Thứ Năm, 11 tháng 8, 2022

Cá nhân nghiêm túc, quyết tâm - tổ chức nghiêm khắc, quyết liệt

 

Để góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng lười học tập nghị quyết và LLCT của Đảng trong cán bộ, đảng viên hiện nay, cần phải tiến hành đồng thời mọi công việc liên quan tới nhận thức và trách nhiệm của nhiều tổ chức, nhiều lực lượng. Trước hết các cấp ủy, tổ chức đảng cần đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục chính trị trong nội bộ. Đội ngũ lãnh đạo, quản lý các cấp, cần tuyên truyền sâu rộng trong cán bộ, đảng viên về tầm quan trọng của việc học tập, nghiên cứu LLCT theo đúng quan điểm chủ trương của Đảng, là: Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao nhận thức trong toàn Đảng về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của việc học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; có kế hoạch học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận bắt buộc hằng năm đối với cán bộ, đảng viên gắn với việc cung cấp thông tin, cập nhật kiến thức mới phù hợp cho từng đối tượng, từng cấp, từng ngành và từng địa phương. Bên cạnh đó, việc tổ chức học tập và bồi dưỡng cần chú trọng cử đối tượng đi học LLCT công khai, minh bạch, đúng tiêu chuẩn để kịp thời động viên, khích lệ tinh thần phấn đấu của tập thể; tuyệt đối tránh sự cả nể, cử không đúng người, gây lãng phí thời gian, nhân lực, tạo bất bình trong cơ quan, đơn vị.

Quá trình giảng dạy, bồi dưỡng LLCT phải lựa chọn nội dung cốt lõi nhất để giảng dạy, truyền thụ. Bài giảng của đội ngũ báo cáo viên phải ngắn gọn, súc tích, cô đọng, dễ nhớ, dễ hiểu và dễ tổ chức thực hiện. Nội dung bài giảng chính trị bám sát nghị quyết các cấp, xác định thật cụ thể, rõ ràng khâu đột phá để giải quyết nhiệm vụ then chốt, khâu yếu, mặt yếu, tạo bước phát triển. Kế hoạch triển khai thực hiện phải cụ thể, xác định rõ lực lượng chịu trách nhiệm thực hiện chính; nguồn lực, kinh phí bảo đảm; thời gian hoàn thành. Kiên quyết khắc phục tình trạng giảng dạy nghị quyết chung chung, dàn trải, kinh viện, xa rời thực tiễn. Trong quá trình giáo dục LLCT và nghị quyết cần coi trọng đổi mới, đa dạng hóa hình thức, phương pháp truyền đạt, quán triệt nghị quyết vừa bảo đảm tính hấp dẫn, tính khoa học, vừa bảo đảm tính thực tiễn; kết hợp tuyên truyền miệng với sử dụng hiệu quả các phương tiện thông tin đại chúng; đội ngũ báo cáo viên phải được lựa chọn kỹ, thực sự là những người có phẩm chất tốt, có kỹ năng và năng lực truyền đạt nghị quyết.

Sau mỗi đợt học tập nghị quyết, cần tiến hành chặt chẽ, nghiêm túc việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, gắn với nhận xét, đánh giá cán bộ, đảng viên; đề cao trách nhiệm chính trị và tính tự giác, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong học tập và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng. Cán bộ, đảng viên giữ cương vị càng cao, càng phải gương mẫu học tập, nói và làm theo đúng nghị quyết của Đảng. Liên quan đến vấn đề này, cần nghiêm túc làm tốt công tác đánh giá theo hướng thực chất. Hiện nay, phần việc này còn nặng hình thức, chỉ coi trọng số lượng. Bài kiểm tra, thu hoạch bắt buộc không thể rập khuôn, sao chép và cần công khai kết quả thu hoạch, kiểm tra nhận thức chính trị phải trở thành một trong những tiêu chí quan trọng, làm căn cứ đánh giá chất lượng, phân loại cán bộ, đảng viên.

Đối với đội ngũ giảng viên, báo cáo viên cần không ngừng đổi mới tư duy, phương pháp giảng dạy sao cho giờ học nghị quyết trở nên sinh động, hấp dẫn. "Người huấn luyện của đoàn thể" phải làm kiểu mẫu về mọi mặt: Tư tưởng, đạo đức, lối làm việc… Không chỉ truyền dạy nghị quyết một chiều mà cần phải biết vận dụng tri thức lý luận vào thực tiễn; biết khai thác những tư liệu từ kinh nghiệm thực tiễn của cả người dạy lẫn người học để làm giàu tri thức.

Với mỗi cán bộ, đảng viên cần thấm nhuần sâu sắc lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mục đích của việc học: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”. Phải thường xuyên học tập, trau dồi phẩm chất chính trị, gắn việc học lý luận với thực tiễn công việc hằng ngày: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”.

Để việc học tập LLCT nói chung, học tập, nghiên cứu nghị quyết của Đảng nói riêng trở thành nhu cầu tự thân, là động lực quan trọng góp phần làm nên thành công của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải ý thức sâu sắc về trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trước những đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống. Học tập, nghiên cứu nghị quyết là cách để người cán bộ tự đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo, điều hành, làm chủ hành động của cá nhân; để thay đổi hình ảnh của bản thân theo hướng tích cực, năng động và tiến bộ.

 

 

Việc không phải của mình

 

Vì không nhận thức rõ nguồn gốc, bản chất, mức độ nguy hại của Chủ nghĩa cá nhân; lại tự cho rằng bản thân mình luôn cố gắng học tập, rèn luyện nên tuyệt nhiên đã trở thành người tốt, có nhân cách hoàn thiện, nhiều cán bộ, đảng viên thường sinh ra tâm lý mặc nhiên, bàng quan, vô cảm trước vấn nạn đang hiện hữu nhãn tiền. Nhiều cán bộ, đảng viên không nhận thấy trách nhiệm bản thân mà phiến diện cho rằng việc chống CNCN là việc của cấp ủy, chính quyền, của cơ quan chức năng và những người có trách nhiệm. Ở nhiều nơi, khi CNCN xuất hiện phổ biến, gây hậu quả nghiêm trọng thì mới “phất cờ” tuyên chiến, đấu tranh theo lối thụ động, vuốt đuôi.

Lại không ít cán bộ cho rằng, CNCN là bệnh của một cá nhân (cá thể) cụ thể nên rất dễ dàng nhận diện, đấu tranh, triệt tiêu được ngay... Thế nhưng, tất cả những nhận thức ấy hoặc là rơi vào sai lầm, hoặc phiến diện một chiều, hoặc mang nặng sự áp đặt chủ quan.

Nên nhớ, CNCN chỉ hình thành, tồn tại và “ký sinh” như ung nhọt trong cơ thể, nhân phẩm mỗi con người cụ thể. Do đó, chống CNCN trước hết thuộc trách nhiệm của mỗi cá nhân, giống như mỗi người phải có trách nhiệm chăm lo sức khỏe bản thân, làm cho đời sống tinh thần trở nên sạch sẽ, lành mạnh.

Để làm được điều đó, đòi hỏi qua từng ngày, từng tuần, từng việc làm, hoạt động cụ thể, mỗi cán bộ, đảng viên phải nhận thức rõ trách nhiệm “tự soi” lại mình để nghiêm khắc, kiên trì “tự sửa” như đánh răng, rửa mặt hằng ngày. Đừng một ai tự cho mình là hoàn hảo; đừng bất chấp thực hành những việc chỉ có lợi cho mình, lại có hại cho người khác hoặc tổ chức. Mỗi cán bộ, đảng viên cần biết cách "định vị lại", "cấu trúc lại" và thường xuyên điều chỉnh cách sống, cách làm theo hệ giá trị chuẩn mực đạo đức cách mạng. Bất cứ khi nào có chuyện khác biệt, rơi vào tình huống có vấn đề, từng người không nên cố gắng tìm những lý do bên ngoài. Thay vào đó, hãy cố gắng tìm trong bản thân xem mình làm điều đó đúng hay sai; có gây tổn hại gì đến người khác không? Có làm điều gì đó trái với luân thường, đạo lý hay không? Có tuân theo các nguyên tắc phổ quát về chân, thiện, mỹ? Một khi, mỗi cán bộ, đảng viên đều nhất quán quyết tâm tự làm mới, tự hoàn thiện bản thân bằng thực tiễn cách mạng thì chắc chắn CNCN sẽ được ngăn chặn, đẩy lùi.

Đối với tổ chức, ở mọi cấp, mọi ngành cần nhất quán quyết tâm chính trị rất cao để nhận diện, đẩy lùi CNCN trong nội bộ. Tất nhiên, nhận diện CNCN không phải chuyện giản đơn, do đó, các cấp cần có chủ trương phát huy tinh thần tự giác, đề cao trách nhiệm của từng thành viên trong tập thể; đồng thời phải có cơ chế để giám sát, có chế tài để xử phạt, xử lý một cách nghiêm khắc, triệt để.

Với tinh thần đó, từng cán bộ, đảng viên phải có thái độ tích cực, quyết liệt, không khoan nhượng trong nhận diện, đấu tranh, ngăn chặn các dấu hiệu, biểu hiện CNCN của đồng chí, đồng nghiệp, nhất là người đứng đầu. Việc nhận diện CNCN cần được vận hành trên cả 5 thành tố: Tư tưởng, chính trị, tổ chức, đạo đức, cán bộ; nhận diện trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, trước hết là các khu vực liên quan đến lợi ích kinh tế, tài chính, cán bộ và chính sách; trên cả phẩm chất, năng lực cán bộ, mà trước hết là khí chất, tính cách, tư cách, lối sống, cách sống của cán bộ, đảng viên.

 

Anh Hùng Lâm Úy



 Anh hùng Lâm Uý sinh năm 1926 trong một gia đình nông dân có 6 người con tại xã Quảng Hoà, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, anh là con thứ năm. Khi hy sinh anh vừa tròn 24 tuổi, là Đảng viên Đảng Cộng sản, Tiểu đội phó thuộc Sư đoàn 325. Trận Xuân Bồ ngày 20/5/1950, đơn vị Lâm Uý vượt sông, chặn đánh 1 tiểu đoàn lính lê dương. Từ 9 giờ đến 14 giờ đơn vị đánh lui 10 đợt phản kích của địch. Hết đạn, Lâm Uý dùng đòn hiểm quật ngã tên giặc. Thấy vậy, những tên giặc khác xả súng vào anh. Tuy bị thương nặng nhưng anh đã cố hết sức kéo kẻ thù cùng lăn xuống sông quần lộn đến tắt thở. Khi đồng đội vớt anh lên, Lâm Uý đã hy sinh trong tư thế hai tay vẫn ghì chặt tên địch. Trước những thành tích đặc biệt xuất sắc của Lâm Uý, anh được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng nhì. Ngày 31/8/1955, Lâm Uý được Nhà nước truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì và tôn vinh danh hiệu Anh hùng lực lượng Vũ trang nhân dân. 

