Thứ Năm, 11 tháng 8, 2022

Tăng cường phòng chống tham nhũng trong đấu thầu, mua sắm sinh phẩm, vật tư, trang thiết bị y tế

 

Tăng cường phòng chống tham nhũng trong đấu thầu, mua sắm sinh phẩm, vật tư, trang thiết bị y tế

22/12/2021 | 19:22 PM

 | 

Các địa phương xem xét bổ sung vào Kế hoạch thanh tra năm 2022 có nội dung thanh tra về công tác đấu thầu, mua sắm thuốc, sinh phẩm, vật tư, trang thiết bị y tế; Kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, xử lý các hành vi vi phạm hoặc chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra để xử lý theo quy định của pháp luật

GS.TS Nguyễn Thanh Long- Bộ trưởng Bộ Y tế vừa ký ban hành công văn gửi đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ, Thành uỷ; đồng chí Chủ tịch UBND các tỉnh, thành về việc tăng cường các biện pháp phòng chống tham nhũng trong đấu thầu, mua sắm sinh phẩm, vật tư, trang thiết bị y tế.

Văn bản cho biết, ngày 8/10/2021, Chính phủ ban hành Nghị quyết 127/NQ-CP về tình hình kinh tế - xã hội tháng 9 và 9 tháng năm 2021, trong đó yêu cầu Bộ Y tế, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố chỉ đạo các cơ quan thanh tra, các lực lượng chức năng tiến hành thanh tra, kiểm tra việc quản lý, sử dụng nguồn kinh phí, việc mua sắm trang thiết bị y tế phục vụ công tác phòng, chống dịch bệnh COVID-19không để xảy ra tình trạng lãng phí, tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật. 

Bộ Y tế: Tăng cường phòng chống tham nhũng trong đấu thầu, mua sắm sinh phẩm, vật tư, trang thiết bị y tế - Ảnh 1.

Bộ Y tế đề nghị các địa phương xem xét bổ sung vào Kế hoạch thanh tra năm 2022 có nội dung thanh tra về công tác đấu thầu, mua sắm thuốc, sinh phẩm, vật tư, trang thiết bị y tế. Ảnh: minh hoạ

Ngày 11/10/2021, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 128/NQ-CP quy định tạm thời thích ứng an toàn, linh hoạt, kiếm soát hiệu quả dịch COVID-19, trong đó yêu cầu UBND các tỉnh thành phố chỉ đạo việc tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch COVID-19 và phục hồi phát triển kinh tế với tinh thần chủ động, sáng tạo, bám sát thực tiễn, không chủ quan khi dịch đi qua; đảm bảo phương châm "bốn tại chỗ"; thực hiện việc mua sắm để phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19 đúng quy định, đảm bảo công khai, minh bạch, chặt chẽ, phòng, chống tiêu cực, lãng phí, tham nhũng. 

Để tăng cường các biện pháp phòng, chống tham nhũng trong đấu thầu, mua sắm thuốc, sinh phẩm, vật tư, trang thiết bị y tế, thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả, khoa học, tránh lãng phí, thất thoát, tiêu cực, Bộ Y tế trân trọng đề nghị đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, Thành ủy và đồng chí Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố chỉ đạo các đơn vị có liên quan thực hiện tốt các nội dung:

 Quán triệt sâu sắc các văn bản chỉ đạo của Nhà nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch COVID-19 và của Bộ Y tế về công tác đấu thầu, mua sắm thuốc, sinh phẩm, vật tư, trang thiết bị y tế, tuyệt đối không để xảy ra tình trạng lãng phí, tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm và kiên quyết xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm. 

Chỉ đạo Sở Y tế chủ trì, phối hợp với các đơn vị có liên quan rà soát lại kế hoạch mua sắm đảm bảo đủ số lượng, đúng chủng loại phù hợp với tình hình mới; thực hiện công tác đấu thầu, mua sắm thuốc, sinh phẩm, vật tư, trang thiết bị y tế, đặc biệt là các mặt hàng phục vụ cho công tác phòng, chống dịch đúng quy định, đảm bảo công khai, minh bạch trong đấu thầu, mua sắm. 

Căn cứ Kế hoạch thanh tra 2022 của tỉnh, thành phố, xem xét bổ sung vào Kế hoạch thanh tra năm 2022 của địa phương có nội dung thanh tra về công tác đấu thầu, mua sắm thuốc, sinh phẩm, vật tư, trang thiết bị y tế; đồng thời tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát định kỳ, đột xuất đối với các đơn vị thuộc thẩm quyền quản lý, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, xử lý các hành vi vi phạm hoặc chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra để xử lý theo quy định của pháp luật.

Bộ Y tế nêu rõ, Trong quá trình thực hiện, nếu có khó khăn, vướng mắc đề nghị UBND các tỉnh, thành phố nghiên cứu, đề xuất hoặc trao đổi với Bộ Y tế hoặc các Bộ quản lý chuyên ngành để phối hợp giải quyết.

Trong thời gian qua, Bộ Y tế đã liên tục có các văn bản gửi các lãnh đạo Tỉnh uỷ, UBND các tỉnh, thành phố; Sở Y tế các tỉnh, thành phố về việc phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm trong thực hiện các biện pháp phòng chống dịch COVID-19; Tăng cường kiểm tra việc nhập khẩu, kinh doanh, mua sắm các loại test kit xét nghiệm nhanh và xét nghiệm RT-PCR.

Đồng thời, Bộ Y tế cũng đã có các công văn gửi các đơn vị sản xuất, nhập khẩu và cung ứng trang thiết bị y tế nghiêm cấm việc tăng giá tùy tiện hoặc đầu cơ, tích trữ; Nghiêm túc thực hiện việc cập nhật, rà soát, công khai minh bạch về giá trang thiết bị y tế trên Cổng điện tử công khai giá trang thiết bị y tế. Chịu trách nhiệm về giá công bố và tính chính xác và đầy đủ các thông tin liên quan đến hàng hóa theo quy định.

