi đăng tải các bài viết “tường
trình” từ Việt Nam mà thực chất chỉ là “phỏng vấn” một vài gương mặt cũ của các
phong trào chống phá trong nước, qua đó cố gắng tô vẽ, bôi đen về bức tranh kinh tế-
xã hội Việt Nam. Mặc dù vậy, ngay tại thời điểm đó, các chuyên gia hàng đầu từ
nhiều tổ chức uy tín quốc tế đã bác bỏ các nội dung sai sự thật này.
Ngày 7/11/2021, đánh giá về Nghị quyết 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 ban hành quy
định tạm thời “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”, ông
Marko Wald, Trưởng đại diện Phòng Công nghiệp và Thương mại Đức tại Việt Nam
thẳng thắn nhận định: Những gì nêu trong Nghị quyết 128 là rất tiến bộ, cho thấy sự
thích ứng nhanh chóng của Chính phủ trong bối cảnh mới. Cùng nhận định này, ngày
5/12/2021, ông Francois Painchaud, trưởng đại diện Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) tại Việt
Nam cho rằng: Mặc dù đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng lớn đến việc làm Việt Nam
vẫn có thể đạt được những chỉ tiêu kinh tế nhưng đòi hỏi những cải cách quyết liệt
hơn.
Nhìn vào bức tranh tổng thể của nền kinh tế Việt Nam từ cuối năm 2021 đến nay, có
thể thấy được sự khởi sắc trong nhiều lĩnh vực, ngành, nghề. GDP quý II/2022 của
Việt Nam tăng trưởng 7,72%, cao nhất trong hơn một thập kỷ. Hiệu ứng này được
đánh giá là xuất phát từ Nghị quyết 43/2022/QH15 (11/1/2022) về chính sách tài
khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội được Quốc hội
thông qua với gói hỗ trợ có tổng giá trị lên đến 350.000 tỷ đồng.
Bên cạnh đó là nhiều sáng kiến, giải pháp ngắn hạn và dài hạn được đưa ra nhằm tháo
gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người lao động. Nhưng quan trọng hơn cả, vẫn là
sự nhất quán trong đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam khi luôn đặt con người
vừa là trung tâm, vừa là mục tiêu của sự phát triển. Trong mọi tình huống, Đảng và
Nhà nước ta luôn bảo đảm các chính sách, cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp; an sinh xã hội
và đời sống của người dân, nhất là người lao động, người nghèo, người yếu thế, đối
tượng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh; bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, xã
hội.
Tuy nằm trong nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp, Việt Nam vẫn đạt được
nhiều thành tích về bảo đảm và phát huy quyền con người. Chúng ta nằm trong số
những nước có chỉ số bình đẳng giới cao nhất thế giới, kiểm soát được bất bình đẳng
trong phân phối thu nhập, đạt nhiều bước tiến trong thu hẹp khoảng cách giàu nghèo,
cải thiện chất lượng giáo dục. Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011-
2020 đã thu được nhiều kỳ tích: tỷ lệ suy dinh dưỡng và thiếu chất giảm, chiều cao và
thể trạng được cải thiện. Sự phát triển về mặt thể chất chính là chìa khóa nâng cao
chất lượng lao động, chất lượng cuộc sống của người Việt Nam.
Những năm gần đây, Việt Nam là một trong số ít quốc gia vẫn duy trì được tăng
trưởng kinh tế dương bất chấp những tác động từ đại dịch và sự bất ổn của kinh tế thế
giới. Chất lượng cuộc sống của người Việt Nam được cải thiện và nâng cao rõ rệt cả
về vật chất và tinh thần, trong đó có nhiều tiêu chí gây ấn tượng, ngang với những
nước phát triển. Môi trường ổn định, yên bình cùng người dân thân thiện đã thuyết
phục rất nhiều người nước ngoài lựa chọn sinh sống và làm việc tại Việt Nam.
Trên trường quốc tế, Liên hợp quốc luôn đánh giá cao Việt Nam trong hoạt động gìn
giữ hòa bình và an ninh quốc tế, có nhiều đóng góp tích cực tại Cộng hòa Trung Phi,
Nam Sudan; đề ra những sáng kiến quan trọng về bảo vệ rừng, chuyển đổi sang năng
lượng tái tạo, hỗ trợ thích ứng cho các cộng đồng địa phương và giảm thiểu khí
methane; viện trợ, hỗ trợ cho nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới... Thực tế này
khiến nhiều cá nhân, tổ chức dù thiếu thiện chí với Đảng, Nhà nước Việt Nam cũng
không thể không thừa nhận.
Có thể nói, những thành tựu đạt được về mọi mặt của đời sống đã góp phần củng cố vị
thế Việt Nam trên trường quốc tế. Dấu ấn, tầm ảnh hưởng của Việt Nam tại các diễn
đàn đa phương, khu vực và quốc tế được đánh giá cao, nhiều sáng kiến của Việt Nam
được bạn bè đồng tình, ủng hộ. Trong đó có thể kể đến sáng kiến và cam kết của Việt
Nam tại Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc năm 2021
(COP26).