 

 

 

NẮM CƠM CHÁY ĐEN BÊN CẠNH NHỮNG NGƯỜI ANH HÙNG KHÔNG CÒN NGUYÊN VẸN


    Nắm cơm cháy thành than là di vật còn lại của cả kíp xe đã lập công xuất sắc và anh dũng hy sinh trong trận Đắc Tô 2, Mặt trận Tây Nguyên ngày 24 tháng 4 năm 1972. Kíp chiến đấu trên xe hôm đó gồm 4 thành viên: Thiếu úy Nguyễn Nhân Triển - Trung đội trưởng Trung đội tăng 3, Trưởng xe; Đồng chí Cao Trần Vịnh - Lái xe; Đồng chí Nguyễn Đắc Lượng - Pháo thủ số 1; Đồng chí Phạm Văn Ái - Pháo thủ số 2. Đúng 4 giờ 30 phút sáng ngày 24 tháng 4 năm 1972, quân ta bắt đầu nổ súng tiến công căn cứ Tân Cảnh. Từ hướng Đông Bắc và Tây Bắc, xe tăng quân ta nhanh chóng t.iêu d.iệt các lô cốt, hoả điểm sát cửa mở và yểm trợ lẫn nhau vượt qua các lớp hàng rào thép gai, dùng hoả lực chi viện dẫn dắt bộ binh xung phong vào cứ điểm. Ta lần lượt đánh chiếm các vị trí quan trọng như Khu cố vấn Mỹ, Khu binh sỹ Nguỵ, Sở Chỉ huy Trung đoàn 42 Nguỵ. Sự xuất hiện của một lực lượng lớn bộ binh tinh nhuệ và xe tăng của quân ta đã khiến địch thực sự hoảng loạn. Bất chấp lệnh của quan thầy Mỹ, đ.ịch ở căn cứ Tân Cảnh đã vứt bỏ tất cả xe pháo rút chạy. Đến 8 giờ ngày 24 tháng 4 năm 1972, quân địch ở căn cứ Tân Cảnh cơ bản bị tiêu diệt và bị bắt sống. Trong lúc địch đang hoang mang vì mất Tân Cảnh, Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên quyết định điều 1 trung đội xe tăng và 1 xe cao xạ 57 ly tự hành hiệp đồng với Trung đoàn bộ binh 1 đánh thẳng vào căn cứ Đắc Tô 2. Suốt nửa buổi sáng chiến đấu liên tục, không có thời gian chuẩn bị, cơm chưa kịp ăn, Trung đội tăng 3 gồm các xe tăng phiên hiệu 377, 354, 369 vừa củng cố đội hình cơ động, vừa nắm địch, bắt liên lạc hiệp đồng với bộ binh. Xe 377 dẫn đầu đội hình vọt lên với tốc độ cao, khéo léo di chuyển vượt qua các đợt ngăn chặn, đ.ánh phá á.c l.iệt của máy bay địch, tiếp cận mục tiêu sớm nhất. 

    Quân địch trong căn cứ thấy quân ta chỉ có một xe tăng, không có bộ binh đi kèm liền cho 10 xe M41 chia làm 2 mũi bao vây xe 377. Lúc này, xe tăng 377 rơi vào tình thế vô cùng hiểm nghèo, một mình giữa vòng vây xe tăng địch. Cuộc đấu xe tăng một chọi mười đã diễn ra vô cùng quyết liệt. Trung đội trưởng Nguyễn Nhân Triển đã hội ý chớp nhoáng với kíp xe và các anh đã đi đến quyết định đánh cảm tử. Trung đội trưởng Nguyễn Nhân Triển đã mưu trí, dũng cảm chỉ huy xe 377 tả xung hữu đột, lao thẳng vào đội hình xe tăng địch b.ắn cháy liên tiếp 7 xe M41, làm đ.ịch rối loạn đội hình. Phía sau, xe tăng số 354 và 369 mở hết tốc lực xông lên ứng cứu vừa đi vừa đ.ánh đ.ịch mở đường diệt một số xe tăng đ.ịch nấp sau ụ chiến đấu. Một xe tăng M41 của đ.ịch ở phía nam sân bay Đắc Tô 2 đã b.ắn lén trúng xe tăng 377, lửa khói trùm kín trên chiếc chiến xa quả cảm, cả bốn thành viên trên xe 377 hy sinh. Cùng lúc xe tăng và bộ binh Trung đoàn 1 tràn lên tiêu diệt hoàn toàn căn cứ Đắc Tô 2. Cụm căn cứ Đắc Tô - Tân Cảnh là tuyến phòng ngự mạnh nhất của địch ở Bắc Tây Nguyên đã hoàn toàn bị tiêu diệt. Tập thể kíp xe tăng phiên hiệu 377 đã lập một kỷ lục, liên tiếp bắn cháy 07 xe tăng địch trong một trận đánh, phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng của bộ đội Tăng Thiết giáp trong chiến đấu. Trận đánh kết thúc, đồng đội tìm thấy xe 377 đang bốc cháy giữa ngổn ngang xác xe tăng địch, cả kíp xe 4 người đã anh dũng hy sinh, hóa thân vào chiến thắng. Bên cạnh thi thể không còn nguyên vẹn của những người anh hùng, chỉ còn đó những nắm cơm đã cháy thành than mà kíp xe chưa kịp ăn giữa hai trận đánh. Thương tiếc khôn nguôi, đồng đội đã để các anh nằm lại với đất mẹ Tây Nguyên, với Đắc Tô - Tân Cảnh, nơi kíp xe tăng 377 đã chiến đấu và anh dũng hy sinh. Đã 48 năm trôi qua kể từ ngày 24 tháng 4 năm ấy, các đồng chí Triển, Ái, Lượng, Vịnh đã cùng bao đồng đội khác hoá thân vào đất mẹ, mãi mãi thanh xuân cùng điệp trùng hoa lá Tây Nguyên. Với những thành tích đặc biệt xuất sắc ngày 9 tháng 1 năm 2009, kíp xe tăng 377 đã được Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy phong danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. 

BỨC ẢNH ĐÃ KHIẾN NHỮNG KẺ XUYÊN TẠC LỊCH SỬ PHẢI CÂM LẶNG



    Người chiến sĩ Quân Giải Phóng trong ảnh tên là Diễn (Chính trị viên Đại đội 6, Trung đoàn 18, Sư đoàn 325) đã tiếp nước cho một người lính Lữ đoàn 147 Thủy quân lục chiến Việt Nam Cộng hòa bị thương tại cao điểm 550 thuộc mặt trận Đường 9 - Nam Lào, người lính ấy bị đơn vị của mình bỏ lại sau một trận đ.ánh. Hành động của người chiến sĩ Quân Giải Phóng tuy nhỏ nhưng thể hiện tính nhân văn, độ lượng, hơn thế nữa còn là tình người giữa những người cùng mang dòng máu đỏ da vàng. Tháng 11/1992, khi bức ảnh này của phóng viên chiến trường Trọng Thanh được công bố tại nhiều bang của Mỹ đã gây chấn động trong giới cựu binh Mỹ và cộng đồng người Việt tại Mỹ, nhất là những kẻ xuyên tạc. Họ không dám tin đây là sự thật, bởi họ Người chiến sĩ Quân Giải Phóng trong ảnh tên là Diễn (Chính trị viên Đại đội 6, Trung đoàn 18, Sư đoàn 325) đã tiếp nước cho một người lính Lữ đoàn 147 Thủy quân lục chiến Việt Nam Cộng hòa bị thương tại cao điểm 550 thuộc mặt trận Đường 9 - Nam Lào, người lính ấy bị đơn vị của mình bỏ lại sau một trận đ.ánh. Hành động của người chiến sĩ Quân Giải Phóng tuy nhỏ nhưng thể hiện tính nhân văn, độ lượng, hơn thế nữa còn là tình người giữa những người cùng mang dòng máu đỏ da vàng. Tháng 11/1992, khi bức ảnh này của phóng viên chiến trường Trọng Thanh được công bố tại nhiều bang của Mỹ đã gây chấn động trong giới cựu binh Mỹ và cộng đồng người Việt tại Mỹ, nhất là những kẻ xuyên tạc. Họ không dám tin đây là sự thật, bởi họ đã quen với việc xuyên tạc, bóp méo sự thật. 



Thứ Tư, 10 tháng 8, 2022

Thủ đoạn kích động người dân tộc thiểu số đòi ly khai tự trị dân tộc

     Một trong những thủ đoạn được các thế lực thù địch triệt để lợi dụng nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất ổn định an ninh chính trị là chúng kích động người dân tộc thiểu số đòi ly khai tự trị dân tộc

    Thủ đoạn cụ thể của chúng là lợi dụng các vấn đề về nguồn gốc lịch sử tộc người, đất đai, lợi dụng những hạn chế, thiếu sót trong việc thực hiện chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước, việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo phức tạp, giải quyết các “điểm nóng” tại địa phương; những tác động của mặt trái kinh tế thị trường... để tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, tìm cách bôi đen cán bộ lãnh đạo để kích động tư tưởng ly khai, dân tộc hẹp hòi, tâm lý mặc cảm, kỳ thị dân tộc và cho rằng, chỉ có thành lập “nhà nước mới, quốc gia mới riêng thì mới giàu có, văn minh, phát triển” để lôi kéo, vận động đồng bào dân tộc thiểu số chống lại chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước; tham gia biểu tình, bạo loạn, phá hoại an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương.

          Chúng cũng tìm cách đánh tráo và đồng nhất khái niệm “quyền dân tộc tự quyết” là quyền của quốc gia-dân tộc với quyền của các dân tộc thiểu số để tuyên truyền, xuyên tạc nhằm làm cho một số đồng bào các dân tộc ngộ nhận rằng, “quyền dân tộc tự quyết” là quyền của riêng các dân tộc thiểu số, từ đó, chúng tìm cách kích động, lôi kéo đồng bào dân tộc đòi thành lập nhà nước riêng, phá hoại khối đại đoàn kết của dân tộc như: “Nhà nước Tin lành Đề ga” ở Tây Nguyên, “Vương quốc Chăm Pa” ở Tây Nam Bộ, “Vương quốc Mông” ở Tây Bắc... Lợi dụng “quyền dân tộc tự quyết” làm điều kiện trong quan hệ ngoại giao với nước ta; gắn vấn đề viện trợ, hợp tác kinh tế với việc đòi Nhà nước Việt Nam trao “quyền tự quyết, tự quản” cho các dân tộc thiểu số ở trong nước, qua đó hòng tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ nước ta.