Nâng cao chất lượng đầu vào trong các trường quân đội

 

         Nâng cao chất lượng đầu vào trong các trường quân đội

Thứ năm, 14/01/2021 17:01
(ĐCSVN) – Năm 2021, các học viện nhà trường cần chủ động in ấn tài liệu, thực hiện tuyên truyền tuyển sinh, chú trọng đối tượng học sinh giỏi, trường chuyên lớp chọn để nâng cao chất lượng đầu vào trong quân đội.

Ngày 14/1, Ban Tuyển sinh quân sự Bộ Quốc phòng (TSQS BQP) tổ chức Hội nghị tổng kết công tác tuyển sinh quân sự năm 2020 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2021. Trung tướng Ngô Minh Tiến, Phó tổng Tham mưu trưởng, Phó trưởng Ban Tuyển sinh quân sự chủ trì Hội nghị.

Trung tướng Ngô Minh Tiến phát biểu tại Hội nghị. 

Năm 2020, công tác TSQS được các cơ quan, đơn vị và các trường chủ động, tích cực trong tổ chức triển khai thực hiện công tác tuyển sinh; tổ chức sơ tuyển đúng thời gian quy định, xây dựng hồ sơ chặt chẽ. Các đơn vị được Bộ Giáo dục và Đào tạo giao tham gia công tác thanh tra Kỳ thi tốt nghiệp THPT thực hiện nghiêm túc đúng quy chế của Nhà nước và quy định của Bộ Quốc phòng. Tổ chức tiếp nhận hồ sơ xét tuyển và xét tuyển đại học, cao đẳng (ĐH,CĐ) chặt chẽ, nghiêm túc, đúng quy chế, không sai sót; tổ chức tuyển sinh các loại hình còn lại đúng quy chế, đúng thời gian quy định. Kết quả, có 24.818 hồ sơ đăng ký sơ tuyển, tuyển sinh ĐH, CĐ quân sự; có 4 trường có thí sinh đạt giải học sinh giỏi quốc gia, đạt giải Khoa học kỹ thuật quốc gia đăng ký xét tuyển thẳng; các trường ĐH quân sự đã tuyển được 5.267 thí sinh (đạt 99,57%), trường CĐ đạt 95,83%, theo phương thức xét tuyển từ kết quả Kỳ thi tốt nghiệp THPT và xét tuyển thí sinh đạt học sinh giỏi cấp tỉnh, thành phố. Thí sinh nữ trúng tuyển vào đào tạo đại học quân sự tương đương so với năm 2019; thí sinh là người dân tộc thiểu số trúng tuyển tăng 310 so với năm trước. Các trường có kết quả tuyển sinh cao hơn năm 2019 cả về số lượng thí sinh đăng ký sơ tuyển, xét tuyển và điểm chuẩn như: Học viện Kỹ thuật Quân sự, Học viện Quân y, Học viện Biên phòng, Học viện Hậu cần, Trường Sĩ quan Chính trị...

Tại Hội nghị, các đại biểu đã chỉ ra những hạn chế, thiếu sót cần rút kinh nghiệm trong công tác TSQS; đồng thời nêu ra những giải pháp nâng cao chất lượng hướng nghiệp, khám sơ tuyển, công tác đăng ký dự tuyển, xét tuyển và khám sức khỏe nhập học. Để tiếp tục duy trì ổn định công tác tuyển sinh theo các quy chế đã ban hành, năm 2021, Ban TSQS BQP sẽ tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền hướng nghiệp TSQS; triển khai và tổ chức chặt chẽ công tác sơ tuyển, xét tuyển, khám sức khỏe thí sinh trúng tuyển nhập học, công tác hậu kiểm...

Phát biểu tại Hội nghị, Trung tướng Ngô Minh Tiến ghi nhận, biểu dương và đánh giá cao những kết quả đạt được trong công tác TSQS năm 2020; Trung tướng nhấn mạnh, các tỉnh thành phố có số lượng thí sinh trúng tuyển các nhà trường quân đội năm 2020 chưa cao cần nghiêm túc tìm hiểu nguyên nhân, học hỏi kinh nghiệm, cách làm của các tỉnh có số lượng thí sinh trúng tuyển cao, để khắc phục trong các năm tiếp theo. Ban TSQS các cấp chủ động phối hợp với các địa phương, các nhà trường THPT tuyên truyền tuyển sinh hướng nghiệp, đặc biệt là ở phía Nam và địa bàn vùng sâu, vùng xa. Các học viện nhà trường cần chủ động in ấn tài liệu, thực hiện tuyên truyền tuyển sinh, chú trọng đối tượng học sinh giỏi, trường chuyên lớp chọn để nâng cao chất lượng đầu vào trong quân đội. Công tác sơ tuyển phải toàn diện cả về phẩm chất chính trị, sức khỏe, trình độ của học viên. Quy trình xét duyệt hồ sơ chính xác, tránh bất cứ sơ suất, sai sót nào. Tổ chức tập huấn cán bộ tuyển sinh, đặc biệt là cán bộ quân y chặt chẽ, để đảm bảo công tác sơ tuyển, khám sức khoẻ đúng quy định. Về xét tuyển thẳng với thí sinh giỏi quốc gia, đạt giải thưởng học sinh giỏi các cấp, có chứng chỉ ngoại ngữ quốc tế, các nhà trường cần tìm giải pháp để thu hút ngày càng nhiều hơn đối tượng thí sinh có trình độ cao./.

Tin, ảnh: Hồng Pha
  Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình
Xác thực

Nêu cao tinh thần trách nhiệm cán bộ, đảng viên, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực trong tình hình hiện nay

Cấp ủy, tổ chức Đảng, người đứng đầu cấp ủy, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải chấp hành, thực hiện nghiêm các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực thời gian qua đã góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hiệu quả chưa cao; công tác tuyên truyền, giáo dục, xây dựng văn hóa tiết kiệm, không tham nhũng, lãng phí chưa được quan tâm đúng mức. Cơ chế, chính sách, pháp luật trên nhiều lĩnh vực vẫn còn sơ hở, bất cập, chưa ngăn chặn hiệu quả tham nhũng, lãng phí. Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí còn nhiều hạn chế, lãng phí trong cơ quan nhà nước và trong xã hội còn rất nghiêm trọng. Tình trạng cán bộ nhũng nhiễu, tiêu cực, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp chưa được ngăn chặn kịp thời. Vẫn còn xảy ra những vụ, việc tham nhũng nghiêm trọng, có tổ chức, rất tinh vi, phức tạp gây bức xúc trong dư luận. Để tiếp tục đẩy mạnh, kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực theo nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Bộ Chính trị yêu cầu cấp ủy, tổ chức Đảng, nhất là người đứng đầu tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp theo Kết luận 10; gắn bó chặt chẽ phòng, chống tham nhũng với phòng, chống tiêu cực; tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ đó là: - Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, kiên quyết, kiên trì xây dựng văn hóa tiết kiệm, không tham nhũng, tiêu cực trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân. Cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý phải chấp hành, thực hiện nghiêm các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; thực hiện tốt quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp, trọng liêm sỉ, danh dự; phê phán, lên án, tích cực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. - Khẩn trương rà soát, bổ sung, hoàn thiện thể chế phòng ngừa tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực trong các lĩnh vực, hoạt động dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực; trách nhiệm người đứng đầu, trách nhiệm giải trình, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch; các quy định và chế tài xử lý đối với tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; cơ chế bảo vệ, khuyến khích người dân phản ánh, tố giác cán bộ, đảng viên tham nhũng, tiêu cực; cơ chế kiểm soát có hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý; thực hiện chế độ thanh toán không dùng tiền mặt. - Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán; đẩy mạnh điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các vụ việc, vụ án tham nhũng, tiêu cực. Tập trung kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán ở những lĩnh vực, địa bàn, vị trí công tác dễ xảy ra tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, nơi có nhiều tố cáo, khiếu nại, dư luận xã hội quan tâm, bức xúc. - Phát huy hơn nữa vai trò của cơ quan, đại biểu dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí và nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Hoàn thiện cơ chế giám sát của cơ quan, đại biểu dân cử, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể và nhân dân đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. - Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động, bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện và kinh phí phù hợp với hoạt động đặc thù của các cơ quan phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; tăng cường kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong chính các cơ quan này.

LỰC LƯỢNG BỘ ĐỘI TRƯỜNG SƠN TRONG ĐẠI THẮNG XUÂN 1975 VÀ CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH

 

Như chúng ta đã biết từ 17 giờ ngày 26/4/1975 trận tổng công kích vào Sài Gòn - Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử bắt đầu. Quân đội ta đã dũng mãnh tấn công Sài Gòn từ 5 hướng. Tham gia Chiến dịch lịch sử này có Quân đoàn 1, 2, 3, 4 và Đoàn 232 (tương đương Quân đoàn). Lực lượng gồm 17 sư đoàn chủ lực (F320B, F390, F367 phòng không, F325, F304, F673 phòng không, F3, F316, F320A, F10, F6, F7, F341, F5, F9, F8, F Phước Long mới thành lập) cùng 24 trung đoàn, 6 lữ đoàn binh chủng và một số tiểu đoàn binh chủng trực thuộc các cánh quân. Tổng lực lượng là 190.627 người.

Trong khi đó quân ngụy Sài Gòn ở dinh lũy cuối cùng ở Sài Gòn, lực lượng có 245.000 quân, với 406 khẩu pháo, 624 xe tăng, xe bọc thép, 800 máy bay các loại, 852 tàu, thuyền chiến đấu. (Lực lượng ở khu vực Cần Thơ, địch có 175.000 quân với 493 xe tăng, xe bọc thép; 366 pháo, 409 máy bay, 579 tàu thuyền).

Bộ đội Trường Sơn đã huy động lực lượng bao gồm:

- Sư đoàn ô tô 571 cơ động Quân đoàn 1 và Quân đoàn 2, với hơn 1.800 chiến xa. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh xe của Sư đoàn 571 cơ động lực lượng bộ binh của Quân đoàn 2 đi sau xe tăng, xe thiết giáp tấn công theo hướng Quốc lộ 1 – xa lộ Biên Hòa – Sài Gòn qua cầu Thị Nghè chọc thẳng và Dinh Độc Lập.

- Sư đoàn ô tô 471 với hơn 1.600 xe được huy động cơ động Quân đoàn 3 từ Tây Nguyên vào tham gia chiến dịch. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Sư đoàn 471 cơ động lực lượng của Quân đoàn 1 tiến đánh theo hai trục: trục thứ nhất từ Tân Uyên đánh vào thành phố. Trục thứ hai: Đánh chiến Bến Cát, vượt cầu sông Bé tiến vào nội đô Sài Gòn.  Cơ động Quân đoàn 3 tiến đánh Đồng dù, Củ Chi, Hóc Môn và nhanh chóng làm chủ sân bay Tân Sơn Nhất.

- Sư đoàn phòng không 377 Trường Sơn có nhiệm vụ bảo vệ đội hình tấn công của Quân đoàn 1 và Quân đoàn 3. Hai trung đoàn 528 và 527 trưc thuộc Bộ Tư lệnh Trường Sơn được lệnh bảo vệ Cam Ranh và Nha Trang, bảo vệ cánh quân Duyên Hải.

