Chủ Nhật, 7 tháng 8, 2022

“Can thiệp nhân đạo” – một trong những dạng thức của “diễn biến hòa bình”

 Xuất hiện vào khoảng thế kỷ XVII ở châu Âu, khái niệm “can thiệp nhân đạo” ra

đời dưới dạng học thuyết và được gắn với luật tự nhiên và chủ nghĩa tự do. Ngay

từ lúc ra đời, nội dung của “can thiệp nhân đạo” đã gây ra nhiều tranh cãi giữa các

trường phái lý luận khác nhau. Theo quan điểm của H.Grotius (1), đại diện tiêu

biểu cho các nhà lý luận tự do kinh điển châu Âu được đa số học giả ủng hộ, thì

các quan hệ nảy sinh trong đời sống quốc tế cần được điều chỉnh trên cơ sở tôn

trọng chủ quyền quốc gia. Với mục đích cải thiện trật tự thế giới, Grotius đã đưa ra

thuật ngữ “chiến tranh chính nghĩa” và nhấn mạnh rằng chiến tranh chỉ có thể được

cho phép nếu có lý do chính nghĩa, rõ ràng. Về sau này, quan điểm của Grotius về

“can thiệp nhân đạo” đã được sự ủng hộ của đa số luật gia phương Tây hiện đại và

các chính khách của Mỹ. Đến thế kỷ XX, học thuyết “can thiệp nhân đạo” dần mất

cơ sở thực tế trong quan hệ giữa các nước và về mặt pháp lý, nó cũng không có cơ

sở trong luật pháp quốc tế. Theo quan điểm của các luật gia quốc tế và cựu Tổng

Thư ký Liên hợp quốc Kofi Annan, thì khái niệm “can thiệp nhân đạo” được giải

thích là: Quyền của cộng đồng quốc tế tiến hành hành động can thiệp, kể cả bằng

quân sự, vào một quốc gia không có sự chấp thuận của quốc gia đó và của Hội

đồng Bảo an Liên hợp quốc với mục đích ngăn chặn, chấm dứt tình trạng vi phạm

nhân quyền hàng loạt tại đó. “Can thiệp nhân đạo” không chỉ được thực hiện thông

qua sử dụng vũ lực, mà còn bao gồm cả các hoạt động can thiệp không sử dụng vũ

lực, như: chính trị, ngoại giao, kinh tế...

Theo các học giả này, “can thiệp nhân đạo” thông qua sử dụng vũ lực, được cho là

hình thức được áp dụng chủ yếu trong những năm vừa qua, có đặc điểm sau:  Là

hoạt động can thiệp vũ trang được thực hiện bằng tiến công quân sự hoặc tiến hành

chiến tranh; bí mật nuôi dưỡng, huấn luyện, cung cấp vũ khí... cho các lực lượng

đối lập. Quy mô và cường độ của can thiệp vũ trang tuỳ thuộc vào mục đích chính

trị của bên tiến hành can thiệp. Hoạt động này chỉ mang tính can thiệp, lực lượng

quân sự được đưa ra nước ngoài nhưng không thực hiện hành động xâm lược bất

kỳ nước nào khác. Tuy nhiên, theo luật pháp quốc tế thì hoạt động này có thể bị coi

là xâm lược. Yếu tố nhân đạo chính là điểm cốt lõi được nhấn mạnh trong hoạt

động “can thiệp nhân đạo”.

Trong phạm vi bài viết này, khái niệm “can thiệp nhân đạo” được tiếp cận với tư

cách là một hành vi bạo lực mang tính cưỡng ép, thì vấn đề can thiệp đã gây ra sự

xung đột giữa hai nguyên tắc pháp lý cơ bản của luật pháp quốc tế, đó là: Quyền tự

vệ của quốc gia can thiệp và quyền độc lập của quốc gia là đối tượng của hành vi

can thiệp. Luật pháp quốc tế không cho phép các quốc gia thực hiện các hành động

đơn phương không bị hạn chế chống lại nền độc lập của một quốc gia khác. Trong

Hiến chương Liên hợp quốc, tại khoản 4, Điều 2 ghi nhận: “Tất cả các quốc gia


thành viên kiềm chế không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực chống lại sự

toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của các quốc gia khác không phù hợp với

mục đích của Liên hợp quốc” (2). Tại khóa họp lần thứ 20 (năm 1965) của Đại hội

đồng Liên hợp quốc đã thông qua Tuyên bố về việc cấm một quốc gia hoặc một

nhóm các quốc gia can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác với bất cứ lý do

gì. Điều khoản đầu tiên của tuyên bố này đã trở thành cơ sở quy định về chống can

thiệp của luật pháp quốc tế hiện nay: “Không một quốc gia nào có quyền can thiệp

trực tiếp hay gián tiếp và vì bất kỳ lý do nào vào công việc của quốc gia khác. Vì

vậy, tất cả các hành vi can thiệp vũ trang và tất cả các hành vi can thiệp khác hoặc

đe dọa can thiệp chống lại cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa của quốc gia khác đều

bị lên án”.

Tuy rằng, các tuyên bố trên của Đại hội đồng Liên hợp quốc không ràng buộc về

mặt pháp lý, song đã cho thấy quan điểm giống nhau giữa các quốc gia là chống lại

việc sử dụng bất hợp pháp hành vi can thiệp. Như vậy, có thể thấy rõ rằng, “can

thiệp nhân đạo” không hề dựa trên bất kỳ cơ sở pháp lý nào được cộng đồng quốc

tế công nhận. Dù vậy, trong những năm qua, đặc biệt là từ sau khi chiến tranh lạnh

kết thúc, thế giới vẫn chứng kiến sự tồn tại của “can thiệp nhân đạo”. Đến nay,

Liên hợp quốc chưa có bất kỳ một cơ chế giám sát việc hạn chế hành vi “can thiệp

nhân đạo”, do đó dễ bị Mỹ và các nước phương Tây lợi dụng để phục vụ ý đồ riêng

của họ.

Một thực tế khác là, mặc dù luật pháp quốc tế đặt ra nguyên tắc không can thiệp

vào chủ quyền quốc gia, nhưng theo Điều 39, Hiến chương Liên hợp quốc, Hội

đồng Bảo an có thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa và cưỡng chế với một quốc

gia thực tế có hành động đe dọa hòa bình; phá hoại hòa bình hoặc có hành vi xâm

lược. Tuy nhiên, bản chất của sự can thiệp có tính chất tập thể và có điều kiện, chứ

không phải là sự can thiệp tùy tiện của một hoặc một nhóm quốc gia, không bao

hàm yếu tố nhân quyền. Mỹ đã tìm cách mở rộng phạm vi của sự can thiệp, dùng

“can thiệp nhân đạo” giải quyết “các vi phạm nhân quyền”; thực chất là nhằm bảo

vệ lợi ích và sắp xếp lại trật tự thế giới theo ý đồ của Mỹ hoặc chống lại các “nguy

cơ” gây hại cho họ theo lập luận: “Can thiệp nhân đạo” nhằm giải quyết mối nguy

cơ diệt chủng, “Mỹ chỉ can thiệp khi lợi ích quốc gia của Mỹ bị đe dọa hoặc khi đe

dọa diệt chủng là quá rõ ràng, cần sự can thiệp để bảo vệ vai trò lãnh đạo của Mỹ

trong thế giới tự do”(3).

Thực tế cho thấy, “can thiệp nhân đạo” đã được Mỹ và đồng minh áp dụng với

nhiều quốc gia có chủ quyền trên thế giới. Điển hình là tại Nam Tư, với chiêu bài

nhằm bảo vệ “người Albania bị người Xéc-bi-a thanh lọc sắc tộc ở Cosovo”, năm

1999, Mỹ và NATO đã mở cuộc chiến tranh với quy mô lớn vào quốc gia này. Với

lập luận “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, Mỹ cho rằng, việc vi phạm chủ quyền

của một quốc gia với mục đích nhân đạo hoặc “ngăn chặn tệ nạn diệt chủng” là có

thể biện minh được. Sau cuộc chiến tranh này, học thuyết “can thiệp nhân đạo”