Đến ngày 7/6/2022, Đại Hội đồng Liên hợp quốc đã bầu Việt Nam là một trong những
Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 77 đại diện cho khu vực châu Á-Thái
Bình Dương với nhiệm kỳ một năm. Trong quá trình ứng cử làm thành viên Hội đồng
Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025 tới đây, Việt Nam cũng vinh dự
được các nước ASEAN đồng thuận đề cử là ứng cử viên của ASEAN.
Hiện nay, tình hình thế giới còn diễn biến phức tạp. Dịch Covid-19 đã căn bản được
kiểm soát nhưng vẫn có nguy cơ bùng phát tại một số quốc gia, vùng lãnh thổ. Các
quốc gia trên toàn cầu tiếp tục phải đối mặt với các vấn đề biến đổi khí hậu, an ninh
lương thực, an ninh năng lượng… Những khó khăn này đều trực tiếp hoặc gián tiếp
ảnh hưởng đến sự phát triển của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Đây cũng là thử
thách để đất nước ta chứng tỏ bản lĩnh, tiềm lực của mình, tiếp tục vươn lên trên các
lĩnh vực, thể hiện uy tín, vị thế trên trường quốc tế. Từ đó sẽ tạo nền móng vững chắc
góp phần củng cố, nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới trong
chặng đường phía trước./.
Phê phán các luận điểm sai trái cho rằng Việt Nam đàn áp mạng xã hội
Các thế lực thù địch với cách nhìn phiến diện cho rằng, ở Việt Nam mạng xã hội bị đàn áp
và mạng xã hội không có tự do thông tin, người dùng mạng xã hội không được bày tỏ chính
kiến, suy nghĩ của mình... Đây là thông tin hoàn toàn bịa đặt và sai sự thật!
Hiện nay, các phần tử phản động, chống phá tiếp tục sử dụng luận điệu xuyên tạc về tình hình tự do
thông tin, tự do Internet, mạng xã hội ở Việt Nam nhằm mục đích chống phá nền dân chủ, kích
động, chia rẽ trong xã hội, tạo cớ để các thế lực bên ngoài can thiệp vào nước ta. Chúng cho rằng,
ở Việt Nam không có tự do thông tin, tự do mạng xã hội, mạng xã hội bị kiểm duyệt gắt gao…
Ở Việt Nam, mạng xã hội bắt đầu du nhập vào từ những năm 2000 dưới hình thức các trang nhật ký
điện tử (blog). Đến nay, có khoảng hơn 300 trang mạng xã hội khác nhau đã đăng ký hoạt động và
có khoảng trên 76 triệu người dùng mạng xã hội. Trong đó, Facebook là mạng xã hội phổ biến nhất
vì nhờ có thiết kế thuận lợi cho người sử dụng khi tạo lập tài khoản cá nhân, cũng như những tính
năng trao đổi thông tin, bày tỏ cảm xúc, quan điểm cá nhân với những người cùng nhóm, cùng sở
thích... nên đã thu hút được nhiều thành viên tham gia. Tiếp sau Facebook là các trang My Space,
Twitter, các blog…
Với cơ chế hoạt động của mạng xã hội có tính chất tương tác cao, “cư dân mạng” dễ dàng chia sẻ
những thông tin cá nhân với nhau, nên đã thu hút số người tham gia ngày càng đông, trong đó có
giới trẻ. Điều này đã tạo ra những mặt thuận lợi cho mọi thành viên khi tham gia mạng xã hội, đó là
có thể chia sẻ cũng như tìm kiếm những thông tin cần thiết phục vụ nhu cầu hoạt động riêng của
mỗi người. Tuy nhiên, bên cạnh những thông tin chính thống, bổ ích, có tính giáo dục, còn có các
thông tin không chính thống, sai sự thật, xuyên tạc, cổ xúy cho lối sống lệch chuẩn cũng được đưa
lên mạng xã hội với các mục đích khác nhau. Thời gian gần đây, tình trạng sử dụng mạng xã hội để
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, vu khống, nói xấu, kích động… diễn ra ngày càng phức tạp và tinh vi,
gây mất trật tự xã hội, ảnh hưởng đến uy tín, danh dự và công việc của cán bộ, công chức, viên
chức trên địa bàn tỉnh Kon Tum. Chỉ tính trong 6 tháng đầu năm 2022, cơ quan điều tra các cấp của
tỉnh đã phát hiện 8 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trong đó có 5 vụ được thực hiện qua Internet.
Ngoài ra, qua công tác nắm tình hình, ghi nhận thông tin hành chục vụ việc liên quan đến tội phạm
lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua mạng viễn thông, mạng xã hội với phương thức, thủ đoạn
hoạt động mới, ngày càng tinh vi, gây thiệt hại lớn về tài sản của người dân, gây bức xúc trong dư
luận xã hội…
Mạng xã hội đã và đang trở thành công cụ hàng đầu để các thế lực thù địch lợi dụng tiến hành phá
hoại tư tưởng; làm gia tăng nguy cơ lộ lọt bí mật nhà nước và mạng xã hội tác động tiêu cực đối với
sự phát triển văn hóa, nguy cơ làm xói mòn bản sắc văn hóa dân tộc. Vì vậy, cùng với việc phát
triển mạng xã hội, cần phải có sự quản lý để phát huy tốt nhất những mặt tích cực mà mạng xã hội
mang lại.
Các thế lực thù địch với cách nhìn phiến diện cho rằng, ở Việt Nam mạng xã hội bị đàn áp và mạng
xã hội không có tự do thông tin, người dùng mạng xã hội không được bày tỏ chính kiến, suy nghĩ
của mình... Đây là thông tin hoàn toàn bịa đặt và sai sự thật, bởi vì Đảng, Nhà nước ta luôn nhất
quán chủ trương, chính sách tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó
có quyền tự do thông tin, tự do Internet. Thực tế, chúng ta đạt được những thành tựu trong phát
triển kinh tế như ngày nay, một phần là nhờ chúng ta tận dụng tốt cơ hội từ Internet, chính điều kiện
phát triển tự do về Internet và mạng xã hội đã góp phần quan trọng trong xây dựng, phát triển đất
nước; điều này đã là “một phần tất yếu” của các tầng lớp xã hội.
Thông qua các trang mạng xã hội, người dân có thể bày tỏ thông tin và chính kiến của mình; không
những thế còn có nhiều cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương đã
sử dụng Internet, mạng xã hội để làm việc, giải quyết các thủ tục hành chính và liên hệ trực tiếp với
người dân... Những việc đang diễn ra hằng ngày, hằng giờ ở Việt Nam đã chứng minh rằng ở Việt
Nam không có chuyện đàn áp mạng xã hội, mà trái lại còn được Đảng, Nhà nước bảo đảm sự phát
triển tự do. Thực hiện quyền tự do Internet, mạng xã hội luôn được đặt trong khung khổ pháp luật.
Nhờ đó mới bảo đảm an ninh mạng, phòng ngừa, ngăn chặn các hoạt động lợi dụng mạng xã hội,
Internet để vi phạm pháp luật Việt Nam. Theo đó, trong thời gian qua, Nhà nước Việt Nam đã triển
khai đồng bộ nhiều giải pháp như: ban hành các văn bản pháp luật (Luật Báo chí năm 2016; Luật
Tiếp cận thông tin năm 2016; Luật An ninh mạng năm 2018; Nghị định số 72/2013/NÐ-CP quản lý,
cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng; Nghị định số 174/2013/NÐ-CP quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô
tuyến điện; Quy định về những điều đảng viên không được làm…) triển khai công tác phát hiện, đấu
tranh, xử lý nghiêm các đối tượng có hoạt động lợi dụng Internet, mạng xã hội vi phạm pháp
luật. Ngày 26-10-2021, UBND tỉnh Kon Tum ban hành văn bản số 3855/UBND-KGVX yêu cầu các
sở, ban, ngành thuộc tỉnh và UBND các huyện, thành phố tăng cường nâng cao ý thức, trách nhiệm
của cán bộ, công chức, viên chức trong sử dụng mạng xã hội… Điều này là hoàn toàn phù hợp và
không chỉ ở Việt Nam mà nhiều quốc gia trên thế giới đã thực hiện như vậy. Ngay ở Mỹ, quốc gia tự
cho mình là “đất nước tự do”, Quốc hội nước này đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm xử lý,
ngăn chặn việc lợi dụng Internet, mạng xã hội để khủng bố, kích động bạo lực hay vi phạm sở hữu
trí tuệ... Do đó, ở Việt Nam không hề có chuyện đàn áp mạng xã hội, hay tra tấn trái pháp luật bất kỳ
blogger nào. Rõ ràng, đằng sau những thông tin bịa đặt đó là âm mưu chính trị của các thế lực thù
địch nhằm kích động chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc và phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng
ta.
Nhận rõ các quan điểm sai trái cho rằng Việt Nam không có dân chủ, nhân quyền, không có tự do
ngôn luận, tự do tư tưởng, đàn áp mạng xã hội và đưa ra các luận cứ khoa học để phê phán, bác
bỏ những quan điểm sai trái đó là việc làm cần thiết. Đồng thời, qua đó cũng tự xem lại chính mình,
xem lại chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước chỗ nào chưa thực hiện tốt, chỗ
nào chưa phù hợp để từng bước hoàn thiện, nhằm thực sự đem lại quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng cho Nhân dân. Như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “... Đảng cách mạng cần phê bình
và tự phê bình cũng như người ta cần không khí”, “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự
kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong Đảng sẽ
không có bệnh mà Đảng sẽ mạnh khoẻ vô cùng”.
“Tự do báo chí” không phải là tự do tuyệt đối
Báo chí có vai trò là phương tiện để công dân thực hiện quyền tự do ngôn luận của
mình. Quyền tự do báo chí là quyền của công dân được sáng tạo tác phẩm báo chí, tiếp
cận, cung cấp và phản hồi thông tin trên báo chí… Ở Việt Nam những năm qua, tự do
báo chí, tự do ngôn luận được Nhà nước bảo đảm, thể hiện rõ trên cả khía cạnh pháp lý
và thực tiễn. Song, lợi dụng chiêu bài “tự do báo chí”, “tự do ngôn luận”, vấn đề “nhân
quyền”, các thế lực thù địch đã và đang ra sức tiến hành diễn biến hòa bình trên lĩnh vực
chính trị, tư tưởng nhằm thao túng dư luận, gây rối loạn xã hội, chống phá Đảng, Nhà
nước ta.