          Do vậy, chúng ta cần, tiếp tục tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về âm mưu, thủ đoạn hoạt động ly khai, đòi tự trị dân tộc của các thế lực thù địch để chống phá Đảng, Nhà nước ta; nâng cao ý thức tự giác của nhân dân trong việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân tộc, tôn giáo; tích cực tham gia công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động này. Tiếp tục phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện của Đảng trong công tác đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động lợi dụng vấn đề này để chống phá nước ta. 

 TỰ DO TÔN GIÁO PHẢI TRONG KHUÔN KHỔ PHÁP LUẬT

 

Thời gian qua, một số cá nhân, tổ chức lấy danh nghĩa “bảo vệ dân chủ, nhân quyền”, đặc biệt là quyền về tự do tín ngưỡng, tôn giáo để đưa ra những đánh giá phiến diện, sai lệch, các luận điệu xuyên tạc, vu cáo hòng can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, trong đó có Việt Nam.

Tuy nhiên, cũng như ở các quốc gia trên thế giới vấn đề dân chủ, nhân quyền và quyền tự do tôn giáo đều phải diễn ra trong khuôn khổ pháp luật cũng như phù hợp điều kiện phát triển kinh tế và lịch sử truyền thống văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc.

Lâu nay, một số học giả phương Tây vẫn thường rêu rao chiêu bài “quyền con người cao hơn chủ quyền” nhằm thực hiện, bao biện mục đích cá nhân. Bên cạnh đó các thế lực thù địch cũng ra sức lợi dụng vấn đề tôn giáo và quyền tự do tôn giáo để can thiệp vào công việc nội bộ nước khác, nhất là các quốc gia có thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Ðảng cộng sản.

Trong âm mưu và chiến lược diễn biến hòa bình, vấn đề tôn giáo, dân chủ nhân quyền được sử dụng như một vũ khí lợi hại, lợi dụng lòng yêu nước, sự sùng đạo của người dân để khoét sâu những bất cập, tồn tại trong đời sống xã hội, nhằm lôi kéo, tập hợp những người dân nhẹ dạ cả tin hoặc thiếu thông tin gây rối, gây phức tạp về an ninh, trật tự, gây bất ổn xã hội.

Ðảng, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của công dân, xác định đây là nhu cầu tinh thần chính đáng của người dân. Chính sách đó, luôn được Ðảng, Nhà nước ta khẳng định và thực hiện nhất quán, được bảo đảm trên thực tiễn và cụ thể bằng văn bản pháp luật. Tại Sắc lệnh số 234/SL ngày 14/6/1955 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, xác định: “Việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là một quyền lợi của nhân dân. Chính quyền dân chủ cộng hòa luôn luôn tôn trọng quyền lợi ấy và giúp đỡ nhân dân thực hiện” (Ðiều 15) và “Chính quyền không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo” (Ðiều 13).

Trong mỗi giai đoạn lãnh đạo cách mạng, Ðảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo bảo đảm quyền tự do tôn giáo, tạo hành lang pháp lý để các tôn giáo hoạt động ổn định, tăng cường củng cố mối quan hệ giữa Nhà nước và các giáo hội tôn giáo…

 

Tiêu biểu là Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng (khóa IX) về công tác tôn giáo; Pháp lệnh 21/2004/PL-UBTVQH11 ngày 18/6/2004 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tín ngưỡng, tôn giáo; Nghị định số 22/2005/NÐ-CP ngày 1/3/2005 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Chỉ thị 1940/CT-TTg ngày 31/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về nhà đất liên quan đến tôn giáo... Tại Hiến pháp năm 2013 quy định “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.

Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật” (Khoản 1, Ðiều 24). Ngày  18/ 11/ 2016 Quốc hội đã ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo...

Nhờ có chủ trương, chính sách, pháp luật về tôn giáo, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân được bảo đảm ngày càng tốt hơn, số lượng chức sắc, tín đồ, cơ sở thờ tự ngày càng tăng. Chỉ tính trong vòng 20 năm trở lại đây (2003-2022) việc thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo cho kết quả hết sức ấn tượng: Năm 2003 cả nước có 15 tổ chức, sáu tôn giáo, 17 triệu tín đồ với khoảng 20.000 cơ sở thờ tự; 34.000 chức sắc, 78.000 chức việc. Ðến năm 2021 Việt Nam đã công nhận 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo khác nhau, với hơn 26 triệu tín đồ, 54.000 chức sắc, tăng; 135.000 chức việc; 29.000 cơ sở thờ tự. Ðời sống tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng phong phú, đa dạng, nhiều lễ hội lớn trong các tôn giáo thu hút đông đảo tín đồ, người dân tham dự.

Có thể kể đến: Giáo hội Tin lành đã tổ chức thành công lễ kỷ niệm 500 năm cải chánh đạo Tin lành 2017); giáo hội Công giáo tổ chức Tổng hội Dòng Ða minh thế giới tại Ðồng Nai (7/2019), với đại biểu của nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia; Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức thành công Ðại lễ Phật đản Vesak Liên hợp quốc năm 2019 tại chùa Tam Chúc, tỉnh Hà Nam (5/2019) với hơn 1.650 đại biểu chức sắc và lãnh đạo các giáo hội, nhà nghiên cứu... đến từ hơn 112 quốc gia và vùng lãnh thổ). Với quy mô hoạt động tôn giáo tập trung đông người, chính quyền các cấp đã hỗ trợ các tôn giáo về công tác bảo đảm phân luồng giao thông, an ninh trật tự, phòng chống cháy nổ, an toàn vệ sinh thực phẩm,… giúp người dân được tự do hành lễ, thỏa mãn nhu cầu đời sống tâm linh.

Thực tế cho thấy, ở một số quốc gia như Anh, Mỹ, Ðan Mạch... khi tổ chức tôn giáo tổ chức các hoạt động đông người tại cơ sở thờ tự, thường phải tự thuê bảo vệ làm nhiệm vụ bảo đảm an toàn giao thông, an ninh trật tự, phòng chống cháy nổ, kiểm nghiệm an toàn thực phẩm. Nếu để xảy ra vi phạm, chính quyền sẽ căn cứ vào pháp luật và xử phạt… Nhưng ở Việt Nam các tổ chức tôn giáo khi tiến hành các hoạt động tôn giáo có đông đảo người dân tham gia, chính quyền luôn hỗ trợ với mục tiêu cao nhất bảo đảm an toàn trật tự để nhân dân yên tâm thực hiện nghi lễ tôn giáo.

Bất chấp thực tế đó, các thế lực thù địch, thiếu thiện chí vẫn xuyên tạc trắng trợn chính sách, pháp luật và tình hình tôn giáo tại Việt Nam; móc nối những đối tượng cơ hội bất mãn chế độ và số chức sắc cực đoan để kích động các hoạt động tôn giáo thoát ly khỏi sự quản lý của Nhà nước. Ðặc biệt, mỗi khi Nhà nước ban hành hoặc bổ sung những văn bản pháp luật mới để điều chỉnh các hoạt động tôn giáo cho phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, trình độ văn hóa, xã hội của đất nước, phù hợp với tâm tư, tình cảm, nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân thì các đối tượng trên lại dấy lên chiến dịch phản đối, xuyên tạc.

Mặt khác, các thế lực thù địch và phản động lưu vong ở nước ngoài vẫn tiếp tục cấu kết, móc nối với các đối tượng cực đoan trong tôn giáo và đối tượng cơ hội chính trị lợi dụng các vấn đề nổi cộm như đất đai, môi trường, phòng chống dịch Covid-19... nhằm mưu đồ dụ dỗ, lôi kéo người dân khiếu kiện, kích động gây rối, gắn vào vấn đề tôn giáo để vu cáo Việt Nam; nhằm mưu đồ làm cho chức sắc tôn giáo và đồng bào có đạo hoài nghi về chính sách của nhà nước ta.

Ðáng chú ý, trong những năm qua các đối tượng phản động, chống đối chính trị ở ngoài nước, móc nối với một số phần tử cực đoan trong tôn giáo cấu kết với các tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với Ðảng và Nhà nước Việt Nam, tổ chức các cuộc “hội luận”, “họp báo”, soạn thảo và phát tán các tài liệu có nội dung xuyên tạc, bịa đặt để tuyên truyền chống Ðảng và Nhà nước Việt Nam, nhất là trên các lĩnh vực tôn giáo và nhân quyền.

Chúng đẩy mạnh xuyên tạc Ðảng và Nhà nước Việt Nam “đàn áp tôn giáo”, Việt Nam “không có tự do tôn giáo”… Những thủ đoạn hoạt động của chúng không chỉ âm mưu tác động vào tâm lý, tư tưởng của một bộ phận quần chúng, tín đồ mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống yên bình của nhân dân, tác động xấu đến xã hội, gây chia rẽ nội bộ trong tổ chức tôn giáo, gây mất đoàn kết dân tộc.

Thời gian tới, một số phần tử cực đoan trong nước vẫn sẽ tiếp tục dựa vào các thế lực thù địch bên ngoài đẩy mạnh hoạt động chống đối dưới chiêu bài  “đòi tự do tôn giáo”, “dân chủ, nhân quyền” chống Ðảng, Nhà nước ta, đòi khôi phục lại các tổ chức tôn giáo không còn tồn tại, gia tăng các hoạt động phát triển đạo trái pháp luật, gây rối trật tự an toàn xã hội. Do đó về phía người dân cũng như các chức sắc và tín đồ các tôn giáo cần hết sức tỉnh táo, cảnh giác với âm mưu của các thế lực thù địch. Việc chủ động ngăn chặn các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống Việt Nam là nhiệm vụ trọng tâm, chiến lược lâu dài, là trách nhiệm của các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị, trong đó cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo đóng vai trò nòng cốt.

Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về tôn giáo, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Chính quyền các cấp nắm chắc các hoạt động liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn, kịp thời phát hiện và ngăn chặn các hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các tôn giáo, gây rối loạn xã hội, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống nhân dân, xâm phạm an ninh quốc gia.

Chủ động tuyên truyền công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng để vạch trần “chân tướng” của các đối tượng cơ hội, các việc làm vi phạm pháp luật, giáo luật của số đối tượng cực đoan lợi dụng tôn giáo, phản bác lại các luận điệu vu cáo của các thế lực thù địch. Các biện pháp đấu tranh ngăn chặn các hoạt động lợi dụng tôn giáo chống Việt Nam cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương cũng như sự vào cuộc của toàn xã hội.