được chính thức đưa vào nội dung chiến lược mới của NATO và được thông qua

tại dịp kỷ niệm 50 năm thành lập tổ chức này. Năm 2001, sau sự kiện ngày 11-9,

Mỹ đã phát động cuộc chiến tranh “toàn cầu chống khủng bố” nhằm vào Áp-ga-ni-

xtan, một quốc gia bị Mỹ và NATO cho là nơi chứa chấp những tên khủng bố đã

gây ra sự kiện 11-9. Đến cuộc chiến tại Nam Ossetia, xung đột được mở đầu bằng

đòn tiến công ồ ạt của quân đội Grudia dưới sự hậu thuẫn của Mỹ, NATO nhằm

vào dân thường tại thủ phủ Tskhinvali và lực lượng gìn giữ hòa bình Nga, hậu quả

là người dân thường Nga đã phải chịu tổn thất rất lớn về sinh mạng. Hành động

này đã được cựu Tổng thống Nga D.Medvedev gọi là “diệt chủng”...

Trên bản đồ thế giới, có thể dễ dàng nhận thấy các quốc gia đã bị Mỹ áp dụng học

thuyết “can thiệp nhân đạo” đều nằm trong khu vực có vị trí quan trọng về chính

trị, kinh tế và quân sự, như: Áp-ga-ni-xtan là bàn đạp để chi phối toàn bộ vùng

Trung Á, Xéc-bi-a là trọng tâm trong vành đai “động đất địa - chính trị” kéo từ

Balkan qua Kavkaz đến Pakistan, Ấn Độ, Gruzia là tâm điểm của khu vực biển

Caspi... Đây là các khu vực đang nằm trong sự cạnh tranh và xung đột quyết liệt

giữa Mỹ, đồng minh với các quốc gia từng là đối thủ trong thời kỳ chiến tranh lạnh

và với các nước lớn, như: Nga, Trung Quốc, Ấn Độ...

Để biện minh cho hoạt động can thiệp, Mỹ và đồng minh cho rằng, trong trường

hợp một quốc gia bị rơi vào nội chiến hoặc khi chính quyền sở tại áp bức người

dân của chính nước họ thì các quốc gia khác không thể coi các nguyên tắc cơ bản

của pháp lý quốc tế về tôn trọng chủ quyền và không can thiệp là bất khả xâm

phạm. Với việc pháp điển hóa nhân quyền trong luật quốc tế, Mỹ đã đẩy khái niệm

chủ quyền quốc gia xuống hàng thứ yếu. Để đảm bảo nhân quyền, theo họ, cần

thiết phải giới hạn, thậm chí xâm phạm chủ quyền.

Tháng 7-2009, tại Đại hội đồng Liên hợp quốc đã diễn ra cuộc thảo luận toàn thể

về Báo cáo của Tổng Thư ký Liên hợp quốc dưới nhan đề “Thực hiện trách nhiệm

bảo vệ”. Nỗ lực nhằm thể chế hóa khái niệm “can thiệp nhân đạo” trong khuôn khổ

Liên hợp quốc không được sự hưởng ứng của đa số các quốc gia thành viên, nhất

là các nước đang phát triển. Các nước này cho rằng, khái niệm “can thiệp nhân

đạo” không có cơ sở trong luật pháp quốc tế hiện đại và việc áp dụng học thuyết

này sẽ xâm phạm chủ quyền quốc gia, tạo điều kiện cho các nước lớn áp đặt các

tiêu chuẩn và giá trị của họ đối với các nước yếu hơn. Đối thoại với Đại hội đồng