Về mặt thủ đoạn, các đối tượng chống phá sử dụng chiêu bài xuyên tạc khái niệm tự do báo chí; lôi
kéo đội ngũ người làm báo theo hướng phục tùng mưu đồ của chúng; viện dẫn các quy định của luật
pháp quốc tế và luật pháp Việt Nam về tự do báo chí nhưng cố tình lờ đi những quy định pháp luật về
tự do báo chí, tự do ngôn luận rồi tán phát qua Internet, mạng xã hội làm cho nhiều người hiểu lầm
rằng “tự do báo chí” là một quyền tuyệt đối, không có bất cứ một hạn chế nào. Thậm chí, Tổ chức
phóng viên không biên giới (RSF) đã đưa ra những đánh giá thiên lệch, thiếu khách quan và hoàn
toàn không có cơ sở khi xếp Việt Nam vào nhóm quốc gia “ít có tự do báo chí”.
Những kẻ chống phá dường như cố tình quên rằng việc đảm bảo mọi công dân có quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí trong khuôn khổ quy định của pháp luật là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà
nước Việt Nam. Điều này được quy định cụ thể trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật liên quan
đồng thời được triển khai thực hiện trong thực tế. Nhiều năm qua, Nhà nước Việt Nam luôn nỗ lực
hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo điều kiện thúc đẩy và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân, trong
đó có quyềntự do báo chí. Điều 25, Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do
pháp luật quy định”. Điều 11, Luật Báo chí sửa đổi (2016) quy định rõ: Công dân có quyền: “Phát
biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố
cáo trên báo chí đối với các tổ chức và cá nhân".
Tính đến 4/2022, cả nước có 816 cơ quan báo chí, trong đó 115 báo thực hiện 2 loại hình (in và điện
tử): 116 tạp chí thực hiện 2 loại hình; 29 báo và tạp chí điện tử chỉ có loại hình điện tử; 72 cơ quan
được cấp phép hoạt động phát thanh-truyền hình; khoảng 41.600 nhân sự đang tham gia hoạt động
trong lĩnh vực báo chí, Cả nước hiện có 17.161 người được cấp thẻ nhà báo 2021-2025 (tính đến
15/8/2021)…
Yếu tố hạ tầng thông tin cũng là một điểm nhấn trong thực hiện quyền tự do báo chí ở Việt Nam.
Những năm qua, Việt Nam đang thực hiện mục tiêu “Chuyển đổi số quốc gia”, hướng tới mỗi người
dân có một điện thoại thông minh; mỗi hộ gia đình có một đường Internet cáp quang tốc độ cao… Đó
là nỗ lực của chính phủ Việt Nam nhằm tôn trọng quyền được tiếp cận Internet của tất cả mọi người;
được bày tỏ chính kiến trên không gian mạng, được bảo đảm quyền tự do ngôn luận. Thông qua các
thể loại báo viết, báo ảnh, báo điện tử, Việt Nam tôn trọng và phát huy quyền tự do báo chí của công
dân, khi mà mọi chủ trương đường lối, dự thảo luật đều được lấy ý kiến từ nhân dân thông qua
chương trình truyền hình, trang ý kiến đóng góp… Việt Nam không cấm tự do báo chí, tự do ngôn
luận, mà chỉ nghiêm cấm việc lợi dụng quyền tự do ấy để chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ, xâm
phạm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, cản trở sự phát triển của đất nước.
Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (1948) khẳng định: “Mỗi người đều có những nghĩa vụ đối với
cộng đồng, trong khi hưởng thụ các quyền về tự do cá nhân, phải chịu những hạn chế do luật định
nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận và tôn trọng đối với các quyền tự do của người
khác và phù hợp với những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung”.
Thực tiễn thế giới cũng cho thấy, không chỉ ở Việt Nam mà tại nhiều nước như Mỹ, Pháp, Hàn Quốc,
Singapore… đều có chế tài, điều khoản luật xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng tự do báo chí để vi
phạm pháp luật. Nói cách khác, tự do báo chí, ở bất kỳ quốc gia nào cũng phải gắn với chế độ chính
trị, điều kiện xã hội, nền tảng đạo đức, pháp lý trong mỗi hoàn cảnh lịch sử cụ thể…
Cũng không có quốc gia nào để bảo vệ chế độ, chủ quyền quốc gia mà cho phép những kẻ lợi dụng
vấn đề dân chủ, nhân quyền xuyên tạc, chống phá tùy tiện. Nếu 43 nhà báo bị cơ quan chức năng
Việt Nam xử lý trong năm 2021 thì đó chính là những kẻ đang cố tình bóp méo sự thật, vi phạm Luật
Báo chí của Việt Nam. Những kẻ bị bắt không phải vì họ làm nghề viết báo, cũng không phải Việt
Nam không cho phép họ làm báo, mà vì họ vi phạm pháp luật, tung tin giả, tin xấu độc xâm phạm an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Việc xử lý theo pháp luật những kẻ vi phạm đó cũng đồng nghĩa
với việc bảo đảm quyền tiếp cận những thông tin chính xác, khách quan của công dân.
Như vậy, ở Việt Nam, công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí nhưng việc thực hiện các
quyền này do pháp luật quy định, không ai được lạm dụng quyền các quyền đó để xâm phạm lợi ích
của Nhà nước, tập thể và công dân, nghĩa là tự do trong khuôn khổ pháp luật chứ không phải là tự do
tuyệt đối. Những chiêu bài rao rằng ở Việt Nam “ít có tự do báo chí”;“Việt Nam kiểm soát và bóp
nghẹt quyền tự do báo chí, tự do Internet” là xuyên tạc sự thật, bộc lộ rõ mưu đồ chống phá, tham
vọng thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam của các thế lực phản động.
Xứng đáng là những điển hình mẫu mực để đồng bào học tập, noi theo
Đến thôn Rã Giữa, xã Phước Trung hỏi ông Mai Liên ai cũng biết. Bởi ông là Người có uy tín
trên địa bàn. Ngoài việc vận động người dân giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của đồng bào
Raglay, ông còn tích cực tham gia hòa giải những mâu thuẫn phát sinh trong cuộc sống giữa các
gia đình, các tộc họ.
Bên cạnh đó, ông tích cực tham gia xử lý những trường hợp uống rượu say gây rối trật tự và
những vụ va quẹt khi tham gia giao thông giữa các thanh niên trong thôn, xóm, góp phần giữ
vững an ninh trật tự trên địa bàn xã.
Anh Chamaléa Thoa ở thôn Rã Giữa cho biết: Hai vợ chồng tôi thường xuyên xảy ra mâu thuẫn,
nhờ được ông Liên là Người có uy tín ở thôn cùng cán bộ thôn đến động viên, hòa giải, nên hiện
nay cuộc sống gia đình được êm ấm. Phát huy vai trò Người có uy tín, ông còn gương mẫu đi
đầu trong phát triển sản xuất để bà con làm theo. Nhờ chăm chỉ làm ăn, nên hiện nay, gia đình tôi
đã phát triển đàn bò được 29 con, diện tích đất sản xuất chủ động nước gần 2 ha, kinh tế gia đình
đã ổn định, con cái ăn học đến nơi đến chốn, vợ chồng sống hòa thuận.
Hiện nay trên địa bàn huyện Bác Ái có 37 Người có uy tín trong cộng đồng ở 38 thôn thuộc 9 xã.
Những năm qua, Người có uy tín trên địa bàn huyện luôn gương mẫu, đi đầu trong phát triển
kinh tế, xây dựng nông thôn mới; vận động đồng bào ở khu dân cư xây dựng khối Đại đoàn kết
toàn dân tộc, thực hiện tốt các phong trào thi đua yêu nước; giữ gìn vệ sinh môi trường; xóa bỏ
hủ tục.
Nét nổi bật là đội ngũ những Người có uy tín trên địa bàn huyện không chỉ là tấm gương sáng
trong phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, mà còn tích cực vận động gia đình, bà con đẩy
mạnh các phong trào thi đua lao động sản xuất giỏi, thay đổi nhận thức, tập quán canh tác lạc hậu
sang thâm canh tăng vụ, kết hợp với chăn nuôi; áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất.
Nhờ đó, bà con đã biết khai thác tiềm năng lợi thế về đất đai để áp dụng các mô hình sản xuất
hiệu quả, như: Mô hình cánh đồng lớn sản xuất lúa với diện tích gần 30 ha ở xã Phước Chính;
mô hình “Tưới nước tiết kiệm”; mô hình nuôi bò, dê vỗ béo và sinh sản; chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, vật nuôi… Qua thực hiện các mô hình sản xuất hiệu quả, đã giúp nhiều nông hộ có cuộc
sống ổn định.
Trong lĩnh vực giữ gìn an ninh trật tự, Người có uy tín luôn phối hợp với chính quyền và lực
lượng Công an, Quân đội tuyên truyền, vận động Nhân dân đề cao cảnh giác, đấu tranh phòng,
chống các loại tội phạm, không nghe theo những luận điệu xuyên tạc của kẻ xấu. Cùng với các
lực lượng Công an, Quân đội xây dựng thế trận lòng dân, thế trận an ninh Nhân dân vững chắc,
giữ vững bình yên nơi thôn, xóm...
Ông Pi Năng Chấn, Trưởng phòng Dân tộc huyện Bác Ái cho biết: Những năm qua, bằng chính
trách nhiệm, lòng nhiệt huyết, sự am hiểu phong tục tập quán và sự tín nhiệm của cộng đồng dân
cư, đội ngũ Người có uy tín đã trở thành “chỗ dựa” vững chắc đối với đồng bào DTTS trên địa
bàn huyện. Họ là những người truyền tải hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước đến cộng đồng dân cư; tích cực cùng với chính quyền địa phương
tham gia giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp ở cơ sở. Người có uy tín trên địa bàn huyện xứng đáng
là những điển hình mẫu mực để bà con học tập, noi theo.
Chủ Nhật, 7 tháng 8, 2022
“Can thiệp nhân đạo” – một trong những dạng thức của “diễn biến hòa bình”
Xuất hiện vào khoảng thế kỷ XVII ở châu Âu, khái niệm “can thiệp nhân đạo” ra
đời dưới dạng học thuyết và được gắn với luật tự nhiên và chủ nghĩa tự do. Ngay
từ lúc ra đời, nội dung của “can thiệp nhân đạo” đã gây ra nhiều tranh cãi giữa các
trường phái lý luận khác nhau. Theo quan điểm của H.Grotius (1), đại diện tiêu
biểu cho các nhà lý luận tự do kinh điển châu Âu được đa số học giả ủng hộ, thì
các quan hệ nảy sinh trong đời sống quốc tế cần được điều chỉnh trên cơ sở tôn
trọng chủ quyền quốc gia. Với mục đích cải thiện trật tự thế giới, Grotius đã đưa ra
thuật ngữ “chiến tranh chính nghĩa” và nhấn mạnh rằng chiến tranh chỉ có thể được
cho phép nếu có lý do chính nghĩa, rõ ràng. Về sau này, quan điểm của Grotius về
“can thiệp nhân đạo” đã được sự ủng hộ của đa số luật gia phương Tây hiện đại và
các chính khách của Mỹ. Đến thế kỷ XX, học thuyết “can thiệp nhân đạo” dần mất
cơ sở thực tế trong quan hệ giữa các nước và về mặt pháp lý, nó cũng không có cơ
sở trong luật pháp quốc tế. Theo quan điểm của các luật gia quốc tế và cựu Tổng
Thư ký Liên hợp quốc Kofi Annan, thì khái niệm “can thiệp nhân đạo” được giải
thích là: Quyền của cộng đồng quốc tế tiến hành hành động can thiệp, kể cả bằng
quân sự, vào một quốc gia không có sự chấp thuận của quốc gia đó và của Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc với mục đích ngăn chặn, chấm dứt tình trạng vi phạm
nhân quyền hàng loạt tại đó. “Can thiệp nhân đạo” không chỉ được thực hiện thông
qua sử dụng vũ lực, mà còn bao gồm cả các hoạt động can thiệp không sử dụng vũ
lực, như: chính trị, ngoại giao, kinh tế...
Theo các học giả này, “can thiệp nhân đạo” thông qua sử dụng vũ lực, được cho là
hình thức được áp dụng chủ yếu trong những năm vừa qua, có đặc điểm sau: Là
hoạt động can thiệp vũ trang được thực hiện bằng tiến công quân sự hoặc tiến hành
chiến tranh; bí mật nuôi dưỡng, huấn luyện, cung cấp vũ khí... cho các lực lượng
đối lập. Quy mô và cường độ của can thiệp vũ trang tuỳ thuộc vào mục đích chính
trị của bên tiến hành can thiệp. Hoạt động này chỉ mang tính can thiệp, lực lượng
quân sự được đưa ra nước ngoài nhưng không thực hiện hành động xâm lược bất
kỳ nước nào khác. Tuy nhiên, theo luật pháp quốc tế thì hoạt động này có thể bị coi
là xâm lược. Yếu tố nhân đạo chính là điểm cốt lõi được nhấn mạnh trong hoạt
động “can thiệp nhân đạo”.
Trong phạm vi bài viết này, khái niệm “can thiệp nhân đạo” được tiếp cận với tư
cách là một hành vi bạo lực mang tính cưỡng ép, thì vấn đề can thiệp đã gây ra sự
xung đột giữa hai nguyên tắc pháp lý cơ bản của luật pháp quốc tế, đó là: Quyền tự
vệ của quốc gia can thiệp và quyền độc lập của quốc gia là đối tượng của hành vi
can thiệp. Luật pháp quốc tế không cho phép các quốc gia thực hiện các hành động
đơn phương không bị hạn chế chống lại nền độc lập của một quốc gia khác. Trong
Hiến chương Liên hợp quốc, tại khoản 4, Điều 2 ghi nhận: “Tất cả các quốc gia
thành viên kiềm chế không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực chống lại sự
toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của các quốc gia khác không phù hợp với
mục đích của Liên hợp quốc” (2). Tại khóa họp lần thứ 20 (năm 1965) của Đại hội
đồng Liên hợp quốc đã thông qua Tuyên bố về việc cấm một quốc gia hoặc một
nhóm các quốc gia can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác với bất cứ lý do
gì. Điều khoản đầu tiên của tuyên bố này đã trở thành cơ sở quy định về chống can
thiệp của luật pháp quốc tế hiện nay: “Không một quốc gia nào có quyền can thiệp
trực tiếp hay gián tiếp và vì bất kỳ lý do nào vào công việc của quốc gia khác. Vì
vậy, tất cả các hành vi can thiệp vũ trang và tất cả các hành vi can thiệp khác hoặc
đe dọa can thiệp chống lại cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa của quốc gia khác đều
bị lên án”.
Tuy rằng, các tuyên bố trên của Đại hội đồng Liên hợp quốc không ràng buộc về
mặt pháp lý, song đã cho thấy quan điểm giống nhau giữa các quốc gia là chống lại
việc sử dụng bất hợp pháp hành vi can thiệp. Như vậy, có thể thấy rõ rằng, “can
thiệp nhân đạo” không hề dựa trên bất kỳ cơ sở pháp lý nào được cộng đồng quốc
tế công nhận. Dù vậy, trong những năm qua, đặc biệt là từ sau khi chiến tranh lạnh
kết thúc, thế giới vẫn chứng kiến sự tồn tại của “can thiệp nhân đạo”. Đến nay,
Liên hợp quốc chưa có bất kỳ một cơ chế giám sát việc hạn chế hành vi “can thiệp
nhân đạo”, do đó dễ bị Mỹ và các nước phương Tây lợi dụng để phục vụ ý đồ riêng
của họ.
Một thực tế khác là, mặc dù luật pháp quốc tế đặt ra nguyên tắc không can thiệp
vào chủ quyền quốc gia, nhưng theo Điều 39, Hiến chương Liên hợp quốc, Hội
đồng Bảo an có thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa và cưỡng chế với một quốc
gia thực tế có hành động đe dọa hòa bình; phá hoại hòa bình hoặc có hành vi xâm
lược. Tuy nhiên, bản chất của sự can thiệp có tính chất tập thể và có điều kiện, chứ
không phải là sự can thiệp tùy tiện của một hoặc một nhóm quốc gia, không bao
hàm yếu tố nhân quyền. Mỹ đã tìm cách mở rộng phạm vi của sự can thiệp, dùng
“can thiệp nhân đạo” giải quyết “các vi phạm nhân quyền”; thực chất là nhằm bảo
vệ lợi ích và sắp xếp lại trật tự thế giới theo ý đồ của Mỹ hoặc chống lại các “nguy
cơ” gây hại cho họ theo lập luận: “Can thiệp nhân đạo” nhằm giải quyết mối nguy
cơ diệt chủng, “Mỹ chỉ can thiệp khi lợi ích quốc gia của Mỹ bị đe dọa hoặc khi đe
dọa diệt chủng là quá rõ ràng, cần sự can thiệp để bảo vệ vai trò lãnh đạo của Mỹ
trong thế giới tự do”(3).
Thực tế cho thấy, “can thiệp nhân đạo” đã được Mỹ và đồng minh áp dụng với
nhiều quốc gia có chủ quyền trên thế giới. Điển hình là tại Nam Tư, với chiêu bài
nhằm bảo vệ “người Albania bị người Xéc-bi-a thanh lọc sắc tộc ở Cosovo”, năm
1999, Mỹ và NATO đã mở cuộc chiến tranh với quy mô lớn vào quốc gia này. Với
lập luận “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, Mỹ cho rằng, việc vi phạm chủ quyền
của một quốc gia với mục đích nhân đạo hoặc “ngăn chặn tệ nạn diệt chủng” là có
thể biện minh được. Sau cuộc chiến tranh này, học thuyết “can thiệp nhân đạo”
được chính thức đưa vào nội dung chiến lược mới của NATO và được thông qua
tại dịp kỷ niệm 50 năm thành lập tổ chức này. Năm 2001, sau sự kiện ngày 11-9,
Mỹ đã phát động cuộc chiến tranh “toàn cầu chống khủng bố” nhằm vào Áp-ga-ni-
xtan, một quốc gia bị Mỹ và NATO cho là nơi chứa chấp những tên khủng bố đã
gây ra sự kiện 11-9. Đến cuộc chiến tại Nam Ossetia, xung đột được mở đầu bằng
đòn tiến công ồ ạt của quân đội Grudia dưới sự hậu thuẫn của Mỹ, NATO nhằm
vào dân thường tại thủ phủ Tskhinvali và lực lượng gìn giữ hòa bình Nga, hậu quả
là người dân thường Nga đã phải chịu tổn thất rất lớn về sinh mạng. Hành động
này đã được cựu Tổng thống Nga D.Medvedev gọi là “diệt chủng”...
Trên bản đồ thế giới, có thể dễ dàng nhận thấy các quốc gia đã bị Mỹ áp dụng học
thuyết “can thiệp nhân đạo” đều nằm trong khu vực có vị trí quan trọng về chính
trị, kinh tế và quân sự, như: Áp-ga-ni-xtan là bàn đạp để chi phối toàn bộ vùng
Trung Á, Xéc-bi-a là trọng tâm trong vành đai “động đất địa - chính trị” kéo từ
Balkan qua Kavkaz đến Pakistan, Ấn Độ, Gruzia là tâm điểm của khu vực biển
Caspi... Đây là các khu vực đang nằm trong sự cạnh tranh và xung đột quyết liệt
giữa Mỹ, đồng minh với các quốc gia từng là đối thủ trong thời kỳ chiến tranh lạnh
và với các nước lớn, như: Nga, Trung Quốc, Ấn Độ...
Để biện minh cho hoạt động can thiệp, Mỹ và đồng minh cho rằng, trong trường
hợp một quốc gia bị rơi vào nội chiến hoặc khi chính quyền sở tại áp bức người
dân của chính nước họ thì các quốc gia khác không thể coi các nguyên tắc cơ bản
của pháp lý quốc tế về tôn trọng chủ quyền và không can thiệp là bất khả xâm
phạm. Với việc pháp điển hóa nhân quyền trong luật quốc tế, Mỹ đã đẩy khái niệm
chủ quyền quốc gia xuống hàng thứ yếu. Để đảm bảo nhân quyền, theo họ, cần
thiết phải giới hạn, thậm chí xâm phạm chủ quyền.
Tháng 7-2009, tại Đại hội đồng Liên hợp quốc đã diễn ra cuộc thảo luận toàn thể
về Báo cáo của Tổng Thư ký Liên hợp quốc dưới nhan đề “Thực hiện trách nhiệm
bảo vệ”. Nỗ lực nhằm thể chế hóa khái niệm “can thiệp nhân đạo” trong khuôn khổ
Liên hợp quốc không được sự hưởng ứng của đa số các quốc gia thành viên, nhất
là các nước đang phát triển. Các nước này cho rằng, khái niệm “can thiệp nhân
đạo” không có cơ sở trong luật pháp quốc tế hiện đại và việc áp dụng học thuyết
này sẽ xâm phạm chủ quyền quốc gia, tạo điều kiện cho các nước lớn áp đặt các
tiêu chuẩn và giá trị của họ đối với các nước yếu hơn. Đối thoại với Đại hội đồng
Liên hợp quốc về Báo cáo “Thực hiện trách nhiệm bảo vệ”, cựu Ngoại trưởng Ô-
xtrây-li-a Gareth Evans, một trong những người khởi xướng khái niệm này, khẳng
định “can thiệp nhân đạo” đã bị chôn vùi, “trách nhiệm bảo vệ” là khái niệm hoàn
toàn mới, được phát triển trên cơ sở học thuyết “can thiệp nhân đạo” và có chung
mục tiêu là nhằm ứng phó với những vi phạm nghiêm trọng Luật nhân đạo và nhân
quyền quốc tế. Nhưng khác với “can thiệp nhân đạo”, khái niệm này có mục tiêu,
phạm vi và điều kiện thực hiện rõ ràng hơn và được các quốc gia thành viên Liên
hợp quốc chấp thuận ở cấp cao nhất. Khác với “can thiệp nhân đạo”, “trách nhiệm
bảo vệ” được xác định rõ là hành động tập thể thực hiện thông qua Liên hợp quốc
và tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế. Nhưng dù được che đạy dưới bất
kỳ tên gọi nào đi nữa, bản chất của sự can thiệp vào chủ quyền, độc lập của một
quốc gia khác vì mục đích chính trị trong học thuyết “can thiệp nhân đạo” là không
hề thay đổi, không thể biện minh cho việc phớt lờ luật pháp quốc tế, những hành
động mà động cơ chính là nhằm áp đặt một trật tự thế giới có lợi cho Mỹ và
phương Tây, chứ không phải là để bảo vệ nhân quyền, an ninh và hòa bình trên thế
giới.
Là đất nước yêu chuộng hòa bình, Việt Nam luôn khẳng định chính sách nhất quán
muốn làm bạn và là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu
vì hòa bình, độc lập và phát triển, hợp tác cùng có lợi và không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau. Nhà nước Việt Nam kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, rộng mở, chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Tiếp
tục đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nỗ lực đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền
con người, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhà nước Việt Nam kiên
quyết lên án bất kỳ quốc gia, dân tộc nào can thiệp vào chủ quyền, công việc nội
bộ của quốc gia khác dưới bất kỳ hình thức nào.
Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động
này, thời gian tới, cần tập trung thực hiện các giải pháp trọng tâm sau:
Một là, tiếp tục chủ động triển khai nắm tình hình, dự báo kịp thời mọi âm mưu,
hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo tại các địa bàn trọng yếu
thường xảy ra biểu tình hoặc tồn tại các vụ, việc khiếu kiện phức tạp, vượt cấp kéo
dài chậm được giải quyết chống phá nước ta để triển khai các biện pháp phòng
ngừa, đấu tranh. Kịp thời phát hiện, phối hợp giải quyết dứt điểm các mâu thuẫn,
khiếu kiện, “điểm nóng” ngay từ cơ sở, không để kéo dài, không lây lan, vượt cấp.
Nắm tình hình tâm tư, nguyện vọng, những khó khăn, bức xúc trong nhân dân để
tham mưu, đề xuất các cơ quan chức năng giải quyết triệt để, thỏa đáng trên cơ sở
pháp luật.
Hai là, tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền chính sách, thành tựu
đảm bảo quyền con người ở Việt Nam. Kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền đối nội
và tuyên truyền đối ngoại; tận dụng thế mạnh của các kênh ngoại giao, đối thoại,
hợp tác làm cho cộng đồng quốc tế, kiều bào ta ở nước ngoài hiểu đúng quan điểm
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thành tựu đã đạt được trong đảm
bảo quyền con người ở Việt Nam, góp phần đấu tranh có hiệu quả với các luận
điệu tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực thù địch hòng vu cáo Việt Nam vi
phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp dân tộc, tôn giáo để tạo cớ can thiệp.
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo...
kết hợp với thực hiện công bằng xã hội, không ngừng nâng cao trình độ dân trí, đặc
biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo
nhằm góp phần đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền và lợi ích của người dân trên cơ
sở pháp luật. Tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh bảo đảm ổn định an ninh
chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Tiếp tục hoàn thành tốt vai trò là thành viên có
trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế về nhân
quyền mà Việt Nam đã chấp thuận. Tiếp tục tăng cường hợp tác quốc tế với các
quốc gia, dân tộc trên cơ sở cùng có lợi, không can thiệp vào nội bộ của nhau.