Bên cạnh đó, cần thường xuyên sơ kết rút kinh nghiệm về những việc đã làm được, có biện pháp khắc phục những thiếu sót tồn tại để bảo đảm thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Ðảng, Nhà nước. Thường xuyên tuyên truyền đối ngoại để cộng đồng quốc tế có đầy đủ thông tin về kết quả, thành tựu nhân quyền trong lĩnh vực tôn giáo ở Việt Nam, có phương pháp tiếp xúc, vận động chức sắc, tín đồ các tôn giáo, có kinh nghiệm đối thoại tôn giáo, hướng dẫn các chức sắc, tín đồ hoạt động tôn giáo và thực hiện nghĩa vụ công dân.

 

 

 GIỮ NƯỚC TỪ KHI NƯỚC CÒN CHƯA NGUY 

Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, để giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, ông cha ta thực hiện tư tưởng “giữ nước từ khi nước chưa nguy” đã trở thành quan điểm, tư tưởng chỉ đạo chiến lược, kế sách giữ nước trong mọi thời đại, là bài học kinh nghiệm quý báu trong lịch sử đến nay vẫn còn nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn.

Tiếp cận từ góc độ khoa học, an ninh thì “giữ nước từ khi nước chưa nguy” là một tư tưởng phòng thủ, phòng ngừa chiến lược, cơ bản và lâu dài. Theo đó, ngay khi đất nước còn thịnh trị, bình thường, những người nắm quyền lực quốc gia đã phải tính xa hơn, nghĩ xa hơn, phòng khi đất nước lâm nguy. Như cách ví von gần gũi của ông cha ta chính là “lúc no phòng khi đói”. Tư tưởng này gần như là luận thuyết chiến lược phòng ngừa từ xa mà các quốc gia đều phải thực hiện theo. Tuy nhiên, mỗi thời đại một khác. Thời phong kiến thì “giữ nước từ khi nước chưa nguy” chủ yếu là phòng ngừa ngoại xâm. Nhưng trong điều kiện toàn cầu hóa đối với các quốc gia, nguy cơ không chỉ đến từ ngoại xâm, mà đến từ nhiều hướng, nhiều phía khác nhau, kể cả an ninh phi truyền thống, cả bên ngoài lẫn bên trong như một trong các nguy cơ đảng ta chỉ ra “Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta.”. Tư duy chiến lược về bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” của Đảng gồm nhiều nội dung, trong đó tập trung vào một số vấn đề cơ bản: Chủ động nắm, nghiên cứu, phân tích, dự báo chính xác tình hình thế giới, khu vực, trong nước; Xây dựng tiềm lực, lực lượng, thế trận quốc phòng vững mạnh; Phát huy sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”; Phương thức bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” và Đẩy mạnh công tác đối ngoại, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Đó là những vấn đề rất quan trọng mà Đảng xác định tương đối phù hợp trong tình hình hiện nay. Để giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chúng ta phải dựa vào sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại… trong đó xây dựng tiềm lực, lực lượng, thế trận quốc phòng vững mạnh là nội dung quan trọng, mà xây dựng lực lượng vũ trang là nòng cốt, lấy xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ sở.

Đảng ta xác định: “Quán triệt sâu sắc phương châm bảo đảm quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Kết hợp chặt chẽ giữa bảo đảm quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế - xã hội; hoàn thiện lý luận về quốc phòng, an ninh và tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi “nước chưa nguy” trên cơ sở xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc; xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại”. Đây là chủ trương lớn, nhất quán, mang tầm chiến lược, là căn cứ để Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng Quân đội vững mạnh toàn diện, thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, công cụ bạo lực sắc bén để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới./.

 

 KHÔNG THỂ MƯỢN DANH NHÂN QUYỀN ĐỂ DUNG TÚNG, CỔ VŨ ĐỐI TƯỢNG VI PHẠM PHÁP LUẬT

Lâu nay, dân chủ, nhân quyền là vấn đề mà các thế lực thiếu thiện chí thường lợi dụng để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Việc trao cái gọi là Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals cho một đối tượng vi phạm pháp luật là hành động mới nhất.

Mượn cớ bảo vệ nhân quyền

Mới đây, tại Geneva, Thụy Sĩ, Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals đã được trao cho Phạm Đoan Trang, người mà Ban tổ chức giải thưởng tung hô là “nhà báo, nhà hoạt động nhân quyền”. Phạm Đoan Trang là ai và có phải là người “bảo vệ quyền tự do ngôn luận, quyền tiếp cận thông tin của người dân” như mô tả của những người tổ chức giải thưởng nhân quyền Martin Ennals hay không?

Với nhiều người, Phạm Đoan Trang không còn là cái tên xa lạ. Đây là người có hành vi chống đối Nhà nước quyết liệt. Ngày 14-12, Tòa án nhân dân TP Hà Nội tuyên phạt bị cáo Phạm Đoan Trang (43 tuổi, trú quận Đống Đa, Hà Nội, được biết đến là blogger, từng làm việc cho một số trang báo) 9 năm tù về tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, quy định tại điều 88 Bộ luật Hình sự 1999.

Phạm Đoan Trang là tác giả của nhiều tài liệu có nội dung hướng dẫn, kích động các hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân như “Chính trị bình dân”, “Cẩm nang nuôi tù”, “Phản kháng phi bạo lực”… Theo hồ sơ vụ án, năm 2013, do xuất cảnh đi nước ngoài không xin phép nên Trang đã bị cơ quan chủ quản kỷ luật buộc thôi việc. Trong chuyến xuất cảnh trái phép này, Trang đã bị một số đối tượng chống đối chính quyền dẫn dắt, móc nối, lôi kéo.

Trở về nước, Trang trực tiếp thành lập và tham gia điều hành nhiều hội, nhóm bất hợp pháp, đồng thời tụ tập, khuếch trương lực lượng chống đối trong nước, tập hợp lực lượng chống đối trong giới văn nghệ sĩ, trí thức trẻ. Đoan Trang đã viết, phát tán nhiều bài viết, cuốn sách có nội dung tuyên truyền xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền tại Việt Nam, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, kích động lật đổ chế độ.

Tòa án nhận định hành vi xuyên tạc đường lối chính sách, phỉ báng chính quyền của bị cáo Phạm Đoan Trang là nguy hiểm cho xã hội, thực hiện với mục đích cố ý xâm phạm chế độ XHCN và Nhà nước trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, xã hội, đối ngoại, xâm phạm đến sự vững mạnh của chính quyền nhân dân.

Sự thật rõ ràng như vậy, ấy thế nhưng dưới cái cớ bảo vệ nhân quyền, tự do ngôn luận, một số tổ chức nước ngoài, đại diện trong cơ quan ngoại giao của một số nước lại sẵn sàng dùng nhiều mỹ từ ca ngợi, bênh vực Phạm Đoan Trang. Họ sẵn sàng đăng đàn, công bố những cái gọi là “Giải thưởng nhân quyền”, “Tự do truyền thông quốc tế”, “Phụ nữ can đảm quốc tế”, “danh sách nạn nhân cần bảo vệ”… dành cho Phạm Đoan Trang. Tất nhiên, đi kèm với những việc làm này là “thông điệp” gây sức ép, phản đối và những cáo buộc vô căn cứ, phi lý với Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam.

Lộ liễu chiêu trò, dung túng, cổ vũ cho đối tượng vi phạm pháp luật

Không chỉ Phạm Đoan Trang, thời gian qua, cơ quan bảo vệ pháp luật đã xử lý một số đối tượng khác dựa trên những căn cứ cụ thể của từng bộ luật, trong đó có Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình bắt giữ, xử lý các đối tượng, cơ quan điều tra, viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân dân đều căn cứ vào những quy định của pháp luật để xử lý đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm nhưng cũng không làm oan sai. Vì vậy, có thể nói, bản án dành cho Phạm Đoan Trang cũng như các đối tượng chống đối khác trong thời gian qua là hoàn toàn đúng quy định, phù hợp với luật pháp quốc tế.

Những luận điệu bóp méo, xuyên tạc rằng Việt Nam xử lý các đối tượng trên bằng “bản án mơ hồ” “theo ý chí chủ quan”, “áp đặt”, “đàn áp những người bất đồng chính kiến” là hoàn toàn vô căn cứ. Điều này cho thấy một số tổ chức, cá nhân nước ngoài tiếp tục lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền để gây sức ép đối với Việt Nam. Với cái nhìn tiêu cực, thiếu thiện chí với Việt Nam, các cá nhân, tổ chức này lợi dụng triệt để việc Việt Nam xử lý số đối tượng vi phạm pháp luật thuộc nhóm chống đối trong thời gian qua, trong đó có Phạm Đoan Trang để xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, tạo cớ cho một số tổ chức, cá nhân tiếp tục có hoạt động chống phá Việt Nam.

Đây có thể coi là hành động can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Những tổ chức và cá nhân này luôn “ngộ nhận” về những giá trị “tốt đẹp” và “cao quý” của nền dân chủ tư sản phương Tây. Vì muốn áp đặt các giá trị này mà họ sẵn sàng can thiệp vào chính sách nhân quyền của quốc gia khác, kể cả những quốc gia có không ít nỗ lực và thành tựu về dân chủ, nhân quyền được cộng đồng quốc tế thừa nhận như Việt Nam. Với học thuyết “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, họ sẵn sàng ca ngợi, “bao bọc”, trợ giúp những đối tượng có tư tưởng bất mãn, chống đối chính quyền như Phạm Đoan Trang, kể cả khi các đối tượng này đã bị kết án bởi những phiên tòa công khai, khách quan, dân chủ từ phía các cơ quan bảo vệ pháp luật ở Việt Nam.

Mỗi đất nước có quyền lựa chọn con đường riêng của mình. Sự khác biệt về thể chế chính trị và những đặc thù riêng về kinh tế, văn hóa, xã hội giữa Việt Nam và các nước phương Tây đương nhiên sẽ tạo nên những hệ giá trị khác nhau, ngay cả với những vấn đề liên quan đến dân tộc, nhân quyền. Nhưng không vì thế mà các giá trị của phương Tây nghiễm nhiên trở nên ưu việt hơn, nổi trội hơn.

Thực tế thời gian qua cho thấy, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn kiên trì, nhất quán chính sách đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi chính sách phát triển. Những thành tựu về nhân quyền của Việt Nam trong thời gian qua là không thể phủ nhận. Điều này đã được nhân dân ủng hộ và các tổ chức uy tín hàng đầu quốc tế công nhận.

Vì vậy, việc các tổ chức, cá nhân xuyên tạc, vu cáo vấn đề dân chủ, nhân quyền của quốc gia khác là xâm phạm vào công việc nội bộ của quốc gia đó. Điều này không thể chấp nhận được đối với một quốc gia có chủ quyền như Việt Nam. Việc ủng hộ, dung túng, cổ vũ cho những đối tượng vi phạm pháp luật, bị đưa ra xét xử, có hành vi chống đối một quốc gia có độc lập, có chủ quyền là điều cần phải lên án.

Đảng và Nhà nước ta luôn hoan nghênh những ý kiến đóng góp xây dựng, phát triển đất nước, đồng thời nỗ lực bảo đảm quyền tự do, dân chủ, trong đó có tự do ngôn luận, tự do báo chí. Tuy nhiên, mỗi công dân khi thực thi quyền này phải nằm trong khuôn khổ pháp luật. Bất kỳ hành vi nào lợi dụng quyền tự do của bản thân mình để xâm phạm lợi ích Nhà nước, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân đều chịu xử lý của pháp luật và trật tự, kỷ cương chỉ có thể được giữ vững khi pháp luật được thượng tôn. Đó là cơ sở cho sự phát triển ổn định của đất nước, là tiền đề quan trọng để thúc đẩy, bảo đảm và phát huy các giá trị về quyền con người không chỉ ở Việt Nam mà còn ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới.

Hoàng Sơn

Có thể là hình ảnh về 3 người, đàn ghi ta và văn bản

 

 

 ĐẤU TRANH CHỐNG LUẬN ĐIỆU "QUÂN ĐỘI KHÔNG CẦN THỰC HIỆN MỤC TIÊU ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI"

 

Các thế lực thù địch sử dụng chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, tiến hành nhiều thủ đoạn, nhiều hướng tấn công theo phương châm đánh “mềm, ngầm, sâu” trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và tác động đến mọi đối tượng bằng con đường kích động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” làm suy yếu nội bộ của chúng ta.

Trong đó, các thế lực thù địch thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội, với luận điểm kích động: “Quân đội không cần thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội".  

Đòn đánh nham hiểm nhằm làm suy yếu quân đội từ gốc

Thời gian qua, các thế lực thù địch xác định tiến hành nhiều thủ đoạn tinh vi, trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, theo lộ trình “5 hóa”, trong đó có “vô hiệu hóa quân đội”. Bởi lẽ, các thế lực thù địch đưa ra nhận định rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam đang nắm chắc quân đội, công an nên chưa thể lật đổ được vai trò cầm quyền, vai trò lãnh đạo xã hội”.

Vì thế, chúng xác định âm mưu cơ bản, lâu dài là thực hiện “vô hiệu hóa quân đội” thì phải theo kịch bản, con đường “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam. Khi đó quân đội không còn là lực lượng chính trị tin cậy, tách rời khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thì sẽ không còn công cụ đắc lực để bảo vệ Đảng nên dễ lật đổ chế độ XHCN ở Việt Nam.

Mục đích phản động của luận điệu nêu trên là làm cho cán bộ, chiến sĩ mơ hồ ảo tưởng, rồi dần dần xa rời mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta, không trung thành với mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam là “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Nếu quân nhân nào bị ảo tưởng, nhận thức không đúng về mục tiêu, lý tưởng của Quân đội ta phải phục tùng mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam thì sẽ mất phương hướng chính trị.

Thực hiện thủ đoạn lấy tư tưởng là khâu đột phá, các thế lực thù địch đưa ra những luận điểm rất đa dạng và biến hóa: “Quân đội là trung lập”, “quân đội đứng ngoài chính trị”, “quân đội không cần tham gia chính trị”, “quân đội chỉ cần đề cao tính nhân dân, tính dân tộc”... Bên cạnh đó, chúng còn sử dụng con đường vòng là kích động truyền bá lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, buông thả, thờ ơ với chính trị để làm suy thoái về đạo đức lối sống dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị và phai nhạt về mục tiêu, lý tưởng trong đội ngũ cán bộ, chiến sĩ.

Chưa dừng lại ở đó, các thế lực thù địch, bất mãn chính trị từng đưa ra cái gọi là kiến nghị rằng: Lời thề thứ nhất trong "10 Lời thề danh dự của quân nhân" chỉ cần diễn đạt ngắn gọn lại là “Hy sinh tất cả vì Tổ quốc Việt Nam”, bỏ cụm từ “dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam” và cụm từ “phấn đấu thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”... Chúng cũng đưa ra đề xuất "quân đội chỉ cần thực hiện “công tác chính trị”, chứ không cần thực hiện “công tác đảng” và không cần xác định "Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội"(!).

 Nếu cán bộ, chiến sĩ quân đội không có bản lĩnh chính trị vững vàng, phân biệt rõ đúng, sai mà lại bị kích động và nhận thức không đúng đắn về sự thống nhất giữa mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam với mục tiêu chiến đấu của Quân đội ta thì tác hại rất lớn. Tác hại là không chỉ gây mơ hồ, ảo tưởng về nhận thức tư tưởng chính trị mà sẽ dẫn đến hành động dễ bị lệch lạc trong thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn cách mạng hiện nay. 

Giữ vững mạch sống, “linh hồn” của Quân đội nhân dân Việt Nam

Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, phục vụ. Cội nguồn hàng đầu làm nên sức mạnh, sự trưởng thành và chiến thắng của Quân đội ta trong gần 8 thập niên qua là do sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của QĐND Việt Nam. Vì vậy, việc thấm nhuần và thực hiện mục tiêu, lý tưởng “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” phải được xác định là mạch sống và “linh hồn” của QĐND Việt Nam, là phương châm hành động của mọi cán bộ, chiến sĩ.

Việc cần làm thường xuyên, bất di bất dịch là giữ vững, tăng cường vai trò lãnh đạo và kiên định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, kiên quyết phản bác, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa quân đội” của các thế lực thù địch. Đánh giá của Đảng ta về nguy cơ: “Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta”(1). Vì thế, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta phải tuân thủ triệt để cơ chế, nguyên tắc lãnh đạo lực lượng vũ trang là: “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với QĐND, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh”(2). Bởi vì, có Đảng lãnh đạo mới có đường lối đúng, mới thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng. Đối với LLVT thì còn Đảng là còn tất cả; nếu Đảng ta không còn giữ quyền lãnh đạo xã hội, giữ quyền lãnh đạo LLVT thì sẽ mất chế độ XHCN.

Để vô hiệu hóa âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch làm biến chất về chính trị Quân đội ta, cần tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, nhiều lực lượng xã hội. Trong đó, cần phát huy vai trò chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên của Quân ủy Trung ương, Ban chỉ đạo 35, cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng đối với các cấp ủy đảng trực thuộc, thường xuyên nắm chắc và nhận diện đúng bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch nhằm vô hiệu hóa Quân đội ta về chính trị.

Nâng cao tính khoa học trong tổ chức hoạt động đấu tranh làm thất bại luận điểm sai trái “Quân đội không cần thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” của các thế lực thù địch. Về lý luận, phải chỉ rõ quân đội ra đời gắn liền với sự ra đời của nhà nước do yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp, nên bất cứ quân đội nào cũng mang bản chất và phục vụ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của giai cấp sinh ra.

Công khai bản chất giai cấp công nhân của LLVT cách mạng, V.I.Lênin đề ra nguyên tắc xây dựng Hồng quân và Công an Xô viết là phải đặt dưới sự lãnh đạo, phải thực hiện mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng Bolshevik Nga (Đảng Cộng sản Liên xô). Vận dụng sáng tạo tư tưởng của V.I.Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, ngay từ năm 1930, trong “Chánh cương vắn tắt” của Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã yêu cầu phải “Tổ chức ra quân đội công nông”.

Vì thế, trong suốt quá trình tổ chức xây dựng, lãnh đạo, giáo dục Quân đội ta, Người luôn nhắc nhở: “Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”(3); do đó, “Phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội. Phải tăng cường giáo dục chính trị để nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho toàn quân”(4). Đảng ta đã nhấn mạnh rằng: “Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc”(5).

Các thế lực thù địch sử dụng đòn đánh nguy hiểm làm suy yếu nội bộ Quân đội ta về chính trị thì chúng ta phải có giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, mà trực tiếp là giáo dục sâu sắc về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta. Nội dung giáo dục chính trị nói chung, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta nói riêng ở mỗi đơn vị phải phù hợp với mỗi đối tượng quân nhân, bảo đảm những nội hàm của mục tiêu “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” trong mỗi giai đoạn cụ thể, đặc biệt bám sát tinh thần mới mà Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra.

Bên cạnh đó, cần thực hiện tốt công tác quản lý chính trị nội bộ, ngăn chặn và làm thất bại các hoạt động chiến tranh tâm lý của các thế lực thù địch. Chú trọng công tác dân vận, kết hợp với cấp ủy, chính quyền và các tổ chức chính trị-xã hội ở địa phương nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đấu tranh phản bác, vạch trần các luận điểm sai trái, phản động trên lĩnh vực tư tưởng chính trị.

QĐND Việt Nam nguyện mãi mãi là lực lượng chính trị trung thành với mục tiêu, lý tưởng “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì thế, không có một thế lực thù địch nào có thể làm thay đổi bản chất, mục tiêu chính trị của QĐND Việt Nam-một quân đội "nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng". Trong giai đoạn hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Quân đội ta nỗ lực phấn đấu thực sự là đội quân chiến đấu tinh nhuệ, lực lượng chính trị tin cậy cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, vì "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

QĐND

 

 

 

VẠCH TRẦN TRÒ 'CHẠY TỘI' CHO TRUNG QUỐC Ở BIỂN ĐÔNG 

 

Báo chí chính thống và chuyên gia “thân” Trung Quốc lại tiếp tục đăng tải các bài viết để “chạy tội” cho các hành vi của nước này ở Biển Đông.

Mới đây, tờ South China Morning Post đã đăng bài viết của TS Mark J.Valencia, người đang làm việc cho Viện Nghiên cứu quốc gia của Trung Quốc về Biển Đông, với tựa đề What is driving China’s “assertiveness” in the South China Sea? (tạm dịch: Điều gì khiến Trung Quốc “quyết đoán” ở Biển Đông).

Đổ lỗi

Bài viết có nội dung phản biện lại báo cáo của một cơ quan nghiên cứu chính sách từ Mỹ về tình hình Biển Đông. Bỏ qua các ý kiến phản biện về báo cáo vừa nêu, bài viết của TS Valencia hướng đến việc giải thích những hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông chủ yếu dựa trên những bài học lịch sử và nước này cần đảm bảo khả năng phòng vệ trước các mối nguy - cụ thể là từ Mỹ, do cuộc cạnh tranh quyền lực giữa Washington và Bắc Kinh trong khu vực.

 

Cụ thể, tác giả cho rằng: “Đối với Trung Quốc, từ lịch sử thì Biển Đông có thể là khu vực dễ bị tiếp cận bởi các nước phương Tây, vốn tìm cách kiểm soát và đô hộ Trung Quốc”. Chính vì thế, theo tác giả, Bắc Kinh đang tăng cường năng lực thu thập thông tin, giám sát và do thám (ISR) nhằm mục tiêu vừa nêu, đảm bảo nguy cơ phương Tây “tấn công phủ đầu”. Các ngụy biện này nhằm cho rằng tại Biển Đông, Trung Quốc chỉ đang “phòng thủ” các nguy cơ từ phương Tây.

 

Đây không phải là lần đầu tiên TS Valencia có những bài viết “định hướng” trách nhiệm cho căng thẳng ở Biển Đông. Thực tế, Thanh Niên từng nhiều lần phản ảnh về các bài viết của vị “chuyên gia quốc tế” này.

 

Cụ thể, vào tháng 5.2021, ông Valencia có 2 bài viết liên quan vấn đề Biển Đông đăng trên các báo Asia Times và South China Morning Post lần lượt là “South China Sea: Muddying the waters” (tạm dịch: Biển Đông giữa các hành động gây bất ổn), và “US-China race for surveillance supremacy in South China Sea risks a needless clash” (tạm dịch: Cuộc chạy đua Mỹ - Trung về năng lực giám sát Biển Đông có nguy cơ dẫn đến đụng độ không cần thiết). Trước đó, vào tháng 3.2021, ông Valencia đăng bài trên tờ South China Morning Post có tựa “With its support for US strategy, France is playing with fire in the South China Sea” (tạm dịch: Hỗ trợ cho chiến lược của Mỹ, Pháp đang “đùa với lửa” ở Biển Đông). Hay ngày 1.1.2021, ông Valencia viết bài “US and its allies must be wary of provoking South China Sea conflict over freedom of navigation” (tạm dịch: Mỹ và đồng minh cần thận trọng việc kích động xung đột trên Biển Đông về tự do hàng hải) trên tờ South China Morning Post, hay vào tháng 11.2020 có bài “What really drives the South China Sea conflict” (tạm dịch: Nguyên nhân nào dẫn đến nguy cơ xung đột ở Biển Đông) trên Asia Times.

 

Nội dung cơ bản của các bài viết trên vẫn là đổ lỗi rằng các hành động của phương Tây đã khiến Trung Quốc phải phản ứng ở Biển Đông, chứ không phải Trung Quốc chủ động gây căng thẳng.

 

Đến nói một đàng, làm một nẻo

 

Rõ ràng, cạnh tranh quyền lực Mỹ - Trung tại khu vực Thái Bình Dương là thực tế đang diễn ra. Tuy nhiên, hoàn toàn phi lý nếu giải thích các động thái của Trung Quốc ở Biển Đông chỉ mang tính chất “phòng vệ”. Cụ thể, từ năm 2016, các hình ảnh vệ tinh cho thấy Bắc Kinh đã xây dựng xong đường băng dài 3.000 m, nhà chứa máy bay cỡ lớn… ở bãi đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa. Cùng năm 2016, các hình ảnh khác cũng chỉ ra hiện trạng tương tự trên 2 bãi đá Xu Bi và Vành Khăn (quần đảo Trường Sa) mà Bắc Kinh chiếm đóng trái phép.

 

Sau khi hoàn thành các cơ sở hạ tầng, Trung Quốc lại tiến thêm một bước là điều động nhiều loại máy bay quân sự đến khu vực này, dù chưa rõ có đồn trú hay không. Đến năm 2018, ngoài dấu vết máy bay quân sự tại các bãi đá này, những loại vũ khí như hệ thống tên lửa đối hạm YJ-12B, tên lửa đối không HQ-9B cũng đã được triển khai đến các bãi đá ở Trường Sa, theo hình ảnh vệ tinh và phân tích được công bố bởi Sáng kiến Minh bạch hàng hải châu Á (AMTI) thuộc Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS) có trụ sở tại Washington (Mỹ).

 

Thêm vào đó, trong suốt năm 2020 và 2021, Trung Quốc tự ban hành luật hải cảnh mới và luật thông báo an toàn hàng hải để tìm cách kiểm soát một cách phi pháp vùng biển này, nhằm đạt được sự kiểm soát tuyệt đối ở Biển Đông. Bởi Bắc Kinh tự trao quyền kiểm soát, sẵn sàng tấn công nhằm vào các tàu nước ngoài, bao gồm cả tàu cá của các nước trong khu vực. Ngay cả khi chưa có các quy định này, tàu hải cảnh Trung Quốc đã đâm chìm tàu cá Việt Nam đang đánh bắt hợp pháp ở vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa vào năm 2020.

 

Trong tháng 5 vừa qua, tờ Hoàn Cầu thời báo, trực thuộc Nhân dân nhật báo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, ngày 18.5 đăng bài xã luận “China, ASEAN push forward COC talks despite of US’ intervention” (tạm dịch: Trung Quốc, ASEAN thúc đẩy đàm phán COC bất chấp sự can thiệp của Mỹ; COC là viết tắt của Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông - NV).

 

Bài xã luận còn nêu: “Trung Quốc đã và đang nỗ lực không ngừng vì hòa bình và ổn định trong khu vực cũng như thúc đẩy các cuộc đàm phán COC”. Thế nhưng, đúng một ngày sau khi bài xã luận “hữu hảo” được đăng, Trung Quốc bắt đầu tập trận ở Biển Đông như đã thông tin ở trên. Từ đầu năm đến nay, Trung Quốc nhiều lần công bố các cuộc tập trận tại khu vực này.

 

Không những vậy, truyền thông Trung Quốc gần đây còn công bố nhiều thông tin đáng quan ngại ở Biển Đông như: Điều động chiến đấu cơ thế hệ 5 tàng hình J-20 tuần tra; Nâng cao năng lực bay liên tục trong hàng chục tiếng đồng hồ cho phi công điều khiển máy bay tiêm kích; Mở rộng khả năng đổ bộ tấn công ở các đảo và thực thể tại Biển Đông bằng máy bay vận tải và tàu đổ bộ tấn công; Bắn thử tên lửa hành trình tấn công tàu chiến…

 

Các thực tế trên cho thấy hành động của Trung Quốc không phải là phòng vệ nguy cơ từ phương Tây. Hơn thế nữa, vào năm 2016, Tòa trọng tài quốc tế đã có phán quyết bác bỏ tuyên bố chủ quyền mà Trung Quốc đưa ra ở Biển Đông. Vì thế, mọi hành vi leo thang quân sự của Trung Quốc ở vùng biển này đều là phi pháp dù nhằm bất cứ lý do gì.

 

 

KHƠI DẬY Ý CHÍ TỰ LỰC, TỰ CƯỜNG KHÁT VỌNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC PHỒN VINH, HẠNH PHÚC

 

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một học thuyết cách mạng, một hệ thống tư tưởng lý luận, khoa học được trải nghiệm qua thực tiễn cách mạng vĩ đại suốt gần thế kỷ qua của Việt Nam và nhiều nơi trên thế giới, đã được chứng minh sâu sắc, soi sáng cho con đường cách mạng nước ta vượt qua mọi gian nan thử thách để tới thắng lợi vẻ vang. Tư tưởng ấy, ý chí ấy, khát vọng ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh hơn bao giờ hết cần được khơi dậy trong tư tưởng, tình cảm, tinh thần ý chí nghị lực mỗi người cán bộ, đảng viên, nhân dân Việt Nam, tạo sức mạnh vô song xây dựng đất nước hùng cường, giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc trên toàn thế giới trong thời đại văn minh, hiện đại.

 

Ý CHÍ, KHÁT VỌNG TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC

 

Với ý chí, khát vọng lớn lao và tư duy sáng tạo, ngày 5/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước bằng cách “xem người ta làm thế nào để rồi trở về giúp đồng bào mình”. Người đi tìm con đường đúng đắn, phù hợp, không cầu viện, thể hiện ý chí tự lực, tự cường, khát vọng lớn lao, tầm nhìn thời đại. Người ra đi với khát vọng lớn lao: “Tìm tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”. Sau khi đi qua nhiều nước, thâm nhập cuộc sống, đấu tranh của các dân tộc bị chủ nghĩa đế quốc áp bức, Người rút ra kết luận: Trên thế giới hàng tỷ người này, các dân tộc, màu da khác nhau, ngôn ngữ khác nhau nhưng chỉ có hai hạng người đó là kẻ đi áp bức và người bị áp bức. Nguyễn Ái Quốc đứng về phía những người bị áp bức và bênh vực, bảo vệ họ.

 

Đi qua Pháp, Mỹ, Anh, rồi lại trở về Pháp, tại Paris, năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp, tìm hiểu về Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Ngày 18/6/1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, Người gửi Bản yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Versailles ký tên Nguyễn Ái Quốc, đòi những quyền tự quyết dân tộc là sự kiện thức tỉnh tất cả các dân tộc Đông Dương, làm rung động bầu trời đen tối Việt Nam bấy lâu nay.

 

Suốt mấy chục năm hoạt động sôi nổi, đầy gian khổ ở nước ngoài trong sự kham khổ, thiếu thốn, đe dọa ve vãn, lôi kéo, săn lùng, tù đầy của kẻ thù, Nguyễn Ái Quốc luôn sắt son một ý chí: “Cái tôi cần nhất trên đời là đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập. Người nhiều lần khẳng định: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”… Ý chí, khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải thức tỉnh đồng bào, đánh thức toàn dân tự mình mà giải phóng cho ta; tự mình mà thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu.

 

Nguyễn Ái Quốc đọc được toàn văn tác phẩm “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin, Người sung sướng nhận thấy: “Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”. Cùng với đó là kết quả hành trình trải nghiệm sâu sắc của Nguyễn Ái Quốc trong những hoạt động của Quốc tế Cộng sản, của Đảng Cộng sản Pháp, hâm mộ Cách mạng Tháng Mười Nga và nhiều hoạt động chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã quyết định: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: Trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”(1).

 

Ý CHÍ, KHÁT VỌNG GIÀNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC, XÂY DỰNG TỔ QUỐC VĂN MINH, CƯỜNG THỊNH, HẠNH PHÚC

 

Tìm thấy con đường cứu nước sau khi tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng giải phóng dân tộc chỉ có thể là cuộc cách mạng vô sản. Nguyễn Ái Quốc ra sức tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin bằng nhiều cách: Tổ chức bồi dưỡng cán bộ, viết sách, báo… làm cho các tầng lớp nhân dân nhận thức đúng đắn về trách nhiệm tự giải phóng mình.