Liên hợp quốc về Báo cáo “Thực hiện trách nhiệm bảo vệ”, cựu Ngoại trưởng Ô-

xtrây-li-a Gareth Evans, một trong những người khởi xướng khái niệm này, khẳng

định “can thiệp nhân đạo” đã bị chôn vùi, “trách nhiệm bảo vệ” là khái niệm hoàn

toàn mới, được phát triển trên cơ sở học thuyết “can thiệp nhân đạo” và có chung

mục tiêu là nhằm ứng phó với những vi phạm nghiêm trọng Luật nhân đạo và nhân

quyền quốc tế. Nhưng khác với “can thiệp nhân đạo”, khái niệm này có mục tiêu,

phạm vi và điều kiện thực hiện rõ ràng hơn và được các quốc gia thành viên Liên

hợp quốc chấp thuận ở cấp cao nhất. Khác với “can thiệp nhân đạo”, “trách nhiệm


bảo vệ” được xác định rõ là hành động tập thể thực hiện thông qua Liên hợp quốc

và tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế. Nhưng dù được che đạy dưới bất

kỳ tên gọi nào đi nữa, bản chất của sự can thiệp vào chủ quyền, độc lập của một

quốc gia khác vì mục đích chính trị trong học thuyết “can thiệp nhân đạo” là không

hề thay đổi, không thể biện minh cho việc phớt lờ luật pháp quốc tế, những hành

động mà động cơ chính là nhằm áp đặt một trật tự thế giới có lợi cho Mỹ và

phương Tây, chứ không phải là để bảo vệ nhân quyền, an ninh và hòa bình trên thế

giới.

Là đất nước yêu chuộng hòa bình, Việt Nam luôn khẳng định chính sách nhất quán

muốn làm bạn và là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu

vì hòa bình, độc lập và phát triển, hợp tác cùng có lợi và không can thiệp vào công

việc nội bộ của nhau. Nhà nước Việt Nam kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự

chủ, rộng mở, chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Tiếp

tục đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nỗ lực đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền

con người, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì

hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhà nước Việt Nam kiên

quyết lên án bất kỳ quốc gia, dân tộc nào can thiệp vào chủ quyền, công việc nội

bộ của quốc gia khác dưới bất kỳ hình thức nào.

Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động

này, thời gian tới, cần tập trung thực hiện các giải pháp trọng tâm sau:

Một là, tiếp tục chủ động triển khai nắm tình hình, dự báo kịp thời mọi âm mưu,

hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo tại các địa bàn trọng yếu

thường xảy ra biểu tình hoặc tồn tại các vụ, việc khiếu kiện phức tạp, vượt cấp kéo

dài chậm được giải quyết chống phá nước ta để triển khai các biện pháp phòng

ngừa, đấu tranh. Kịp thời phát hiện, phối hợp giải quyết dứt điểm các mâu thuẫn,

khiếu kiện, “điểm nóng” ngay từ cơ sở, không để kéo dài, không lây lan, vượt cấp.

Nắm tình hình tâm tư, nguyện vọng, những khó khăn, bức xúc trong nhân dân để

tham mưu, đề xuất các cơ quan chức năng giải quyết triệt để, thỏa đáng trên cơ sở

pháp luật.

Hai là, tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền chính sách, thành tựu

đảm bảo quyền con người ở Việt Nam. Kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền đối nội

và tuyên truyền đối ngoại; tận dụng thế mạnh của các kênh ngoại giao, đối thoại,

hợp tác làm cho cộng đồng quốc tế, kiều bào ta ở nước ngoài hiểu đúng quan điểm

của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thành tựu đã đạt được trong đảm

bảo quyền con người ở Việt Nam, góp phần đấu tranh có hiệu quả với các luận

điệu tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực thù địch hòng vu cáo Việt Nam vi

phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp dân tộc, tôn giáo để tạo cớ can thiệp.

Ba là, tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo...

kết hợp với thực hiện công bằng xã hội, không ngừng nâng cao trình độ dân trí, đặc

biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo


nhằm góp phần đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền và lợi ích của người dân trên cơ

sở pháp luật. Tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh bảo đảm ổn định an ninh

chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Tiếp tục hoàn thành tốt vai trò là thành viên có

trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế về nhân

quyền mà Việt Nam đã chấp thuận. Tiếp tục tăng cường hợp tác quốc tế với các

quốc gia, dân tộc trên cơ sở cùng có lợi, không can thiệp vào nội bộ của nhau.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét