Thứ Ba, 9 tháng 8, 2022

Cảnh giác trước luận điệu đòi xoá bỏ một số điều luật trong bộ luật hình sự

    Thời đại ngày nay, mọi quốc gia trên thế giới đều quản lý xã hội bằng pháp luật và các quốc gia hoàn thiện hệ thống pháp luật theo tình hình, đặc điểm, điều kiện cụ thể. điều đó thể hiện sự tiến bộ, văn minh của loài người.

Thế nhưng, hiện một số người, nhất là số cơ hội chính trị có quan hệ với các tổ chức thù địch, đối tượng phản động lưu vong, chống phá nhà nước từ bên ngoài đang tìm cách đi ngược lại sự văn minh, tiến bộ xã hội. các đối tượng tìm kiếm sự can thiệp từ bên ngoài nhằm kêu gọi xóa bỏ một số điều luật với các mục đích chính trị xấu.

Chẳng hạn, các đối tượng kêu gọi xóa bỏ một số điều luật được quy định tại bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi năm 2017), bao gồm một số điều luật thuộc nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia như: điều 109 "tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân"; điều 117 "tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam". … Thực chất, việc kêu gọi xóa bỏ các điều luật này xuất phát từ các đối tượng có âm mưu, hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước ta. vậy, mục đích của các đối tượng kêu gọi xóa bỏ các điều luật này là gì?

Thứ nhất, các đối tượng đang muốn đưa mình thoát khỏi "vùng cấm" của luật pháp, muốn đứng ngoài vòng pháp luật để dễ bề hoạt động chống phá mà không bị chế tài pháp luật xử lý. các đối tượng đang cố gắng tạo cho mình một vành đai an toàn, nằm trong "nhóm lợi ích" vượt ra ngoài sự quản lý của pháp luật để tiến hành các hoạt động chống phá nhà nước như: tuyên truyền chống nhà nước; thành lập các tổ chức chính trị đối lập, đối trọng với Đảng Cộng sản Việt Nam… mà không bị pháp luật cấm đoán.

Thứ hai, các đối tượng muốn gây sự chú ý từ bên trong lẫn bên ngoài, thông qua các hoạt động tuyên truyền kêu gọi, tẩy chay, đòi xóa bỏ các điều luật nhằm gây sự chú ý cho dư luận trong nước cũng như cộng đồng quốc tế, nhất là các tổ chức theo dõi nhân quyền, các cơ quan truyền thông thiếu thiện chí, thường xuyên có các bài viết chống phá việt nam như đài RFA, RFI... các hoạt động kêu gọi nhằm đánh lạc hướng dư luận để tạo suy nghĩ rằng môi trường chính trị của Việt Nam đang "rối ren"; tâm lý người dân bất ổn, hoang mang, qua đó hòng tạo áp lực dư luận để đòi hỏi phải thay đổi các quy định hoặc xóa bỏ các điều luật này.

Thứ ba, tất cả các hoạt động kêu gọi xóa bỏ các quy định của điều luật trên không nằm ngoài âm mưu tạo ra môi trường thuận lợi để tiến hành các hoạt động chống phá đảng, nhà nước, mục đích hướng đến là thay đổi nhận thức của đông đảo quần chúng toàn xã hội, tiến tới xóa bỏ, lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. việc kêu gọi xóa bỏ một số điều luật trong bộ luật hình sự Việt Nam nhằm xuyên tạc, vu khống, hạ bệ hình ảnh Việt Nam, cho rằng chúng ta vi phạm dân chủ, nhân quyền; vu cáo nhà nước sử dụng các điều luật này để "bóp nghẹt" quyền tự do dân chủ, các quyền căn bản của công dân được hiến định…

Thực tế, không phải vì nhận thức thiếu hiểu biết dẫn tới phạm pháp mà hầu hết các đối tượng đều hiểu rõ những hành động của mình là trái với quy định của pháp luật, là phạm tội, nhưng với các động cơ khác nhau, họ vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. thậm chí không ít đối tượng dù bị cơ quan chức năng nhiều lần cảnh cáo, nhắc nhở hay xử phạt hành chính, xử lý hình sự nhưng sau đó vẫn bất chấp, cố tình thực hiện hành vi, thách thức pháp luật. Do đó, việc xử phạt với các điều khoản tương ứng hành vi, tính chất phạm tội là việc làm đương nhiên của cơ quan bảo vệ pháp luật. điều đó càng cho thấy sự nghiêm minh của pháp luật và việc xử lý đó được cộng đồng xã hội đồng tình ủng hộ (ngoại trừ các phần tử tham gia các tổ chức phản động, chống phá nhà nước).

Một nguyên tắc trong xây dựng nhà nước pháp quyền là phải thượng tôn pháp luật, không ai có thể đứng ngoài pháp luật. dù là ai, vị trí nào, gia thế ra sao thì khi vi phạm đều xử lý bình đẳng và pháp luật hình sự cũng quy định rõ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Theo đó, những ai chủ mưu, cầm đầu, cố tình thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, phạm tội nhiều lần, tái phạm nguy hiểm… thì sẽ bị tăng nặng trách nhiệm hình sự. Ngược lại, những ai vì nhận thức thấp kém, phạm tội do bị rủ rê, lôi kéo; biết ăn năn, hối lỗi, thành khẩn khai báo… thì được giảm nhẹ hình phạt. khi xét xử, luận tội, toà án xem xét công và tội rõ ràng, công minh.

Ổn định chính trị - xã hội là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước. bài học từ một số quốc gia vùng Trung đông, Bắc phi, Nam mỹ… cho thấy, khi xã hội bất ổn, rối ren, hậu quả khủng hoảng đến với người dân là không thể lường, sự bất ổn đó tác động trực tiếp đến tính mạng, sức khoẻ, làm đảo lộn đời sống vật chất, tinh thần của người dân. và một trong những nguyên do dẫn tới sự bất ổn đó là có bàn tay chống phá của các thế lực xấu, sự bào mòn các giá trị căn bản của luật pháp và xã hội.

Do đó, bảo vệ sự ổn định chính trị - xã hội, tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật là yếu tố căn bản, góp phần tạo nên một xã hội công bằng, bền vững, loại trừ các nguy cơ can thiệp, chống phá, lật đổ chính quyền nhân dân, đó là mục tiêu tối thượng trong công cuộc bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Việc đòi bỏ điều luật này, điều luật kia dưới vỏ bọc dân chủ, nhân quyền chỉ là chiêu trò, thủ đoạn của các thế lực chống phá nhằm gây rối ren, bất ổn xã hội./.

TMT

Khắc phục tình trạng chủ quan, lơ là, mất cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động

Lợi dụng sự hội nhập, giao thoa văn hóa, các thế lực chống phá cũng đang tiêm những “liều thuốc an thần văn hóa” cho xã hội ta bằng nhiều hình thức, nhiều con đường nhằm truyền bá văn hóa phản động, độc hại trong xã hội, làm băng hoại những giá trị văn hóa truyền thống, xã hội chủ nghĩa dẫn đến sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Họ thông qua con đường nghiên cứu, hội thảo khoa học để tạo diễn đàn cho các phần tử, những trí thức có tư tưởng bất mãn, cơ hội, chống đối; biến họ từ cái loa tuyên truyền đắc lực thành “lực lượng chống đối từ bên trong” rất nguy hiểm. Chúng còn lật lại lịch sử của dân tộc, phán xét bằng những lời lẽ thiếu khách quan, xuyên tạc, bóp méo sự thật. Thoạt nghe có vẻ chính đáng nhưng sự thật chỉ phục vụ mưu đồ của các thế lực phản động, thiếu thiện chí nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gieo rắc sự hoài nghi đối với lịch sử đất nước từ khi có Đảng lãnh đạo. Thực hiện mục tiêu đó, họ sử dụng các cách thức tác động tâm lý xã hội, đánh vào tâm lý, tinh thần bằng những thủ đoạn tinh vi làm chuyển hóa đối phương ở mọi lúc, mọi nơi, len lỏi vào từng người, từng nhóm để “lung lạc” nhận thức tư tưởng, “gặm nhấm” tình cảm, điều khiển ý chí và hành động, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ đối phương trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, để thực hiện âm mưu làm biến chất xã hội, mục ruỗng lý tưởng, tiến tới phá sập hệ tư tưởng, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, họ âm thầm gieo trồng những tư tưởng phản động; thao túng nhận thức, tình cảm của cán bộ, đảng viên và nhân dân, dẫn đến “tự diễn biến”, đổi màu, đổi hướng, gây tâm trạng hoài nghi về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thiếu niềm tin vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Thủ đoạn mà các thế lực thù địch thường sử dụng là: cắt xén hoặc chắp ghép các vấn đề lý luận theo kiểu “râu ông nọ cắm cằm bà kia” để xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực chất là họ cố tình lảng tránh tiếp cận vấn đề lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin theo một chỉnh thể thống nhất với những “hòn đá tảng” không thể phủ nhận. Cùng với đó, họ sử dụng nhiều chiêu trò gây hỗn loạn về lý luận, tư tưởng, làm mờ đi hệ tư tưởng chính trị, tạo ra sự ngộ nhận rằng, dường như không có vấn đề đấu tranh giai cấp, bạn - thù. Trên thực tế, những chiêu trò trên ít, nhiều đã phát huy tác dụng. Dễ nhận thấy, giữa lúc “diễn biến hòa bình” đang được các thế lực thù địch đẩy mạnh, với những biến tướng muôn hình vạn trạng hết sức nguy hiểm, thì nhiều người lại mơ hồ, mất cảnh giác khi cho rằng “diễn biến hòa bình” chỉ là sự tưởng tượng của những người cộng sản. Sẽ rất nguy hại nếu để các tư tưởng này lớn dần trong xã hội. Vì vậy, phải hết sức cảnh giác với thủ đoạn “ru ngủ tinh thần cảnh giác” của các thế lực thù địch. Phải làm để khắc phục tình trạng chủ quan, lơ là, mất cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Nhưng trước hết, phải bắt đầu từ việc tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền trong uốn nắn những lệch lạc, đấu tranh ngăn chặn kịp thời những biểu hiện chủ quan, lơ là, mất cảnh giác ngay từ cơ sở. Chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về tình hình nhiệm vụ, hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động; thấy rõ sự nguy hiểm, khôn lường của tình trạng chủ quan, lơ là, mất cảnh giác của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân hiện nay. Qua đó, nâng cao ý thức trách nhiệm của các tổ chức đảng, từng cán bộ, đảng viên và nhân dân đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” ngay trên lĩnh vực, ngành mình công tác, trong mỗi tổ chức mà mình là thành viên. Trong cuộc sống đời thường, êm ả, người ta thường dễ mất cảnh giác hơn. Đó cũng là lúc những mầm mống của sự phá hoại âm thầm nảy nở, chờ đợi thời cơ bùng phát. Do đó, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trước các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch cho cán bộ, đảng viên và nhân dân phải được tiến hành thường xuyên, hiệu quả. Mỗi người cần chú trọng trang bị cho mình những kiến thức cơ bản, nâng cao khả năng tự “miễn dịch” trước các luận điệu chống phá. Nắm vững và chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật trong tiếp cận, khai thác thông tin, nhất là Luật tiếp cận thông tin, Luật An ninh mạng, Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội, v.v. Mỗi cán bộ, đảng viên phải đề cao tính đấu tranh tự phê bình và phê bình, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa”, phát huy trách nhiệm nêu gương trong chấp hành Điều lệ và các quy định của Đảng, của cơ quan, đơn vị; thận trọng trong phát ngôn, chia sẻ, bình luận, nhận định, đánh giá các vấn đề trên mạng xã hội. Đó cũng là cách lấy “xây” để “chống”, tỉnh táo để thoát khỏi “mê cung” thông tin, luôn đề cao tinh thần cảnh giác để tránh rơi vào cạm bẫy “ru ngủ” của các thế lực thù địch.

Cảnh giác trước thủ đoạn xuyên tạc, hướng lái vụ án tại “Tịnh thất bồng lai"

    Xung quanh vụ án “lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” xảy ra tại “tịnh thất bồng lai”, xuất hiện luồng thông tin tiêu cực, không đúng sự thật do các đối tượng xấu lan truyền hòng làm nhiễu dư luận.

Ngay sau khi bản án sơ thẩm được đưa ra, các cá nhân, tổ chức chống đối, cơ hội chính trị đã nhanh chóng đăng đàn xuyên tạc bản chất vụ án, đánh võng thông tin, hướng lái tiêu cực. những cái tên quen thuộc như việt tân, đài á châu tự do – RFA, BBC news tiếng việt… liên tục tung ra những bài viết với các luận điệu sai trái. các đối tượng viết bài quy kết rằng, việc kết án các bị cáo trong “tịnh thất bồng lai” là không có căn cứ, quá trình xét xử thiếu công minh; chính quyền đang “đàn áp tự do tôn giáo” bằng một điều luật “mơ hồ”... từ đó, số này kêu gọi các quốc gia, tổ chức quốc tế can thiệp, gây sức ép với việt nam để trả tự do cho những người bị kết án.

Với phương châm lợi dụng vấn đề nhân quyền, dân tộc, tôn giáo làm ngòi nổ để chống phá chế độ, các thế lực thù địch, phản động, chống đối, cơ hội chính trị đã nhanh chóng hướng lái “chính trị hoá” vụ án “tịnh thất bồng lai”. về vấn đề này, ban tôn giáo chính phủ cho biết, qua trao đổi với trung ương giáo hội phật giáo việt nam cho thấy, “tịnh thất bồng lai” là cơ sở thờ tự không hợp pháp.

Theo báo cáo của UBND tỉnh Long An gửi ban tôn giáo chính phủ, cơ sở trên có một số sai phạm như: các công trình xây dựng đều do cá nhân đứng tên và xây dựng trên đất ở nông thôn; bà Cao Thị Cúc là chủ cơ sở trên đã sử dụng đất trồng lúa vào mục đích khác không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép; UBND xã cũng đã ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính và buộc bà Cúc khôi phục tình trạng ban đầu của đất. theo ban tôn giáo chính phủ, vụ việc này có dấu hiệu lợi dụng tôn giáo để trục lợi, mặc dù chủ cơ sở khẳng định chỉ thờ tượng phật tại gia, không phải sinh hoạt tôn giáo. Ngay từ những giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên, các đối tượng xấu đã ra sức “kêu oan”, “khóc mướn” cho các đối tượng trong vụ án và vu khống chính quyền làm oan người vô tội. họ cố tình che đậy bản chất vi phạm của “tịnh thất bồng lai”, biến các đối tượng trong vụ án thành “nạn nhân” của chế độ.

Qua quá trình tổ tụng, các cơ quan chức năng có đầy đủ tài liệu, chứng cứ để khẳng định các bị cáo trong vụ án xảy ra tại “tịnh thất bồng lai” đã có hành vi lợi dụng hoạt động tôn giáo và có hành vi chống đối, vu khống cơ quan chức năng khi thực thi nhiệm vụ. những sai phạm xảy ra tại “tịnh thất bồng lai” diễn ra có tổ chức, trong một thời gian dài, đã xúc phạm trực tiếp đến uy tín, danh dự của nhiều cá nhân, tổ chức như: công an huyện Đức Hòa, ông Trần Ngọc Thảo (thượng tọa thích nhật từ, ủy viên Hội đồng trị sự giáo hội phật giáo Việt Nam, phó ban phật giáo quốc tế và trụ trì chùa giác ngộ)...

Việc xét xử sơ thẩm vụ án “lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” xảy ra tại “tịnh thất bồng lai” đã được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. quá trình xét xử đảm bảo nguyên tắc tranh tụng công khai, dân chủ.  nếu không đồng ý với bản án sơ thẩm, các bị cáo hoàn toàn có quyền kháng cáo đến toà án cấp trên trực tiếp. vì vậy, chẳng có lý do gì để các “nhà dân chủ” vu khống rằng việc xét xử là thiếu công bằng, bản án được đưa ra là “bất công”, “phi lý”!

Đảng, Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. tuy nhiên, tự do tôn giáo phải đi liền với tôn trọng pháp luật. các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. không ai được phép xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật, xúc phạm đến tổ chức, cá nhân. bản chất của “tịnh thất bồng lai” là lợi dụng tôn giáo để trục lợi. việc thành lập và hoạt động của cơ sở này trái quy định của pháp luật, không đúng với quy tắc của giáo hội phật giáo Việt Nam.

Đằng sau những luận điệu xuyên tạc bản chất vụ án “tịnh thất bồng lai” là mục đích làm nhiễu loạn tình hình, gây phân tâm dư luận, kích động sự mâu thuẫn trong xã hội hòng tạo ra sự mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. đồng thời, bằng các luận điệu sai trái, các thế lực bên ngoài đang cố tình bẻ lái, dựng chuyện nhằm bôi nhọ hình ảnh, làm giảm uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế và tìm kiếm những tác động từ bên ngoài hòng can thiệp vào công việc nội bộ của việt nam. những hoạt động này đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích xã hội. Do vậy mỗi cán bộ, Đảng viên và người dân phải hết sức tỉnh táo, tránh bị mắc vào âm mưu phá hoại đất nước của các thế lực thù địch hiện nay./.

TMT

Bảo vệ và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của quân đội

 Thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội, các thế lực thù địch luôn tập trung xuyên tạc những giá trị truyền thống tốt đẹp của quân đội ta. chúng xuyên tạc về lòng trung thành của quân đội với Đảng, Nhà nước và Nhân dân; xuyên tạc mối quan hệ đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc tế của quân đội với những luân điệu hết sức phản động, phản khoa học, hòng làm phai mờ hình ảnh tốt đẹp của “bộ đội cụ hồ” trong lòng nhân dân và bạn bè quốc tế. nổi bật là một số luận điệu: “Lực lượng vũ trang chỉ trung thành với Tổ quốc và Nhân dân chứ không phải trung thành với bất kỳ tổ chức, lực lượng nào”; “xóa bỏ quy định lực lượng vũ trang phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam”; “quân đội là chỉ của quốc gia dân tộc” và có nhiệm vụ “bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và phục vụ Nhân dân chứ không phải bảo vệ chế độ nào”.  cùng với đó, chúng triệt để lợi dụng những thiếu sót, khuyết điểm của một số cán bộ, chiến sĩ trong quan hệ với nhân dân để ra sức kích động nhằm chia rẽ mối quan hệ giữa quân đội với nhân dân; chúng vu cáo: “tuy gọi là quân đội nhân dân song thực chất chỉ là công cụ bạo lực của một tập đoàn cầm quyền, không phải là quân đội mang lại lợi ích cho dân”….

Những luận điệu trên được chúng “nhai đi nhai lại” nhiều lần, do vậy, nếu không tỉnh táo, sáng suốt, một bộ phận người dân, nhất là thanh niên sẽ bị lôi kéo, dao động tư tưởng, từ đó nghe theo sự xúi dục của các phần tử chống đối chính trị. vì vậy, chúng ta phải kiên quyết phê phán, đấu tranh với những luận điệu phản động.

Có thể khẳng định, từ khi thành lập đến nay, trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, Gần 80 năm qua quân đội nhân dân việt nam luôn: trung với đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng; thực sự là quân đội anh hùng của dân, do dân và vì dân; được đảng và nhân dân ta hết mực tin yêu, bạn bè ngưỡng mộ và ngay cả kẻ thù cũng phải nể phục.

          Việc giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống của quân đội nhân dân việt nam, của “bộ đội cụ hồ” là công việc của chính mỗi cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, trong đó có những thanh niên ưu tú của quê hương hôm nay đang tràn đầy nhiệt huyết, khí thế quyết tâm và sự hào hứng chờ đến “ngày hội tòng quân” được khoác lên mình bộ quân phục người lính, chắc tay súng bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc; luôn gương mẫu đi đầu trong thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, công tác và lao động sản xuất, cũng như trong sinh hoạt đời thường của mỗi quân nhân. do đó, mỗi cán bộ, chiến sĩ phải nỗ lực rèn luyện, phấn đấu thực hiện tốt việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách hồ chí minh gắn với cuộc vận động phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội cụ hồ” thời kỳ mới./.

TMT

Một số giải pháp tăng cường bảo vệ chính trị nội bộ tình hình mới

Bảo vệ chính trị nội bộ là một trong những nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; có ý nghĩa sống còn đối với sinh mệnh của đảng, sự sống còn của chế độ và lợi ích quốc gia-dân tộc.

Trong thời gian qua, các cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương, Quân ủy Trung ương đến tổ chức cơ sở đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ; nắm chắc tình hình, rà soát, thẩm tra vấn đề lịch sử chính trị và chính trị hiện nay nên công tác bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, đề bạt cán bộ, phục vụ kịp thời, hiệu quả công tác nhân sự. kết quả nổi bật của công tác bảo vệ chính trị nội bộ là đã góp phần quan trọng khẳng định vai trò lãnh đạo của đảng đối với nhà nước và xã hội cũng như củng cố niềm tin của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân đối với đảng, nhà nước và quân đội; cán bộ, chiến sĩ quân đội cùng toàn đảng, toàn dân bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ đảng, nhà nước và nhân dân.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác bảo vệ chính trị nội bộ vẫn còn những hạn chế nhất định cần phải tiếp tục giải quyết tốt hơn, nhất là khắc phục sự bị động, lúng túng trong rà soát, thẩm tra, xác minh, thẩm định, kết luận về tiêu chuẩn chính trị của các đối tượng; nắm và quản lý tình hình chính trị nội bộ sâu sát, kịp thời hơn. thực hiện các quy định về bảo vệ bí mật nhà nước của một số cơ quan, đơn vị, cá nhân cần nghiêm túc hơn, không để xảy ra sơ hở, mất cảnh giác, kể cả ở cơ quan, đơn vị, vị trí trọng yếu, cơ mật. cùng với đó, phải phối hợp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chính trị nội bộ ở một số cấp ủy, tổ chức đảng thường xuyên, chặt chẽ hơn.

Trong thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực và trong nước tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường, nhất là tác động, ảnh hưởng tiêu cực của cuộc xung đột quân sự giữa nga và ukraine đến cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân, điều đó đặt ra nhiều vấn đề mới cho công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình mới. Để làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ cần thực hiện tốt một số biện pháp sau:

- Tiếp tục quán triệt sâu sắc và triển khai đồng bộ, toàn diện các giải pháp, biện pháp cụ thể, khả thi để nâng cao hơn nữa trình độ nhận thức, hiểu biết về vị trí, vai trò, nội dung, yêu cầu, nhiệm vụ của công tác bảo vệ chính trị nội bộ cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân, góp phần bảo vệ tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy.

- Kết hợp chặt chẽ giữa công tác bảo vệ chính trị nội bộ với công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; xây dựng quân đội nhân dân việt nam vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu; sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà đảng, nhà nước và nhân dân giao phó; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

- Chấp hành nghiêm và thực hiện đầy đủ, hiệu quả các quy định của đảng, nhà nước, quân đội về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, công tác cán bộ, nhất là các quy định về bảo mật, không để lộ, lọt, mất thông tin; không viết bài, đưa tin, phát ngôn sai quan điểm, chủ trương, đường lối của đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, gây dư luận xấu trong xã hội và trong quân đội; thực hiện nghiêm quy định số 126-qđ/tw ngày 28-2-2018 của bộ chính trị về công tác bảo vệ chính trị nội bộ; quy định số 37-qđ/tw ngày 25-10-2021 của ban chấp hành trung ương đảng về quy định những điều đảng viên không được làm. thực hiện tốt các phương châm trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ nhằm không bỏ sót những người có năng lực, trình độ trong quá trình thực hiện công tác bảo vệ chính trị nội bộ.

- Thường xuyên thực hiện tốt công tác nắm tình hình, rà soát chính trị nội bộ. kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và có biện pháp sử dụng, quản lý cán bộ, đảng viên phù hợp đối với những trường hợp có vấn đề chính trị. thực hiện tốt hơn nữa việc kê khai bổ sung lý lịch đảng viên, kiểm tra thẻ đảng, hộ chiếu, các giấy tờ liên quan đến cán bộ, đảng viên, chiến sĩ; kê khai các hoạt động đi ra nước ngoài, quan hệ với nước ngoài của cán bộ, đảng viên để kịp thời phát hiện vi phạm và uốn nắn.

- Tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức, bố trí cán bộ làm công tác bảo vệ an ninh ở các cấp. chủ động phối hợp với các cơ quan có liên quan trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ. nâng cao hơn nữa vai trò của cơ quan, cán bộ chuyên trách, kiêm nhiệm làm công tác bảo vệ chính trị nội bộ. nâng cao ý thức trách nhiệm, niềm vinh dự, tự hào của cán bộ, đảng viên được bổ nhiệm, đề bạt, cử đi học, ra nước ngoài. đồng thời, xem xét kỹ lưỡng về mặt chính trị, nhất là việc nhận xét, đánh giá bảo đảm của cơ quan bảo vệ an ninh theo phân cấp.

Bảo vệ chính trị nội bộ là nội dung hết sức quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng đảng, xây dựng quân đội nhân dân việt nam vững mạnh về chính trị. với sự quyết tâm cao, công tác bảo vệ chính trị nội bộ sẽ tiếp tục đạt được những kết quả tốt góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc, bảo vệ đảng, nhà nước, nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo định hướng xã hội chủ nghĩa./.

TMT

Cần nhận thức đúng về người nổi tiếng

 Người nổi tiếng là một bộ phận công dân được coi là tinh hoa của xã hội. quan niệm về người nổi tiếng ở mỗi thời đại, mỗi quốc gia, dân tộc, mỗi hoàn cảnh xã hội... có sự chuyển dịch, tiếp biến riêng trong nội hàm. chính vì vậy, quan điểm chính trị, xu hướng sáng tạo, mục tiêu cống hiến... của người nổi tiếng không thể tách rời hệ tư tưởng của đảng cầm quyền và ý chí, nguyện vọng của nhân dân. “bách khoa toàn thư mở” trên internet giải thích thuật ngữ người nổi tiếng gồm hai trường nghĩa như sau: người nổi tiếng hay “celeb” ý chỉ một cá nhân hay một nhóm người có danh tiếng, được công chúng thừa nhận một cách rộng rãi, được các phương tiện truyền thông đại chúng chú ý đến. họ có thể là các danh y, danh thủ, danh họa, danh ca, danh hài... người nổi tiếng hay danh nhân, nghĩa là người có danh tiếng bởi có công trạng với xã hội và được xã hội ghi nhận. họ có thể là những nhà văn hóa, nhà quân sự, nhà khoa học... Như vậy, nói đến người nổi tiếng là nói đến những con người có danh tiếng, hoạt động và lao động nghề nghiệp của họ có sự nổi trội, vượt trội về tài năng, thành tích, hiệu quả cống hiến, có công trạng với xã hội, được đông đảo công chúng biết đến và được xã hội ghi nhận, tôn vinh. Trong mọi hoạt động kinh tế-chính trị-văn hóa-xã hội... người nổi tiếng giữ vị thế quan trọng, đặc biệt là việc quảng bá hình ảnh đất nước, xây dựng và quảng bá thương hiệu, sứ giả văn hóa, xúc tiến phát triển du lịch, thu hút đầu tư, công tác từ thiện xã hội... trong các hoạt động, sự xuất hiện, tham gia của người nổi tiếng như là một hình ảnh bảo chứng, bảo trợ cho giá trị chất lượng và mức độ lan tỏa của sự kiện, lĩnh vực được công chúng, xã hội quan tâm.

Trước đây, khi CNTT, internet chưa phát triển, trong đời sống văn hóa, tinh thần, tâm lý xã hội, người nổi tiếng xuất hiện và được công chúng biết đến nhiều nhất là những lãnh tụ, anh hùng, chiến sĩ, những tên tuổi tài năng trong lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ thuật, thể thao... nhiều người nổi tiếng đã đi vào sử sách, neo lại trong nền văn hóa dân tộc thành những hình tượng kinh điển, trở thành tấm gương sáng về đạo đức, tài năng, công trạng đối với đất nước, được xã hội vinh danh. những tên tuổi lớn trên các lĩnh vực, có công lao đóng góp to lớn cho đất nước đều có sức sống vượt thời gian, trở thành giá trị bất biến, được hậu thế tự hào học tập, noi theo...

Trong thời đại bùng nổ CNTT và internet, quan niệm về người nổi tiếng được mở rộng hơn, phạm vi xuất hiện của người nổi tiếng đa dạng, phong phú hơn với tốc độ nhanh hơn. bên cạnh những lĩnh vực truyền thống, ngày nay, có nhiều người nổi tiếng trong giới doanh nghiệp, doanh nhân, những người tham gia hoạt động xã hội, người có hành động dũng cảm, phi thường... sức lan tỏa của không gian mạng có thể làm cho một cá nhân hay một nhóm người nào đó từ chỗ vô danh đến nổi tiếng chỉ trong khoảnh khắc. đó có thể là một anh tài xế có hành động phi thường, cứu mạng em bé rơi từ tầng cao xuống đất. đó là anh chiến sĩ cảnh sát dũng cảm cứu được cả nhóm thanh niên đuối nước khi đi tắm biển. đó là anh bộ đội quên mình cứu dân trong lũ quét... Cho dù ở thời đại nào, hoàn cảnh xã hội nào thì người nổi tiếng được xã hội công nhận, tôn vinh phải là người có đức, có tài, có cống hiến vì sự phát triển của đất nước./.TMT

 

NHẬN THỨC VỀ CÔNG TÁC BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH

 

Sự phát triển của mạng xã hội đã và đang góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển về mọi mặt của một xã hội thông tin. Tuy nhiên, thực tế đã chứng minh sự tác động của mạng xã hội đến đời sống của con người có tính hai mặt. Bên cạnh những tác động tích cực, mạng xã hội cũng gây ra không ít những tác động tiêu cực, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, đặc biệt trong bối cảnh các thế lực thù địch, phản động đang lợi dụng sự phát triển của mạng xã hội để tiến hành chống phá cách mạng Việt Nam. 

Có thể thấy rằng, sau nhiều thập kỷ thực hiện chính sách thù địch, chống phá không đạt hiệu quả, các thế lực phản động ở trong nước và nước ngoài đang thay đổi phương thức hoạt động nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, vô hiệu hóa quân đội, tiến tới xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam. Chúng tấn công, phủ định, xuyên tạc học thuyết Mác - Lênin, đưa ra các luận điệu cổ vũ cho bạo lực, chiến tranh; phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận vai trò và thành tựu lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngoài ra, chúng còn bôi xấu lãnh đạo Đảng, Nhà nước với nhiều thủ đoạn tinh vi; chống phá chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Phương thức chống phá của chúng chủ yếu là sử dụng phương tiện truyền thông đại chúng, sử dụng internet và truyền thông xã hội để chống phá; lợi dụng những hạn chế trong quản lý nhà nước để kích động biểu tình trái phép và xuyên tạc đường lối. Chúng lợi dụng, khoét sâu những thiếu sót trong công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, cũng như những suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên để gây dao động về tư tưởng, gây mất lòng tin, thiếu đồng thuận trong Nhân dân, kích động, chia rẽ nội bộ để chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ ta. Điều đáng lưu ý là gần đây đã xuất hiện thêm một số tài liệu chống đối trắng trợn hơn, xuyên tạc lịch sử cùng với những luận điệu hết sức phản động. Lợi dụng thời điểm Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng, trong bối cảnh chống dịch Covid-19, chúng không ngừng chống phá Đảng, Nhà nước; lôi kéo tập hợp lực lượng và kích động tư tưởng chống đối; chia rẽ nội bộ Đảng với Nhân dân và Quân đội nhân dân.

Hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội hiện nay là họ tìm mọi cách tập hợp những người có trình độ cao nhưng thiếu bản lĩnh chính trị, suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống để tấn công trực tiếp vào nền tảng tư tưởng của Đảng, tìm mọi cách để chứng minh chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là sai lầm; họ ra sức tuyên truyền và cổ súy cho hệ tư tưởng và nền dân chủ tư sản; xuyên tạc, bôi nhọ lãnh tụ và lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước; xuyên tạc quan hệ giữa nước ta với các nước khác trên thế giới; lợi dụng, lôi kéo những người nhẹ dạ, cả tin để kích động; tìm mọi cách để lập luận, chứng minh Đảng và Nhà nước ta không thực sự vì dân, chỉ có họ mới thực sự vì dân, vì nước, đứng ra đấu tranh để bảo vệ nhân dân; bảo vệ chủ quyền lãnh thổ... lên án cán bộ, đảng viên của Đảng và Nhà nước tham nhũng, thiếu dũng khí, quyết tâm trong bảo vệ chủ quyền biển đảo... Khi Đảng ta đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, đưa những vụ án lớn ra xét xử thì họ lại xuyên tạc đó là cuộc đấu đá giữa các phe phái trong Đảng, Nhà nước...

Với những sản phẩm truyền thông được đầu tư kỹ lưỡng và được lan tỏa, không chỉ khiến những người dân trình độ thấp, ít thông tin bị mê hoặc mà ngay cả một bộ phận người dân có trình độ cao hơn cũng hoang mang, hoài nghi và tin theo, từ đó hình thành dư luận xã hội tiêu cực một cách sâu rộng. Thủ đoạn tinh vi, phức tạp này còn được kết hợp với thủ đoạn dựng lên và tung ra những tin đồn thất thiệt, những thông tin sai sự thật hoàn toàn hoặc một phần để xuyên tạc và chia rẽ nội bộ ta.   

Có thể khẳng định, các thế lực phản động, thù địch, cơ hội đang ráo riết tìm mọi cách để người dân giảm sút, tiến đến không còn tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ, từ đó tin vào những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch của chúng. Khi đã thuyết phục được một bộ phận người dân, họ tiến hành tập hợp lực lượng, liên kết các bộ phận này để tiến hành các hoạt động biểu tình, chống phá.

Chính vì vậy có thể khẳng định trong bối cảnh hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, mạng xã hội, việc lợi dụng công nghệ thông tin, mạng xã hội để chống phá cách mạng Việt Nam càng trở nên tinh vi, phức tạp với mức độ nguy hiểm khó lường. Vì vậy, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội là nhiệm vụ vô cùng cấp bách hiện nay.

 

DÂN CHỦ KHÔNG ĐỒNG NGHĨA VỚI ĐA NGUYÊN, ĐA ĐẢNG

 

Khi ai đó vào các trang mạng xã hội như Việt Tân, RFA… thì có thể rất dễ gặp các bài viết của các phần tử cơ hội chính trị, chống đối cho rằng, Việt Nam không có dân chủ vì thực hiện chế độ nhất nguyên, nhất đảng nên “vừa đá bóng, vừa thổi còi” và vì thế dẫn đến dân chủ hình thức hoặc mất dân chủ. Trong khi đó, các tổ chức nhân danh dân chủ phương Tây đã và đang tìm cách cổ suý “tiêu chuẩn nhân quyền” kiểu phương Tây vào Việt Nam, đồng thời tung tin bịa đặt với các luận điệu cho rằng: “Việt Nam thiếu văn hóa dân chủ, không có dân chủ, hạn chế quyền riêng tư của công dân”, “Việt Nam vi phạm nghiêm trọng quyền con người”, “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội tức là theo chế độ đảng trị, bằng “đảng chủ”; “một đảng cầm quyền thì không thể có dân chủ, chỉ dẫn đến độc tài, độc trị”; “chế độ một đảng lãnh đạo, độc quyền là trái với nguyên tắc nhà nước pháp quyền”; “chế độ nhất nguyên chính trị, một đảng cầm quyền ở Việt Nam là “vừa đá bóng, vừa thổi còi” dẫn đến ở Việt Nam không có dân chủ hoặc dân chủ hình thức”. Đây là những luận điệu phản khoa học, hết sức nguy hiểm bởi nó cố tình đánh đồng giữa vấn đề đa nguyên, đa đảng với dân chủ, phát triển của đất nước, dân tộc. Thực chất luận điệu trên là muốn phủ nhận vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội, tiến tới thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập để đi đến xóa bỏ định hướng XHCN ở nước ta. Vấn đề mấu chốt trong học thuyết “dân chủ, nhân quyền kiểu phương Tây cần áp dụng đối với Việt Nam” là xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với cách mạng Việt Nam. Như vậy, chiêu bài dân chủ thực chất là các thế lực thù địch nhằm phá hoại Đảng, Nhà nước và định hướng XHCN ở nước ta. Vấn đề một đảng hay nhiều đảng lãnh đạo, cầm quyền không phải là vấn đề mới và vấn đề này phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Về khách quan, vấn đề này phụ thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước, mỗi đảng khi lên lãnh đạo, cầm quyền. Về chủ quan, nó phụ thuộc tương quan so sánh lực lượng giữa các giai cấp, các bộ phận trong một xã hội, mà mỗi nước có thể có một đảng hoặc nhiều đảng. Quan điểm một đảng thì mất dân chủ, cản trợ sự phát triển, còn đa đảng đồng nghĩa với dân chủ, phát triển là luận điệu sai trái. Cho đến nay chưa có cơ sở khoa học nào chứng minh điều này. Bởi đất nước có dân chủ hay phát triển không phụ thuộc vào chế độ một đảng hay đa đảng mà phụ thuộc vào đảng cầm quyền đó có mang bản chất cách mạng, tiên phong hay không, có bảo vệ quyền và lợi ích cho đa số nhân dân lao động hay chỉ cho một bộ phận thiểu số người trong xã hội đó mà thôi.

 

 

KHẮC GHI LỜI BÁC: LÀM VIỆC GÌ CŨNG PHẢI HỌC 

 

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo đến thế hệ học sinh, sinh viên (HS, SV). Người thường xuyên thăm hỏi, động viên, khuyến khích HS, SV miệt mài học tập và không ngừng tu dưỡng đạo đức cách mạng để trở thành những người có đức, có tài, đóng góp sức mình vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bác coi HS, SV là nhân tố hàng đầu, quyết định vận mệnh của đất nước sau này.

Việc chăm lo đào tạo, giáo dục và bồi dưỡng thanh niên, trong đó có lớp thanh niên trí thức-những sinh viên đang được đào tạo từ các trường đại học, cao đẳng, được Bác quan tâm đặc biệt. Theo Người, ở lứa tuổi thanh niên, sinh viên, việc giáo dục-đào tạo không phải là “cầm tay chỉ việc”, uốn nắn từng chút một, mà quan trọng là phải truyền được cho các em tinh thần tự học, tự khám phá, chủ động, sáng tạo, giúp các em định hướng được mục đích của việc tự học tập, tự xác định con đường phấn đấu cho tương lai. Chỉ như vậy, các em mới có thể kiên trì trên con đường học tập theo phương châm “Học, học nữa, học mãi”.

Tại Đại hội Sinh viên Việt Nam lần thứ hai, năm 1958, Bác nhấn mạnh: “Đối với thanh niên trí thức như các cháu ở đây thì cần đặt lại câu hỏi: Học để làm gì? Học để phục vụ ai?". Ngày 19-1-1959, tại Hội nghị cán bộ Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, Bác chỉ rõ: "Nói chung thanh niên phải chuẩn bị làm người chủ nước nhà. Muốn thế phải ra sức học tập chính trị, kỹ thuật, văn hóa..." và học "để phục vụ nhân dân, xây dựng Tổ quốc”. Bác nhắc nhở HS, SV Việt Nam rằng: “Làm nghề gì cũng phải học” và mục đích của việc học là để “nâng cao năng lực làm cho kinh tế phát triển, chiến đấu thắng lợi, đời sống nhân dân càng no ấm, vui tươi”. Điều đó có nghĩa rằng, ngay cả đối với một bộ phận thanh niên không theo học đại học, cao đẳng, thì việc học cũng luôn là việc hết sức quan trọng. Học từ các lớp dạy nghề, học từ kinh nghiệm cuộc sống, từ người đi trước, tự học… để nâng cao lối sống tích cực, trau dồi kỹ năng nghề nghiệp, ứng dụng được kiến thức vào lao động sản xuất và làm ăn kinh tế, làm giàu cho bản thân và xã hội. Bác cũng lưu ý HS, SV rằng, để việc học tập thành công và trở nên hữu ích thì học phải đi đôi với hành, lý thuyết phải đi cùng thực tiễn. Theo Người, “chỉ biết lý thuyết mà không biết thực hành thì cũng là trí thức có một nửa", "học lý luận cũng phải kết hợp với thực hành”...

Vâng lời Bác dạy, thế hệ HS, SV Việt Nam ngày nay nhận thức sâu sắc rằng, nhiệm vụ của thanh niên trí thức thời đại mới không chỉ là ra sức học tập để làm chủ tri thức, công nghệ mới, mà còn phải xác lập được cho mình lý tưởng đúng đắn. Những di huấn của Bác mãi là tình cảm, là tư tưởng, là định hướng và là kim chỉ nam cho các thế hệ sinh viên Việt Nam luôn cố gắng phấn đấu học tập, rèn luyện theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

 

Nguồn: Báo QĐND

 

NHỮNG TỔNG THỐNG MỸ THẤT BẠI Ở CHIẾN TRANH VIỆT NAM 

-----

1. David D. Eisenhower (1890-1969) được coi là Tổng thống Mỹ đã khơi mào cuộc chiến tranh Việt Nam. Với chiến lược “Chiến tranh đơn phương”, ông ta đã dựng lên chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm và biến miền Nam Việt Nam thành “thuộc địa kiểu mới” ở Đông Nam Á. Dưới sự bảo trợ của Tổng thống Eisenhower, chính quyền Diệm – Nhu đã mở hàng loạt chiến dịch “tố Cộng”, “diệt Cộng”, lê máy chém đi khắp miền Nam Việt Nam để tàn sát những người kháng chiến và yêu nước.

 

2. Người kế nhiệm Eisenhower là Tổng thống Mỹ John F. Kennedy (1917-1963). Với chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Kennedy đã thúc đẩy việc xây dựng quân đội Sài Gòn mạnh với vũ khí, trang bị và cố vấn Mỹ. Thời Kennnedy, chính quyền Diệm ra sức tiến hành “bình định”, lập “ấp chiến lược” nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng miền Nam. Sự nghiệp của Tổng thống Kenny kết thúc khi ông ta bị ám sát ngày 22/11/1963, ít ngày sau khi anh em Diệm – Nhu bị sát hại trong cuộc đảo chính do Mỹ giật dây.

 

3. Tổng thống Lyndon B. Johnson (1908-1973) với chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Với chiến lược này, Mỹ trực tiếp đưa quân sang Việt Nam, thực hiện “tìm và diệt” ở miền Nam và đẩy mạnh chiến tranh phá hoại miền Bắc trên quy mô lớn. Chính sách của Tổng thống Johnson không chỉ tàn phá nặng nề hai miền Việt Nam mà còn khiến quân đội Mỹ hứng chịu những tổn thất thảm khốc, khiến phong trào phản chiến ở Mỹ lan rộng với sự tham gia của hàng trăm nghìn người thuộc mọi tầng lớp quần chúng.

 

4. Richard Nixon (1913-1994) là vị Tổng thống Mỹ tai tiếng nhất thời chiến tranh Việt Nam. Dưới thời Nixon, Mỹ thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, có mục tiêu rút quân nhưng để lại cố vấn chỉ huy, viện trợ lớn cho chế độ ngụy Sài Gòn, đồng thời đưa miền Bắc "về thời đồ đá". Theo mệnh lệnh của Nixon, máy bay chiến lược B-52 của Mỹ đã thực hiện hàng nghìn lượt ném bom rải thảm mang tính hủy diệt vào Hà Nội, Hải Phòng và các đô thị miền Bắc, bị truyền thông quốc tế lên án như tội ác chiến tranh không thể dung thứ.

 

5. Gerald Ford (1913-2006) là Tổng thống Mỹ cuối cùng dính líu đến cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông ta tiếp tục theo đuổi chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, hậu thuẫn cho ngụy Sài Gòn chống phá Hiệp định Paris và dùng lực lượng tấn công lớn trên chiến trường miền Nam. Dù vậy chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” từng bước bị phá sản, buộc Mỹ phải bỏ rơi đồng minh chế độ của Nguyễn Văn Thiệu. Ngày 30/4/1975, Gerald Ford và giới chức Mỹ cay đắng nhìn cuộc chiến mà đất nước mình tiêu tốn hàng vạn nhân mạng kết thúc với thất bại toàn cục...

 

Nguồn: Sưu tầm

 

 

KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC CỦA DÂN TỘC TA!

--------------

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta dù đã trải qua rất nhiều khó khăn, gian khổ, hy sinh nhiều của nhiều người nhưng thắng lợi rất vẻ vang. Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, Bác Hồ muôn vàn kính yêu đã viết nên khúc khải hoàn ca vĩ đại nhất, hào hùng nhất của thế kỷ XX. Đó là chiến công chung của cả dân tộc trước giặc Mỹ xâm lược, quân đội chư hầu và tay sai, bán nước ngụy Sài gòn, sự thật lịch sử đã quá rõ ràng, ánh sáng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng còn che mờ cả nhật nguyệt.

Ấy thế mà những năm gần đây, người ta xuyên tạc về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thần thánh của dân tộc Việt Nam. Tháng Tư về thì những tiếng vọng từ phía bên kia Đại Tây Dương và cả những kẻ bất mãn trở cờ trong nước, trong đó có cả một số nhà sử học, những người có chức sắc vẫn cứ tiếp tục ca bài ca muôn thủa, xuyên tạc bản chất của cuộc kháng chiến với luận điệu: "Cuộc chiến Việt Nam đã đi qua 47 năm nhưng Việt Nam vẫn ăn mừng chiến thắng 30/4. Đây là cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn thì có gì phải vui mừng. Người Cộng sản đã đối xử tàn bạo với những người thua cuộc sau năm 1975”... Xin luận giải vấn đề như sau:

BẢN CHẤT CỦA CUỘC CHIẾN:

Trước hết cần khẳng định rõ, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta (1954-1975) là cuộc chiến giữa một bên là nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và một bên là đế quốc Mỹ, quân đội chư hầu như Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, Úc…và tay sai bán nước ngụy Sài Gòn. Đây không phải là một cuộc nội chiến vì  kẻ nắm thực quyền và quyết định mọi việc của phe địch là đế quốc Mỹ, ngụy Sài Gòn chỉ do Mỹ dựng lên, làm tay sai để hợp thức hóa mưu đồ biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới. 

Mỹ mang quân đội trực tiếp xâm lược, từ vũ khí cho đến mọi thứ đều do một tay Mỹ chu cấp, nuôi dưỡng bọn Việt gian, phản quốc để chống lại đất nước. Trong giai đoạn đỉnh quân số của Quân đội Mỹ triển khai ở chiến trường miền Nam Việt Nam lên đến 541.933 quân, nhằm phục vụ cho chiến lược Chiến tranh Cục bộ mà Lầu Năm Góc kỳ vọng sẽ giúp họ chiến thắng. Người Mỹ mang quân đi giết người Việt Nam và bị người giết, mất hơn 58.000 nhân mạng, hơn 303.000 người thành tàn tật, phế nhân và 1000 tỷ USD (thời giá 2010)…Vậy đây nhất quyết không phải là cuộc nội chiến! Nội chiến chỉ là câu chuyện nội bộ giữa các phe phái trong cùng một nước, không có quân đội nước ngoài tham gia, chi phối, làm chủ. Cuộc nội chiến ở Hoa Kỳ thế kỷ 19 là ví dụ điển hình. Phe miền Bắc với tư tưởng "tự do" đã đánh thắng phe miền Nam với tư tưởng không giải phóng nô lệ. 

THỜI HẬU CHIẾN: CHÚNG TA ĐÃ RẤT NHÂN ĐẠO!

Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khi trả lời chất vấn trước Nghị viện Pháp vào cuối thập niên 1980 đã tuyên bố: “học tập cải tạo là một chính sách nhân đạo, bởi nếu ở những nước khác, bao gồm cả Pháp, những tù nhân này lẽ ra đã bị xử tử hàng loạt vì tội phản quốc, cộng tác với quân xâm lược nước ngoài. Những người đã phạm phải những tội ác tày trời chống lại đất nước, những người mà nếu ở những nước khác, mà chính quý vị ở đây (các nghị sỹ, nhà báo Pháp) ngay sau khi được giải phóng khỏi Đức Quốc xã, biết chuyện gì đã xảy ra (nước Pháp đã xử tử hơn 10.000 người cộng tác với Đức Quốc xã sau khi được quân Đồng Minh giải phóng năm 1945, xem Épuration légale)... Những người này được cho cơ hội trở lại làm một công dân bình thường, tham gia vào cộng đồng cả nước như bao người. Các vị còn đòi hỏi gì nữa?”. 

Người Pháp từng sát hại dã man cả gái điếm chỉ vì họ bán thân cho quân Đức Quốc xã trong thế chiến thứ Hai để trả thù, còn chúng ta dù trải qua nhiều năm chiến tranh, đất nước tổn thất nặng nề nhưng vẫn tạo điều kiện, nhường cơm, xẻ áo cho hơn 200.000 người, những người mang nợ máu với non sông trong số 1.000.000 người ra trình diện, cho họ học tập, cải tạo và đa số họ trở thành người có ích cho xã hội, cùng nhau xây dựng đất nước sau này. Vậy Mỹ, Pháp sao có thể nói là nhân văn hơn chúng ta, sao có thể nói là hòa giải, hòa hợp dân tộc theo cách khoan hồng, độ lượng như chúng ta?

HOÀ HỢP DÂN TỘC KHÔNG CÓ NGHĨA LÀ QUÊN ĐI QUÁ KHỨ!

 

Hòa hợp dân tộc là việc làm thường xuyên, liên tục, bắt đầu từ sau khi Việt Nam thống nhất chứ không phải bây giờ. Tuy nhiên lịch sử phải được nhắc lại cho con cháu hiểu để thêm yêu tổ quốc, căm ghét bọn bán nước cầu vinh, giáo dục công dân Việt Nam về lòng yêu nước, trân quý giá trị hòa bình và phẩm giá của người Việt Nam; tri ân các anh hùng liệt sỹ đã ngã xuống vì độc lập, tự do của tổ quốc. Ngày 30/4 hàng năm, người Việt Nam mãi mãi tôn vinh, mãi mãi tự hào, mãi mãi nhắc tới, mãi mãi ăn mừng. 

Hòa hợp dân tộc không đồng nghĩa với xuyên tạc lịch sử, cào bằng giữa ta và giặc. Đám tàn dư đừng hòng trâng tráo, đánh bùn sang ao hòng rửa tội bán nước. Một số cán bộ, đảng viên trước đây trót ăn theo, nói leo đám ba que xỏ lá thì nên suy nghĩ lại, đừng có nói với nhân dân Việt Nam về cái gọi là “30/4 không nên ăn mừng, không nên kỷ niệm”. Đó là giọng điệu của giống vô loài, phản chủ./.

 

Nguồn:TUYENGIAOBINHPHUOC.ORG.VN.

 

 

 

TÌNH CẢM BÁC HỒ VỚI MIỀN NAM

💖💖💖💖💖💖💗💗

Năm 1911, từ Bến cảng Nhà Rồng, Bác đã ra đi tìm đường cứu nước nhưng chưa về lại được Sài Gòn, Bác nói: “Bác đi đến nơi nhưng chưa về đến chốn”. Thương đồng bào và chiến sĩ miền Nam “đi trước về sau”, “cố gắng giải phóng nhanh để Bác được vào thăm đồng bào miền Nam”, đó là niềm mong ước, nỗi khát khao và cũng là điều trăn trở cho tới lúc Người đi xa. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, tháng 9/1954, trong thư gửi bộ đội, cán bộ và gia đình cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đến ngày hòa bình đã được củng cố, thống nhất được thực hiện, độc lập, dân chủ đã hoàn thành, đồng bào sẽ vui vẻ trở về quê cũ. Lúc đó, rất có thể tôi sẽ cùng đồng bào vào thăm miền Nam yêu quý của chúng ta”.

BÁC NHỚ MIỀN NAM NỖI NHỚ NHÀ

MIỀN NAM MONG BÁC NỖI MONG CHA

Hôm nay trên bến nhà rồng đã khắc sâu hình bóng Bác. Cả thành phố này mang tên Hồ Chí Minh. Sao trong tim mỗi chúng ta vẫn lâng lâng niềm thương nhớ, mong chờ Bác hiện hữu quanh chúng ta. Ngày thống nhất đã cận kề xin hãy thắp nén nhang thành kính tri ân công đức của Bác và các anh hùng Liệt sỹ đã hy sinh cả cuộc đời mình cho độc lập, tự do và hạnh phúc của toàn dân tộc và hứa với Bác rằng: Chúng con mãi mãi ghi ơn người, luôn nguyện phấn đấu xây dựng và bảo vệ thành phố Hồ Chí Minh ngày càng phồn vinh, hiện đại, xứng đáng với tình yêu thương của Bác.

MC. BCHT

Có thể là hình ảnh về 1 người, cây và ngoài trời

Bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh là bảo vệ chân lý và đạo lý

Thế giới hiểu Việt Nam, ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam, yêu mến, tin cậy và tự hào về Việt Nam là nhờ có Hồ Chí Minh-vĩ nhân và danh nhân ở tầm vóc tư tưởng và văn hóa, sứ giả của hòa bình và hữu nghị, một biểu tượng kiệt xuất của văn hóa hòa bình, văn hóa khoan dung.

Hồ Chí Minh đi vào lịch sử với dấu ấn không thể phai mờ, là một trong những lãnh tụ hiếm hoi đã trở thành huyền thoại ngay từ khi còn sống như đánh giá của bạn bè quốc tế.

Khi Người qua đời, 53 năm về trước (ngày 2-9-1969), hàng nghìn bức điện và thư chia buồn từ khắp nơi trên thế giới gửi tới Đảng và nhân dân ta, trong đó có Cuba anh em với đánh giá sâu sắc, thấm thía của đồng chí Fidel Castro Ruz: Đồng chí Hồ Chí Minh thuộc lớp những người đặc biệt mà cái chết lại gieo mầm cho sự sống và là nguồn cổ vũ đời đời bất diệt...

“Người sống mãi trong lòng dân và trong trái tim nhân loại”, đó không chỉ là lời ngợi ca thành kính và thiêng liêng dành cho Người mà còn là chứng thực của lịch sử, vượt thời gian và không gian, từ dân tộc tới nhân loại. Đó cũng là sự khẳng định chân giá trị Hồ Chí Minh.

Kiên quyết bảo vệ tính khoa học, tính cách mạng, tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là thái độ tôn trọng sự thật lịch sử, bảo vệ chân lý và đạo lý, giữ vững niềm tin khoa học, ra sức trau dồi đạo đức cách mạng trong sáng và rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng mà Người là một tấm gương cao cả để muôn đời noi theo mà còn là mệnh lệnh của cuộc sống, thôi thúc và giục giã tự trái tim của mỗi người chúng ta.

Cuộc sống mách bảo chúng ta, đó là điều cần thiết để phê phán và bác bỏ mọi sự xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, thậm chí xúc phạm cả đời tư và phẩm hạnh của Người từ những kẻ chống đối, những thế lực phản động với dã tâm thâm độc, bất minh, bất chính.

Mọi sự xúc phạm Hồ Chí Minh là xúc phạm tới dân tộc, nhân dân và Đảng ta, tới lương tâm, lương tri của cả loài người tiến bộ đã từng tôn vinh những cống hiến vô giá của Người đối với lịch sử. Thực tiễn là tiêu chuẩn cao nhất, thước đo khách quan nhất của chân lý.

Thời gian là sự kiểm nghiệm, sự sàng lọc khách quan nhất, chân thực nhất giúp cho sự phân biệt tốt xấu, đúng sai, thật giả. Sự xuyên tạc thâm độc, thậm chí bỉ ổi của các thế lực thù địch, phản động, kể cả những kẻ phản bội, tự bán rẻ nhân cách của mình, tự tách mình ra khỏi cộng đồng nhân dân và dân tộc nhằm vào Hồ Chí Minh và tư tưởng của Người không thể che lấp sự thật, không thể lung lạc được niềm tin và tình cảm của chúng ta đối với Hồ Chí Minh.

Đó là niềm tin khoa học bắt nguồn từ giác ngộ chân lý, là tình cảm bền chặt đã trở thành máu thịt làm nên sự sống, trong từng nhịp đập của trái tim, của tâm hồn mỗi người chúng ta.

Sinh thời, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Đời Hồ Chủ tịch trong như ánh sáng. Nó phản ánh lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Nó phản ánh cả một thời đại lịch sử đấu tranh cách mạng của nước ta và của thế giới”(3)...

Người học trò xuất sắc của Hồ Chí Minh, người đã sống, làm việc, chiến đấu bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh trong nhiều chục năm, người thấu hiểu và thấu cảm Hồ Chí Minh đã nói hộ lòng ta về niềm tin và tình cảm đối với Người...

Khoa học, cách mạng, nhân văn là bản chất của tư tưởng Hồ Chí Minh

 Từ Đại hội VII (năm 1991) của Đảng, cùng với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chính thức được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng. Nhận thức mới của Đảng về tư tưởng Hồ Chí Minh đã được khẳng định trong Văn kiện Đại hội XI (năm 2011), đã được ghi vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân trang trọng kỷ niệm Đại lễ nghìn năm Thăng Long.

“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”(1).

Dưới sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam-Đảng cách mạng chân chính do Người sáng lập và rèn luyện, dạn dày kinh nghiệm và bản lĩnh trong đấu tranh cách mạng trước đây, trong đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, chúng ta kiên định lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thấm nhuần và thực hành lời dạy của Người “dĩ bất biến ứng vạn biến”, nêu cao quyết tâm, tín tâm và đồng tâm (chữ dùng của Hồ Chí Minh), cố kết sức mạnh “ý Đảng-lòng dân-phép nước” để thực hiện thắng lợi mục tiêu đổi mới và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội nước ta: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Đó cũng là tâm nguyện, hoài bão và khát vọng phát triển của Người, được Người nêu rõ trong Di chúc thiêng liêng để lại cho toàn Đảng, toàn dân trước khi trở về với tổ tiên, với Mác-Lênin ở cõi vĩnh hằng: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”

Tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền với đạo đức và phong cách của Người trong một hệ thống chỉnh thể, hữu cơ không thể tách rời. Tính khoa học, tính cách mạng, tính nhân văn thấm nhuần trong toàn bộ hệ thống chỉnh thể ấy, thể hiện nhất quán trong cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh, nhất quán giữa tư tưởng và hành động, lời nói đi đôi với việc làm, suốt đời tranh đấu, hy sinh vì độc lập của Tổ quốc, tự do cho dân tộc và hạnh phúc của nhân dân.

Khoa học, cách mạng, nhân văn là bản chất và đặc điểm nổi bật của tư tưởng Hồ Chí Minh, thể hiện cả trong lý luận và hoạt động thực tiễn của Người trên tư cách nhà tư tưởng mác xít sáng tạo, nhà tổ chức thiên tài của cách mạng Việt Nam.

Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh qua thử thách của thời gian trở thành những giá trị bền vững, được chứng nghiệm qua lịch sử đấu tranh cách mạng vẻ vang của Đảng và của dân tộc ta trong thế kỷ 20 đã qua cũng như hiện nay và mai sau, là kim chỉ nam hành động cho toàn Đảng, toàn dân trong đổi mới, hội nhập và phát triển.

Giá trị, sức sống và ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ được khẳng định ở trong nước mà còn có sức lan tỏa rộng lớn trong đời sống chính trị quốc tế, trong văn hóa của thế giới nhân loại. Việt Nam đến với thế giới và có mặt xứng đáng trong hàng ngũ các dân tộc tiên phong trên thế giới chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân là nhờ có Hồ Chí Minh-biểu tượng kiệt xuất cho cuộc đấu tranh không mệt mỏi vì Độc lập-Tự do-Hạnh phúc của dân tộc và nhân loại.

Tiếp tục bổ sung, phát triển học thuyết Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội khoa học

 Có thể khẳng định, thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH. Trong đó, đấu tranh giai cấp vẫn còn tồn tại, thậm chí ở nhiều khía cạnh còn gay gắt và phức tạp hơn. Hiện nay, “trật tự thế giới mới” hình thành ngày càng bộc lộ bản chất giai cấp của chủ nghĩa tư bản. Đó là trật tự bao hàm bạo lực, chiến tranh, áp bức, cường quyền, can thiệp, khủng bố. Cho dù chủ nghĩa tư bản làm dịu đi những mâu thuẫn trong lòng nó và chưa cạn kiệt khả năng phát triển, nhưng có thể khẳng định rằng tự bản thân nó đang tạo ra những điều kiện để phủ định chính nó. Điều đó vẫn làm cho cuộc đấu tranh vì mục tiêu hòa bình và tiến bộ xã hội càng trở nên khó khăn, phức tạp hơn, nhất là đối với những nước đang đi theo con đường xây dựng CNXH.

Đối với vấn đề nhà nước, các nhà tư tưởng tư sản xuyên tạc một cách tinh vi hơn, che đậy bản chất nhà nước một cách kín đáo hơn. Họ khẳng định nhà nước tư sản hiện đại là nhà nước dân chủ nhất, ưu việt nhất, là “nhà nước phúc lợi chung”, bảo đảm phúc lợi cho tất cả mọi người dân... Đi đôi với việc đề cao nhà nước tư sản, họ không ngừng phủ nhận nhà nước xã hội chủ nghĩa và phủ nhận, xuyên tạc bản chất dân chủ và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhưng đó chỉ là sự ngụy biện.

Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”(3), Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, GS, TS Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là “tự do”, “dân chủ” dù có thể thay đổi chính phủ nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản”.

“Các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do” mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân-yếu tố bản chất nhất của dân chủ”.

Sự chênh lệch giàu nghèo, phân cực xã hội, chiến tranh, bạo lực, chủ nghĩa cường quyền vẫn tồn tại và ngày càng phức tạp. Vai trò thao túng ngày càng tăng lên của tư bản tài chính khiến kinh tế thế giới ngày càng khó quản lý và kiểm soát, dẫn đến những nguy cơ nổ tung và các phản ứng dây chuyền tác động tổng thể đến nhiều nền kinh tế và các quốc gia trên thế giới. Các cuộc khủng hoảng theo chu kỳ vẫn đang diễn ra như dự liệu, tiên đoán của C.Mác và Ph.Ăng-ghen.

Thực tế đến nay, nhiều nước đang xây dựng thành công CNXH trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Những thành tựu to lớn đã đạt được ở các nước xã hội chủ nghĩa như Việt Nam, Trung Quốc, Cuba... chứng minh rằng, học thuyết về CNXH là học thuyết đúng đắn; quan niệm duy vật về lịch sử là quan điểm khoa học và cách mạng.

Mặc dù vậy, như V.I.Lênin đã nhắc nhở những người cộng sản rằng: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”(4). Lời căn dặn của V.I.Lênin đến nay vẫn giữ nguyên ý nghĩa thời sự.

Ngày nay, trước những thắng lợi to lớn của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, “những kẻ “đói kém” về mặt lý luận, nhưng lại “giàu có” về các thủ đoạn” vẫn tiếp tục chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, hòng mưu toan làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa, phá hoại thành quả cách mạng. Do vậy, để củng cố nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng thì điều có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là những người mácxít phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, lập trường kiên định, kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù; không được dao động, mất lập trường.

Mặt khác, phải có khả năng nhận thức đúng những thay đổi của thời đại để nhận diện được các quan điểm sai trái, thù địch và có những thay đổi trong sách lược phù hợp với thực tiễn. Cùng với đó, cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, phát triển lý luận Mác-Lênin về CNXH khoa học, vì đây là một trong những cách bảo vệ tốt nhất học thuyết khoa học, cách mạng của giai cấp công nhân và phong trào cộng sản trên toàn thế giới.