 

Ngày 3/2/1930, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam với cương lĩnh chiến lược: đánh đuổi đế quốc, đánh đổ phong kiến, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội. Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trở về Tổ quốc cùng Trung ương Đảng lãnh đạo phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do. Cùng với việc phân tích, nắm vững thời cơ thế giới và trong nước, Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng phát huy vai trò, sức mạnh của nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang, động viên lực lượng của toàn dân. Tháng 8 năm 1945, khi thời cơ cách mạng xuất hiện, Hồ Chí Minh có thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa, Người nêu rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dạy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”(2). Hưởng ứng lời kêu gọi non sông của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả nước một lòng cùng nhau đứng dậy làm cuộc cách mạng Tháng Tám lay trời chuyển đất thành công, lập nên nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á do nhân dân làm chủ. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời là thành quả cuộc đấu tranh kiên cường của cả dân tộc Việt Nam do Đảng Cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Đó là kết quả của ý chí tự lực tự cường, khát vọng độc lập tự do phát triển đất nước của Hồ Chí Minh được cả nước noi theo. Người khát vọng xây dựng đất nước giàu mạnh, độc lập, tự do, hạnh phúc cho tất cả mọi người dân. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ vừa mới ra đời dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thử thách, thế nước như ngàn cân treo sợi tóc. Đó là nạn đói, nạn dốt, giặc ngoại xâm… Chủ tịch Hồ Chí Minh lại một lần nữa thể hiện ý chí, nghị lực, bản lĩnh vượt qua những thử thách quyết liệt để thực hiện khát vọng giữ vững độc lập, tự do, hạnh phúc, phồn vinh dân tộc.

 

“Không có gì quý hơn độc lập tự do”; “Thà hy sinh tất cả chứ quyết không chịu mất nước” là ý chí, khát vọng của Người được hun đúc, bùng dậy từ truyền thống yêu nước hàng nghìn năm cũng như sức mạnh của mọi người dân toàn dân tộc Việt Nam kiên quyết đánh thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo kết hợp chặt chẽ kháng chiến và kiến quốc với ý chí, niềm tin, khát vọng: “Kháng chiến tất thắng, kiến quốc tất thành”.

 

Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng ta, bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã đuổi sạch bóng quân thù, thực hiện khát vọng Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng phồn vinh hạnh phúc. Từ một nước nông nghiệp, lạc hậu, nghèo nàn lại trải qua cuộc chiến tranh kéo dài, đi lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo Đảng và nhân dân ta tự lực, tự cường, cần cù, sáng tạo, tranh thủ sự hỗ trợ giúp đỡ của bạn bè, các nước đã có hình thức, bước đi thích hợp, vượt qua muôn vàn gian khó trở thành nước tiến bộ, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Tiếp theo việc thực hiện những tư tưởng của Người, Đảng và nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới suốt hơn 35 năm qua đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

 

TIẾP TỤC KHƠI DẬY Ý CHÍ TỰ LỰC, TỰ CƯỜNG, KHÁT VỌNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC PHỒN VINH, HẠNH PHÚC

 

Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta bước vào thế kỷ XXI, hội nhập với thế giới hiện đại, thời kỳ công nghệ 4.0 cùng biết bao nhiêu biến động ở trong nước và quốc tế khó lường. Để vượt qua những khó khăn thách thức của thời đại, đưa dân tộc ta phát triển phồn vinh, hạnh phúc, sánh vai với các cường quốc trên thế giới theo tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần tập trung vào những nội dung chính như sau:

 

Một là, tiếp tục đi sâu học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường, thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

 

Cùng với việc tiếp tục học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh một cách toàn diện, đúng đắn, đầy đủ, nghiêm túc, vấn đề đặt ra có tính chiến lược là đặc biệt nhấn mạnh đi sâu, hiểu kỹ, để suy nghĩ, làm theo, tạo cho mình phong cách, lối sống có ý chí, nghị lực, bản lĩnh thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Thấu hiểu ý chí tự lực, tự cường, khát vọng của Hồ Chí Minh về phát triển đất nước trong suốt chặng đường lịch sử đầy bão táp, mỗi cá nhân sẽ tự xây dựng, bồi dưỡng, hình thành củng cố niềm tin vững chắc cho ý chí tự lực, tự cường, khát vọng cho mình góp phần phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Chỉ có học tập, làm theo một cách tự nguyện, tự giác, chân thành, thực tâm với ý chí tự lực, tự cường, khát vọng của Hồ Chí Minh trong mỗi cá nhân có kết quả, mới tạo sức mạnh vô song đưa đất nước ta đi nhanh, đi mạnh, đi vững chắc trong mỗi bước đường tới phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Kiên quyết khắc phục lối học hình thức, bề ngoài, để có chứng chỉ bằng cấp…

 

Hai là, phát huy cao độ ý chí tự lực, tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh hạnh phúc trong bối cảnh hội nhập quốc tế, mở rộng các quan hệ toàn cầu.

 

Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Người lãnh đạo Đảng và nhân dân ta tiến hành thắng lợi các cuộc cách mạng vĩ đại đều gắn với cách mạng thế giới. Nhưng cốt lõi, sức sống tư tưởng của Người lãnh đạo cách mạng Việt Nam vẫn là “tự ta giải phóng cho ta”; là ý chí tự lực, tự cường; là không cầu viện, dựa dẫm vào bên ngoài mà tự lực cánh sinh là chính.

 

Ba là, quyết tâm thực hiện có hiệu quả các nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, biến các mục tiêu thành hiện thực, nâng cao đời sống nhân dân.

 

Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng cũng như các nghị quyết của Quốc hội, của Chính phủ, của các cấp uỷ Đảng đều xác định những phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể đưa nước ta tiến lên xây dựng một Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc; một Việt Nam hùng cường, một nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã luôn là khát vọng mãnh liệt của bao thế hệ lãnh đạo và người dân Việt Nam. Khát vọng ấy đã hiệu triệu, khơi dậy lòng yêu nước, hun đúc tinh thần đoàn kết và sưc smạnh của nhân dân toàn dân tộc, làm nên những thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử trong quá trình bảo vệ và xây dựng phát triển đất nước.

 

Thành tựu hơn 35 năm đổi mới là kết quả đáng tự hào nhưng cũng đặt ra những kỳ vọng, những trách nhiệm, những thách thức lớn lao cùng với những đòi hỏi cụ thể trước mắt, lâu dài đối với mỗi người dân Việt Nam. Vì vậy, khát vọng phát triển Việt Nam giàu mạnh hùng cường lại càng mãnh liệt và sục sôi hơn bao giờ hết.

 

Để biến khát vọng thành hiện thực, chúng ta phải thấm sâu ý chí, khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhận rõ con đường phía trước, thấy được những khó khăn, thách thức, thuận lợi, thời cơ để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chiến lược trong từng giai đoạn 5 năm, 10 năm, 20 năm, 30 năm tiến tới tầm nhìn năm 2045. Đây là sự chỉ đạo của Đảng có ý nghĩa lịch sử, đánh dấu bước phát triển mới của đất nước, định hướng tương lai, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước. Tầm nhìn cũng khẳng định đường lối chiến lược cách mạng, bảo đảm tính kế thừa và phát triển, tính liên tục xã hội ở nước ta; bảo đảm tính khoa học, khả thi và thực tiễn, là tâm huyết, trí tuệ, niềm tin của “ý Đảng, lòng dân”. Chiến lược phát triển tổng thể trong giai đoạn tới là phát triển nhanh, mạnh, bền vững, bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó chú trọng vào bốn trụ cột chính gồm: Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng an ninh là trọng yếu, thường xuyên.

 

 

ĐỂ NGUYÊN TẮC ĐẢNG HOẠT ĐỘNG TRONG KHUÔN KHỔ HIẾN PHÁP VÀ PHÁP LUẬT HIỆU QUẢ TRONG THỰC TẾ

“Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” là một nguyên tắc hoạt động của Đảng, được Đại hội X của Đảng thông qua và đưa vào Điều lệ Đảng. Nguyên tắc này xác định địa vị pháp lý của Đảng cầm quyền và phương thức hoạt động của Đảng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta hiện nay; thể hiện sinh động cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ"; đề phòng và khắc phục tình trạng "bao biện làm thay" hoặc buông lỏng lãnh đạo...

Nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật phản ánh đầy đủ các giá trị văn hóa cao quý của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo. Ảnh minh họa:

 

Ngay sau khi trở thành Đảng cầm quyền tháng 9-1945, Đảng ta đã coi trọng vấn đề tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Năm 1947, mặc dù công cuộc kháng chiến-kiến quốc vô cùng bận rộn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành tâm sức viết tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc", trong đó có phần chỉnh đốn những biểu hiện coi thường pháp luật của cán bộ, đảng viên. Tại Đại hội III của Đảng, Đảng đã thẳng thắn chỉ ra tình trạng: "Có những cấp ủy đảng bao biện làm thay, can thiệp vụn vặt vào công việc của cơ quan Nhà nước... Có những cấp ủy và cán bộ, đảng viên coi thường chính quyền Nhà nước, không nghiêm chỉnh chấp hành chỉ thị, nghị quyết của cơ quan chính quyền cấp trên"(1).

Đến Đại hội IV, Đảng ta tiếp tục khẳng định: "Đảng bắt buộc các tổ chức đảng và đảng viên tôn trọng quyền hạn, trách nhiệm và các chế độ của cơ quan Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và các quyết định của Nhà nước, coi đó là kỷ luật của Đảng”(2). Đặc biệt, Đảng khẳng định việc cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật, quy định của Nhà nước là vi phạm kỷ luật của Đảng.

Tại Đại hội V, Đảng nhấn mạnh: "Vẫn còn một số tổ chức đảng bao biện công việc của cơ quan Nhà nước. Cần nhanh chóng khắc phục tình trạng đó. Các cấp ủy đảng, các cán bộ, đảng viên phải gương mẫu thi hành Hiến pháp và pháp luật, đi đầu trong cuộc đấu tranh tăng cường pháp chế XHCN. Nghiêm cấm các tổ chức đảng tùy tiện đề ra những quy định trái với pháp luật”(3). Đại hội cũng nhấn mạnh, phải tập trung "khắc phục thiên hướng xem nhẹ vai trò của Nhà nước còn khá nặng nề ở nhiều cấp, nhiều ngành"(4).

Đại hội X của Đảng đã thông qua Điều lệ Đảng, trong đó xác định: “Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”(5) là một trong các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng. Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 ghi rõ: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.

Nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật phản ánh đầy đủ các giá trị văn hóa cao quý của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo. Nội dung cơ bản của nguyên tắc ấy là: Vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng được chế định trong Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, hệ thống chính trị và xã hội. Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng phải được thể chế hóa thành Hiến pháp và pháp luật thông qua trình tự lập hiến, lập pháp, qua đó mà thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Nội dung và phương thức hoạt động của Đảng phải phù hợp với Hiến pháp và pháp luật; tổ chức sinh hoạt nội bộ của Đảng phải phù hợp với các thiết chế do Hiến pháp và pháp luật quy định. Đảng lãnh đạo bảo đảm các thiết chế của Nhà nước hoạt động theo đúng vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ. Tổ chức đảng và đảng viên gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, mọi vi phạm phải được xử lý kịp thời và nghiêm minh, công khai trước pháp luật như mọi tổ chức và công dân khác.

Nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật đập tan mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động vu cáo Đảng ta "độc tài, toàn trị", là "ông vua tập thể"; đồng thời cảnh tỉnh, ngăn ngừa những đảng viên có chức, có quyền sa vào "tham nhũng quyền lực". Dù rằng đây là vấn đề thuộc về "khuyết tật bẩm sinh của quyền lực" mà bất kỳ một đảng cầm quyền nào cũng phải tiến hành các biện pháp phòng, chống để bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân.

Thực hiện nguyên tắc “Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” đã đem lại những thành tựu to lớn trong vận hành cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" ở nước ta. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Tuy nhiên, phải thẳng thắn thừa nhận, một bộ phận cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng chưa nhận thức rõ về nguyên tắc này. Một số tổ chức đảng vẫn ra những nghị quyết, chỉ thị trái pháp luật; một số cán bộ, đảng viên nhân danh tổ chức đảng tùy tiện gây áp lực làm ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật. Một số cấp ủy địa phương lạm dụng quyền lãnh đạo, can thiệp sâu vào hoạt động chính quyền, tư pháp. Một bộ phận đảng viên vi phạm pháp luật, nhất là trong lĩnh vực kinh tế với tính chất, mức độ nghiêm trọng. Một số cán bộ, đảng viên lợi dụng chức quyền để tham nhũng, buôn lậu, bao che cho các hoạt động kinh tế bất hợp pháp, để vợ con, người thân trục lợi từ chức vụ, quyền hạn. Đặc biệt là những biểu hiện làm giàu bất chính, ăn chơi xa xỉ, mê tín dị đoan, cờ bạc, rượu chè bê tha... bị quần chúng oán ghét, làm suy giảm niềm tin của người dân vào Đảng.

Tại Hội nghị Trung ương 4, khóa XIII vừa qua, Trung ương Đảng đã thống nhất cao về việc tiến hành đồng bộ và quyết liệt hơn nữa công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh. Cùng với đẩy mạnh thực hiện 4 nhóm nhiệm vụ, giải pháp mà Hội nghị Trung ương 4, khóa XII đã đề ra; Hội nghị Trung ương 4, khóa XIII bổ sung nhấn mạnh thêm 2 nhóm nhiệm vụ, giải pháp là: Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xử lý nghiêm cán bộ sai phạm.

Có thể nói, thực hiện 2 nhiệm vụ, giải pháp mà Hội nghị Trung ương 4, khóa XIII bổ sung, nhấn mạnh là vấn đề quan trọng nhất trong thúc đẩy việc thực hiện nghiêm nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Cùng với vấn đề quan trọng nhất nói trên, chúng ta cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp khác như: Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức trách nhiệm cho cấp ủy các cấp và cán bộ, đảng viên về nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; chú trọng thực hiện nghiêm quy định của Trung ương Đảng về những điều đảng viên không được làm. Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, xây dựng hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện, đồng bộ và hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò người đứng đầu cấp ủy các cấp, chính quyền, cơ quan, đơn vị, cụ thể hóa chi tiết vai trò lãnh đạo và hoạt động của Đảng, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chấp hành Điều lệ Đảng với chấp hành pháp luật của đảng viên. Phát huy vai trò của người đứng đầu cấp ủy và chính quyền các cấp trong thực hiện nguyên tắc.

Trong sinh hoạt Đảng và tiếp xúc cử tri, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng rất nhiều lần nhấn mạnh: Mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng phải thấm nhuần quan điểm "đúng vai, thuộc bài". Điều đó có nghĩa là mọi cá nhân, tổ chức phải hiểu rõ, nắm chắc và hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ đã được Hiến pháp và pháp luật cho phép. Thực tiễn lãnh đạo và cầm quyền của Đảng ta trong hơn 35 năm đổi mới cho thấy, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật không phải là hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng mà là một yêu cầu khách quan, vừa đáp ứng yêu cầu đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, vừa giúp xây dựng Đảng vững mạnh, thật sự xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

 

 PHÒNG, CHỐNG NHỮNG THÔNG TIN XUYÊN TẠC, SAI TRÁI THÙ ĐỊCH TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.

 

   Trong kỷ nguyên số, thời đại công nghiệp 4.0, môi trường không gian mạng (KGM) đang phát triển mạnh mẽ, tạo ra nhiều lợi ích đối với các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, sự phát triển của KGM lại là mảnh đất “mầu mỡ” để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá cách mạng Việt Nam với âm mưu, thủ đoạn ngày cảng tinh vi, nguy hiểm.

 

  Đáng chú ý, thời gian gần đây lợi dụng những ưu thế nổi trội của mạng xã hội so với các phương tiện truyền thông truyền thống, nhất là tính kết nối, tính mở, với đặc trưng tự do, đa dạng, nặc danh, khó kiểm soát…, thậm chí nhiều khi bị xóa nhòa ranh giới giữa thực và ảo, các TLTĐ đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” với cấp độ ngày càng gay gắt, quyết liệt. Chúng tăng cường truyền bá các quan điểm sai trái, tung tin xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với đất nước, phủ nhận truyền thống lịch sử dân tộc và những thành tựu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà đất nước ta, nhân dân ta đã giành được; xuyên tạc, vu khống, bịa đặt, bôi nhọ hình ảnh các đồng chí lãnh đạo cấp cao… hòng gây hỗn loạn về tư tưởng, tạo ra “những khoảng trống” để nhằm mục đích xóa bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa.

 

  Theo các cơ quan chức năng, hằng ngày có hàng nghìn tin, bài chống phá được tung lên KGM, gây nhiễu loạn thông tin, hướng lái công chúng truyền thông hiểu sai lệch, gia tăng sự bất đồng thuận, kích động những tư tưởng bất mãn, phản kháng, chống đối với Đảng, Nhà nước. Những thông tin xấu độc có ảnh hưởng, tác động tiêu cực rất lớn tới xã hội, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm giảm niềm tin của  nhân dân với Đảng, Nhà nước. Sự chống phá này không chỉ ở diện rộng bằng những bài viết dung tục, thù hận, cực đoan một chiều như trước đây, mà nay chúng đã đầu tư xây dựng và sử dụng ngày càng nhiều bài viết đa tầng thông tin, đa quan điểm, với nhiều chiêu trò đánh tráo khái niệm, ngụy tuyên truyền hết sức tinh vi.

 

  Về quy mô hoạt động, chúng có sự cấu kết chặt chẽ giữa các đối tượng phản động lưu vong, số đối tượng chống đối bên ngoài với những phần tử cơ hội, bất mãn chính trị trong nước, được hậu thuẫn, “hà hơi tiếp sức” bằng nhiều nguồn lực bởi các tổ chức phản động, khủng bố, tổ chức phi chính phủ, chính phủ một số nước có quan điểm đối lập…, hình thành mạng lưới chống đối rộng khắp, với chiêu trò “nội công, ngoại kích”, tạo thành nhiều mũi tấn công trên nhiều lĩnh vực.

 

  Nội dung thông tin xuyên tạc, sai trái, thù địch hết sức đa dạng, phức tạp, trên tất cả các lĩnh vực: tư tưởng, chính trị, xây dựng Đảng, kinh tế, văn hóa, xã hội…. Đặc biệt, chúng coi trọng việc phá hoại tư tưởng, coi đó là mũi nhọn, là con đường ngắn nhất dẫn tới sự xói mòn về niềm tin của nhân dân với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa. Chúng tập trung chống phá, xuyên tạc, phủ nhận quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước hiện nay, nhất là đường lối đổi mới của Đảng ta. Chúng đồng nhất đổi mới chính trị với thay đổi chế độ chính trị; phủ nhận, bôi đen những thành tựu,  cường điệu, thổi phồng, khoét sâu vào những mặt hạn chế, những tiêu cực của một bộ phận cán bộ, đảng viên; xuyên tạc các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo…tạo cái nhìn sai lệch về tình hình đất nước; đồng thời phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; chúng cổ xúy “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, phủ nhận bản chất cách mạng và nhân dân của lực lượng vũ trang; chia rẽ Quân đội nhân dân và Công an nhân dân…

 

  Cùng với phát tán dầy đặc và với tần suất lớn những thông tin xấu độc trên KGM, thực hiện chiêu trò “mưa dầm thấm lâu” hết sức thâm độc, chúng còn tráo trở cắt ghép, đan cài, “đổi trắng thay đen” trộn lẫn tinh vi thông tin thật – giả để dẫn dụ độc giả lạc vào ma trận thông tin, từ đó bị hướng lái theo luồng thông tin sai lệch, dẫn dắt dư luận xã hội, ngụy tạo sự khách quan để chống phá hết sức tinh vi, xảo quyệt.

 

  Trước những âm mưu, thủ đoạn vô cùng nguy hiểm của các đối tượng trên, đòi hỏi chúng ta phải luôn tỉnh táo, chủ động, nhận diện đúng và thường xuyên, quyết liệt đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình”, vạch trần những âm mưu, thủ đoạn, những luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, nâng cao “sức đề kháng” khả năng “miễn nhiễm”, trước những thông tin xấu độc. Mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là thế hệ trẻ phải không ngừng tự nghiên cứu, học tập, trau rèn nhận thức, bản lĩnh chính trị, trang bị cho mình những kiến thức, kỹ năng phòng ngừa, phát hiện để làm tốt vai trò tham mưu đúng, trúng, kịp thời, từ sớm, từ xa trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, trong đó khi nói và viết bài hoặc phát ngôn trên diễn đàn, trên mạng xã hội, phải thể hiện rõ bản lĩnh chính trị không được phép phát ngôn mang tính hoài nghi; không a dua, câu view, câu like, chia sẻ với những thông tin không được kiểm chứng, những luồng thông tin xấu độc… Bên cạnh đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu, là "hạt nhân" tại cơ sở để đưa những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước vào cuộc sống; đưa những thông tin chính thống, tích cực, lan tỏa những tấm gương sáng, những cách làm hay, việc làm tốt trong cộng đồng, tỏa sáng niềm tin của nhân dân, vững tin trên con đường dân tộc./.