- Sư đoàn quân tình nguyện 968 được Bộ phân công đánh nghi binh đánh địch ở Kon Tum. Buôn Ma Thuột được giải phóng, Sư đoàn 968 được xe của Sư đoàn 471 cơ động đánh địch tháo chạy trên đường số 7 và thẳng xuống giải phóng Tuy Hòa, Nha Trang, Khánh Hòa…

- Sư đoàn công binh 470 Trường Sơn sau khi tham gia giải phóng Buôn Mê Thuột đã được giao nhiệm vụ bảo đảm giao thông từ Buôn Ma Thuột đến Đồng Xoài bảo đảm cầu đường cho cơ động các quân đoàn chủ lực và các đơn vị binh khí kỹ thuật vào tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh.

- Sư đoàn công binh 472 Trường Sơn bảo đảm giao thông từ Kon Tum đến Buôn Ma Thuột, trên đường 19, từ Playcu đi Qui Nhơn, Quốc lộ 1 từ Nha Trang đến Phan Rang, bảo đảm cơ động cho cánh quân của Quân đoàn 2.

- Sư đoàn công binh 473 Trường Sơn được giao nhiệm vụ bảo đảm giao thông quốc lộ 19 và quốc lộ 21, phục vụ chiến dịch.

- Trung đoàn cầu 99 cùng với lực lượng của các Sư đoàn công binh Trường Sơn đã làm mới 96 cầu với chiều dài 3.300 mét, sửa chữa hàng trăm cây cầu bị địch phá hỏng, bảo đảm cầu đường thông suốt trên quốc lộ 1, quốc lộ 14, 19, 21.

- 2 Trung đoàn giao liên cơ giới 572 và 573 được phân công chở quân chủ lực tăng cường cho các hướng chiến dịch.

- Trung đoàn kho 541 Trường Sơn được phân công tiếp quản nhiều kho tàng của địch ở Huế, Đà Năng và Nha Trang…

- Bộ đội Đường ống Xăng dầu Trường Sơn tổ chức 8 điểm cấp phát tại tuyến Đông Trường Sơn; 6 điểm cấp phát xăng dầu ở Tây Trường Sơn và 7 điểm cấp phát xăng dầu từ ngã ba biên giới vào Nam Bộ trong suốt thời gian trước và trong Chiến dich. Các điểm cấp phát bảo đảm khoảng cách từ 100 đến 140 km có một điểm cấp phát xăng dầu.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, Bộ đội Xăng dầu Trường Sơn đã cấp 4.100 tấn xăng dầu cho hàng ngàn xe cơ giới các loại, bảo đảm mọi lực lượng tham gia Chiến dịch có đầy đủ xăng dầu tham gia chiến đấu.

Nguồn: Phạm Thành Long

(Theo Lịch sử Đoàn 559 – Bộ đội Trường Sơn)

61 NĂM ĐÃ ĐI QUA. NHƯNG VẪN CÒN ĐÓ NHỮNG NỖI ĐAU DA CAM

 

Cuộc chiến tranh của đế quốc Mỹ ở Việt Nam chấm dứt đã hơn bốn mươi sáu năm, nhưng những hậu quả của nó vẫn hằn sâu và nhức nhối. Trong đó, "nỗi đau da cam/dioxin" hằng ngày vẫn hành hạ và dày vò nhiều gia đình Việt Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Ngày 10/8/1961, quân đội Mỹ rải những lít chất độc đầu tiên xuống miền Nam Việt Nam, mở đầu cuộc chiến tranh hoá học tàn bạo kéo dài 10 năm trong cuộc xâm lược Việt Nam. Theo số liệu của Bộ Quốc phòng Mỹ từ năm 1961 đến năm 1971, quân đội Mỹ đã rải xuống miền Nam Việt Nam, một phần lãnh thổ của Lào và Campuchia 72 triệu lít chất độc hóa học, trong đó có 44 triệu lít chất da cam chứa 170kg dioxin, một chất độc cực kỳ độc hại đã gây ra nhiều loại bệnh như ung thư, suy nhược thần kinh, suy giảm hệ thống miễn dịch, tai biến sinh sản và dị tật bẩm sinh…

Có tới hơn 26 ngàn thôn ấp ở miền Nam Việt Nam bị phun rải và có hơn 3 ngàn thôn ấp bị ảnh hưởng trực tiếp với số dân từ 2,1 đến 4,8 triệu người. Hiện nay, trên cả nước Việt Nam có khoảng hơn 150 ngàn trẻ em bị di tật bẩm sinh với các căn bệnh như liệt, chậm phát triển trí tuệ, mù, câm, điếc và các lại dị tật khác. Gia đình và bản thân các em đang phải sống trong hoàn cảnh hết khó khăn, đau khổ và lo lắng về cả vật chất lẫn tinh thần, cả về thể xác lẫn tâm hồn và cả về nhà cửa lẫn thức ăn thuốc men hàng ngày. Và cũng không biết tới bao giờ những người cha, người mẹ của những đứa con ấy mới được nghỉ ngơi khi trong họ luôn đăm đắm trong lòng một nỗi lo nếu chẳng may họ qua đời thì ai sẽ là người chăm sóc, trông nom họ.

Đúng như nhiều nhà nghiên cứu đã cho biết rằng cuộc chiến tranh ở Việt Nam do Mỹ gây ra là một trong những cuộc chiến tranh thảm khốc nhất trong lịch sử nhân loại và hậu quả của nó còn ảnh hưởng nặng nề đến nhiều thế hệ mà nghiêm trọng nhất là tác hại của chất độc da cam hay còn gọi là dioxin. Tiếng súng chiến tranh đã tắt sau hơn 47 năm, tuy nhiên sự đau khổ tột cùng và dòng nước mắt vẫn tuôn rơi trong các gia đình là nạn nhân của loại chất độc hủy diệt này.

Đã hơn nửa thế kỷ kể từ ngày đế quốc Mỹ sử dụng chất độc dioxin trên chiến trường Việt Nam để phục vụ cuộc chiến tranh phi nghĩa nhưng nỗi đau thì vẫn còn đó.

“Em có mắt nhưng không thể ngắm nhìn,

có đôi môi xinh nhưng không thể cười nói,

có đôi tay nhưng không thể nâng niu,

có đôi chân nhưng không thể bước,

có trái tim nhưng chẳng biết buồn vui…”, đó là hình ảnh của những nạn nhân chất độc da cam mang theo nỗi đau quằn quại về thể xác và sự trống rỗng trong tâm hồn. Để rồi, giờ đây, việc xoa dịu nỗi đau da cam không còn là trách nhiệm của riêng cá nhân, tổ chức nào mà đó là trách nhiệm chung của toàn xã hội; để rồi chúng ta sẽ biết trân trọng và sống ý nghĩa hơn trong cuộc đời này.

61 năm trôi qua sau cuộc kháng chiến chống Mỹ, cuộc sống của người dân Việt Nam đang thay da đổi thịt từng ngày, từng giờ, đất nước ngày càng ổn định, phát triển và khẳng định được vị thế trên trường quốc tế. Nhiều ngôi nhà cao chọc trời đã mọc lên, nhiều công trình đã và đang được xây dựng, những nam thanh, nữ tú vui vẻ cắp sách tới giảng đường, người nông dân vui mừng với mùa màng bội thu. Nhưng đâu đó sau những ngôi nhà cao đồ sộ hay những lũy tre làng xanh ngắt, những cánh đồng bát ngát vẫn còn biết bao người lính Việt Nam cũng như gia đình họ đang phải âm thầm chịu đựng những mất mát, những di chứng của cuộc chiến tranh “hóa học” mà đế quốc Mỹ đã gây ra.

Những năm qua, dù Đảng, Nhà nước, các cấp, ngành luôn có sự quan tâm ân cần, thiết thực đến những nạn nhân bị nhiễm thứ chất độc quái ác này. Ngày 10/8 hàng năm cũng là dịp để mọi người trong xã hội chung tay hành động vì những nạn nhân chất độc Da cam/dioxin, để xoa dịu phần nào nỗi đau lớn lao trong mỗi gia đình. Tuy nhiên, nỗi đau mang tên chất độc Da cam/dioxin và những di chứng dai dẳng của nó từ bao lâu nay vẫn là điều nhức nhối. Thế nên mới hiểu được sự hy sinh, mất mát cũng như lòng dũng cảm, anh dũng chiến đấu với kẻ thù xâm lược của các những thế hệ cha anh đi trước để nhân dân Việt Nam có được cuộc sống hòa bình, phát triển như ngày nay.

Thiết nghĩ rằng, mỗi con người Việt Nam và đặc biệt là thế hệ trẻ thanh thiếu niên Việt Nam – những người sinh ra khi đất nước đã hoàn toàn giải phóng và thống nhất hôm nay hãy cùng nhau chung tay bảo vệ và xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng giàu đẹp và phát triển. Cùng với đó, hãy cùng nhau chung tay giúp đỡ gia đình và các nạn nhân là di chứng của loại chất độc nguy hiểm này bằng cả vật chất và tinh thần, bằng cả hành động và lời nói để giúp họ vươn lên trong cuộc sống và làm vơi đi nỗi đau, mất mát mà họ phải trải qua, đó là trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam, của cả cộng đồng và cả nhân loại.

 

 

 

 

 

 

 

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA, NGÀY 10/8:

 

“Đồng bào lương và giáo hãy đoàn kết chặt chẽ, giúp đỡ lẫn nhau”.

Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Điện gửi đồng bào xã Đoài”, Báo Nhân dân đăng số 5233, ngày 10 tháng 8 năm 1968.

Đây là giai đoạn đế quốc Mỹ dùng không quân, hải quân bắn phá miền Bắc để cắt đường tiếp tế của hậu phương cho chiến trường miền Nam, chúng đã tàn phá nhiều thành phố, làng quê; ngày 21 tháng 7 năm 1968 máy bay Mỹ bắn phá xã Đoài, tỉnh Nghệ An làm 02 giám mục, 03 linh mục bị thương; một số tu sĩ, đồng bào giáo và lương bị thương và tử vong, nhà thờ bị hư hỏng, hàng trăm nhà dân bị tàn phá. Biết tin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Điện thăm hỏi, động viên nhân dân xã Đoài, tỉnh Nghệ An; trong Điện Bác kêu gọi: “Đồng bào lương và giáo hãy đoàn kết chặt chẽ, giúp đỡ lẫn nhau”.

Việt Nam là đất nước đa dân tộc, tôn giáo, trong quá trình lãnh đạo đất nước Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc xây dựng khối đoàn kết chặt chẽ giữa các tôn giáo, các dân tộc trong khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân với chính sách tôn giáo nhất quán: “Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân”; công dân có tín ngưỡng, tôn giáo hay không có tín ngưỡng, tôn giáo đều là công dân Việt Nam, có quyền và nghĩa vụ như nhau. Đoàn kết lương – giáo là đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo; đoàn kết giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thực hiện chức năng đội quân công tác, cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn quán triệt và thực hiện nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về công tác dân vận, nhất là trên các địa bàn có đồng bào theo đạo, tham gia xây dựng hệ thống chính trị, tăng cường quốc phòng – an ninh, phát triển kinh tế – xã hội; giúp dân xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Đồng thời, chủ động tuyên truyền, nâng cao ý thức cảnh giác cho các tầng lớp nhân dân, đấu tranh có hiệu quả với mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, nhất là những luận điệu xuyên tạc, mua chuộc, lôi kéo, xúi giục các chức sắc tôn giáo có quan điểm tiêu cực để kích động quần chúng nhân dân tụ tập đông người, biểu tình bất hợp pháp, bạo động… gây mất đoàn kết giữa đồng bào lương – giáo trên địa bàn, củng cố đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo và tình hữu nghị với các nước láng giềng, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

 

10 NĂM CHỊU TIẾNG OAN CỦA NGƯỜI VỢ BIỆT ĐỘNG SÀI GÒN

 

Là vợ chính thức nhưng để tạo vỏ bọc cho chồng là chiến sĩ biệt động Sài Gòn hoạt động, bà Đặng Thị Thiệp chịu mang tiếng "gái trẻ giật chồng người" suốt 10 năm.

Bà Thiệp (tên thật là Đặng Thị Tuyết Mai) sinh năm 1944 trong một gia đình "cộng sản nòi". Cha của bà từng là trưởng ty công an tỉnh Quảng Ngãi. Năm bà 11 tuổi được cha dự định đưa ra Bắc tập kết nhưng đến vĩ tuyến 17, phần vì tàu quá đông, phần vì tin rằng hai năm sau sẽ tổng tuyển cử, thống nhất nước nhà, bà và một số người họ hàng ở lại.

Chiến tranh ập đến, cô gái mới lớn Đặng Thị Thiệp phiêu dạt lên Đà Lạt, ban ngày học nghề đan len, ban đêm học chữ. Ít lâu sau, bà được đưa về chiến khu, dự kiến ra Bắc để đi học. Ở đó, bà gặp chiến sĩ biệt động Trần Văn Lai (tự Mai Hồng Quế, bí danh Năm U.Som). Ông Lai xin cấp trên cho cô Thiệp về Sài Gòn học vì thuận tiện hơn là mạo hiểm vượt Trường Sơn ra miền bắc.

Năm 1965, bà Thiệp theo ông Lai về thành phố. Theo yêu cầu của tổ chức, ông phải tìm căn nhà thuận tiện cho việc đào hầm chứa vũ khí chuẩn bị cho một trận đánh lớn.

Dưới vỏ bọc nhà thầu khoán giàu có, đảm nhiệm việc làm nội thất cho Dinh Độc Lập, ông Lai chở bà đi xem và mua rất nhiều nhà. Căn nhà số 287/68-70-72 Nguyễn Đình Chiểu (nay là đường Trần Quý Cáp, quận 3) là nơi được lựa chọn. Lần đầu nghe ông nói chuyện với chủ nhà, lấy lý do "mua nhà cho vợ bé" rồi chỉ vào mình, bà Thiệp giật mình nhưng không dám phản đối vì hiểu, ông cần bà đóng giả để hợp thức hoá chuyện mua nhà cũng như hỗ trợ hoạt động cách mạng. Hai người sống cùng nhau sẽ ít bị soi mói, ông dễ dàng đào hầm và vận chuyển vũ khí về cất giấu.

Mua nhà và đào hầm xong, hai người thay phiên nhau canh gác để bảo vệ căn cứ. Hơn hai năm, đêm đến ông bà hầu như không ngủ vì sợ bị theo dõi. Cùng hoạt động, đồng cam cộng khổ, tình cảm của bà Thiệp với người chiến sĩ biệt động dần nảy nở. Bà gọi đó là duyên nợ.

Tháng 5/1966, tổ chức chấp thuận cho ông Lai và bà Thiệp kết hôn và hoạt động đơn tuyến ở Sài Gòn.

Hai đứa con lần lượt ra đời. Để tiếp tục đóng vai vợ bé của nhà thầu khoán, trong giấy khai sinh của con, bà Thiệp đều để trống phần tên cha. Thậm chí khi con tập nói, bà cũng dạy con kêu ông Lai bằng bác.

Dù chính thức là vợ ông Trần Văn Lai, trong mắt hàng xóm bà là "con giúp việc dụ dỗ ông chủ" hay "gái trẻ giật chồng người". Hàng xóm xung quanh nhìn bà bằng con mắt khinh bỉ. Người ta dùng những từ tồi tệ nhất để chửi rủa, miệt thị bà. Nhiều lần bà bị những vợ sĩ quan lính Việt Nam Cộng hoà đánh chửi, giật mất tài sản với lý do "mày giựt chồng người ta được thì tao giựt đồ của mày được".

"Lúc đó tôi phải tự nhủ, làm bé là dưới mắt người đời thôi. Họ ghét là mình đang diễn tròn vai, chồng mình sẽ an toàn, cơ sở cách mạng sẽ được bảo vệ", bà Thiệp nói.

Anh Trần Vũ Bình (người con thứ ba) kể, có lần tức tối vì bị trẻ con hàng xóm chửi là con hoang, mẹ là vợ bé, mấy anh chị em định trả đũa thì bị bà Thiệp phát hiện, đánh "nát mông". "Sau này, tôi mới hiểu những lần đứng lặng ở góc nhà nhìn chị em chúng tôi tức tối, bà là người đau nhất. Bà chịu mọi thiệt thòi vì mục đích bảo vệ chồng con, bảo vệ bí mật kháng chiến", anh Bình tâm sự.

Tối mùng 1 Tết Mậu Thân 1968, biết sắp có cuộc tấn công vào Dinh Độc Lập và Bộ Tổng tham mưu của địch, ông Lai bắt bà và các con nằm rạp dưới nền nhà, dù bất cứ chuyện gì xảy ra cũng không được chạy ra ngoài, đề phòng đạn lạc. Khoảnh khắc nhìn ông Lai đánh hai chiếc xe ôtô chở đầy vũ khí đi, bà nghẹt thở vì biết rất có thể ông sẽ không bao giờ trở về.

Cả đêm không ngủ, đôi mắt bà Thiệp cứ ngóng mãi ra phía trước cửa nhà, hy vọng nghe được tiếng chồng mở cửa. Nhận được tin nhiều đồng đội của ông hy sinh, bà lật đật lên bàn thờ người vợ cũ của ông thắp nhang khấn vái. Bà tin, ở một nơi xa xôi nào đó, người phụ nữ quá cố ấy cũng đang cùng bà đợi ông về.

Ba ngày trôi qua, chủ tiệm tạp hoá gần nhà báo tin có người gọi điện, nhắn bà sang nghe. "Con có ốm không?", ông Lai ở đầu dây bên kia hỏi. "Con không ốm!", bà trả lời theo đúng quy ước của hai người. Con không ốm nghĩa là gia đình vẫn bình an, cơ sở chưa bị vỡ. Nhưng ông Lai vẫn bị lộ bởi hai chiếc xe ôtô ông hay đi bị phát hiện nằm ở hiện trường trận đánh Dinh Độc Lập. Ông bị truy nã nên phải lui vào hoạt động bí mật, tá túc ở nhà người quen, thỉnh thoảng mới tạt về nhà.

Trong một lần sang Campuchia để cố tìm cách kết nối lại với tổ chức, ông Lai bị ngã nước, thập tử nhất sinh. Bà Thiệp tìm thuốc, chạy chữa khắp nơi nhưng ông ngày một yếu dần. "Ổng dặn tôi mua cái bao đựng xác của lính Mỹ, lỡ ổng chết thì cho vào bao đưa xuống hầm rồi đổ đất lên, đợi ngày giải phóng thì báo với tổ chức", bà kể. Nhưng may mắn đã đến, bà được mách một thầy thuốc Nam nổi tiếng ở Chợ Lớn nên vét hết tiền bạc trong nhà, tìm đến mua cho ông 30 thang thuốc. Ông Lai được cứu sống.

Những năm tháng sau đó, bà phải tự mình kiếm tiền nuôi con, nuôi chồng và tiếp tế cho chiến khu. Bất cứ khi nào đơn vị cần hỗ trợ tiền bạc, người phụ nữ ấy luôn thay chồng đem đến tận nơi.

Đại tá Trần Minh Sơn, nguyên phó tư lệnh Bộ Chỉ huy quân khu Sài Gòn - Gia Định, kiêm tham mưu trưởng Biệt động Sài Gòn xác nhận: "Sau Mậu Thân, ông Trần Văn Lai phải hoạt động bí mật. Một tay bà Mai (tức bà Thiệp) làm lụng, gửi tiền, thuốc men ra cho chiến khu".

Năm 1970 và 1974, người chiến sĩ biệt động Trần Văn Lai hai lần bị địch bắt giam ở Quảng Ngãi. Bà Thiệp gửi con cho hàng xóm, vay mượn, nhặt nhạnh từng đồng bạc để chuộc ông về. "Tôi tự nhủ mình phải mạnh mẽ không chỉ vì mình là mẹ, mà mình có thể phải gánh vác cả trách nhiệm của một người cha bất cứ lúc nào", bà nhớ lại.

Ngày 30/4/1975, trong dòng người hò reo mừng chiến thắng, bà Thiệp đứng lặng một góc. "Lúc đó tôi chỉ muốn hét lên thật to: Tôi không phải vợ bé, tôi không giật chồng", bà kể. Với mọi người, niềm vui của ngày 30/4 là ngày kết thúc chiến tranh, là ngày thống nhất hay đoàn tụ nhưng với bà đó còn là ngày bà được cởi bỏ cái mác "vợ bé" sau gần 10 năm ròng hàm oan.

Cuộc sống sau năm 1975 vô cùng khó khăn, gánh nặng kinh tế đổ dồn trên đôi vai người vợ. Bà lao vào kiếm tiền, học người ta xay rau má bán, bán than, nuôi heo... miễn sao các con được đến trường học chữ.

Thời chiến, người phụ nữ hy sinh ước mơ đi học để cùng chồng phụng sự cách mạng. Lúc hoà bình, bà lại gác lại việc học để lo cho các con. Bà kể: "Giải phóng xong, tôi 31 tuổi, vẫn có thể xin đi học để thoả ước mơ ngày trẻ. Nhưng mình làm mẹ, chỉ nghĩ cho mình thì ai kiếm tiền để nuôi con. Tôi chọn để con được đến trường, có kiến thức, sau này giúp ích cho xã hội". Dưới sự gồng gánh của bà, 6 người con đều tốt nghiệp đại học và thành công trên nhiều lĩnh vực.

"Có một điều mẹ tôi dặn dò mãi, là cán bộ tuyệt đối không được lấy một đồng của nhân dân. Bà bảo, cuộc đời mẹ chỉ mong các con có được hai thứ là chữ nghĩa, hiểu biết và đạo đức trong sạch, điều mà mẹ và ba tôi dành cả cuộc đời để giữ gìn", anh Bình tâm sự.

Năm 2015, bà Thiệp từ chối làm giấy tờ để đề nghị phong tặng Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. "Tôi và chồng cũng như các đồng đội ngày xưa chiến đấu vì mong muốn đất nước được thống nhất, không phải vì bất cứ danh hiệu nào cả. Tôi mãn nguyện khi các con cháu đều hiểu và trân quý sự hy sinh của cha ông. Vậy là đủ", bà Thiệp nói.

Chiều ngày cuối tháng 4, đốt nén nhang cắm lên bàn thờ chồng và người vợ đầu của ông, bà Thiệp đứng lặng hồi lâu, mắt đỏ hoe: "Chỉ những ai đã từng sống trong thời chiến mới hiểu được giá trị của hoà bình. Cái giá của hòa bình vô cùng đắt, phải đánh đổi bằng máu xương và khổ đau của rất nhiều người".

Nguồn VNE/ĐT-QP

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

"ĐÁNH TAN GIẶC MỸ, CON LẠI VỀ BÁCH KHOA”

           Hằng năm, cứ đến dịp Quốc khánh 2-9, người dân thị xã Quảng Trị lại thấy một ông già gầy gò mang theo những bông hoa tươi, đứng trầm ngâm trên bến sông Thạch Hãn như hóa đá rất lâu, rất lâu. Rồi miệng ông mấp máy câu gì đó và từ từ, nhẹ nhàng thả xuống dòng sông từng bông, từng bông hoa…

Khi tôi viết những dòng này, ông đã về với tiên tổ, nhưng trước khi ra đi, ông đã làm được một việc mà không phải ai cũng làm được. Đó là tìm kiếm và lưu giữ những di vật, ghi chép cẩn thận như một bộ “sưu tập mi-ni” về người con trai yêu quý của mình-liệt sĩ Lê Văn Ninh, người đã ngã xuống chiến trường Thành cổ Quảng Trị đúng vào ngày 2-9-1972. Ông là Lê Văn Lâm, sinh năm 1923, quê ở xã Nghi Long (huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An), nguyên là phóng viên, biên tập viên của Thông tấn xã Việt Nam.

Trước khi qua đời, ông đã đem một số di vật của liệt sĩ Lê Văn Ninh trao tặng Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam. Ông kể: Ngày 1-9-1971, Lê Văn Ninh đang là sinh viên Khoa Hóa, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội thì nhận giấy gọi lên đường nhập ngũ. Trước khi vào chiến trường, Ninh đã gửi cha giữ hộ những kỷ vật của thời học trò và nói sẽ nhận lại sau ngày chiến thắng với tâm niệm “đánh tan giặc Mỹ, lại về Bách khoa”.

Trên đường vào chiến trường, Ninh đã gửi 11 bức thư về cho gia đình. Lá thư ngày 25-5-1972, anh viết trên đường hành quân: “Máy bay địch đánh phá suốt ngày. Con không hề nao núng. Sức khỏe của con vẫn tốt, vẫn dẻo dai. Tinh thần và nghị lực cao. Càng vất vả gian lao, tinh thần càng thêm vững...”. Ngày 15-7-1972, anh viết thư về: “Đơn vị con vào đến Quảng Trị, đã bắt đầu chiến đấu. Nhân dân thương bộ đội, giúp đỡ bộ đội nhiều”.

Không ngờ, đó lại là lá thư cuối cùng của anh Ninh. Hơn nửa năm sau, ông Lâm đau đớn khi nhận được thư từ đồng đội của con trai gửi: “Cháu là Lưu Quang Thái, cùng đơn vị với đồng chí Lê Văn Ninh - con bác, cùng nhập ngũ, cùng chiến đấu bên nhau. Từ tháng 9 đến nay, cháu nhận được nhiều thư của bác gửi cho đồng chí Ninh nhưng cháu không dám trả lời vì sợ làm đau lòng hai bác. Nhưng đến hôm nay, 27-3-1973, nhận được lá thư của bác gửi cho đồng chí Ninh ngày 18-2-1973, cháu gạt nước mắt báo tin cho bác: Đồng chí Lê Văn Ninh đã hy sinh vô cùng anh dũng ngày 2-9-1972. Cháu xin kể cho hai bác nghe giai đoạn từ khi chiến đấu cho đến ngày đồng chí Ninh hy sinh: Ngày 13-7-1972, đơn vị vượt sông Thạch Hãn vào chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị. Tiếp theo đó là những trận chiến đấu quyết liệt với quân thù. Ngày 14-7-1972, trận đánh lớn nhất của Đại đội 1 (đơn vị của Ninh). Ninh bị thương nhẹ và đi viện. Đến cuối tháng 8, Ninh trở về đơn vị. Lúc này, đơn vị đang rút khỏi thành, củng cố và tăng quân. Củng cố được một tuần, đơn vị lại lao vào những trận đánh quyết liệt. Ngày 2-9, địch chiếm được đầu cầu Sắt, Quảng Trị. Khẩu đại liên của chúng đặt trên đầu cầu bắn ác liệt theo phố về dinh tỉnh trưởng. Đại đội 1 được lệnh bằng giá nào cũng phải đánh chiếm được đầu cầu. Các chiến sĩ dũng cảm lao lên dưới làn hỏa lực của địch, đồng chí Ninh và nhiều đồng chí đã hy sinh vô cùng anh dũng… Trên sắc cờ kiêu hãnh của Tổ quốc hôm nay đang tung bay trên bầu trời xanh thẳm hòa bình, có máu của đồng chí Ninh. Tổ quốc và nhân dân đời đời nhớ ơn những người con đã ngã xuống cho mảnh đất thiêng liêng…”.

Sự ra đi của con trai là một cú sốc quá lớn đối với ông Lâm. Nhưng qua lời kể của đồng đội về chiến công của Ninh, ông cảm thấy vô cùng hãnh diện, tự hào về con trai của mình.

Từ đó, ông Lâm tập hợp tất cả những di vật của con thành một bộ sưu tập đặt dưới di ảnh của Ninh. Mỗi di vật đều có ghi chú cụ thể như một bản “lý lịch hiện vật” rất cẩn thận. Những di vật này dẫu chỉ là những đồ vật bình thường nhưng ẩn chứa nhiều câu chuyện xúc động về đời sống xã hội thời chiến tranh, về chàng sinh viên Bách khoa xếp bút nghiên lên đường bảo vệ Thành cổ Quảng Trị vào mùa hè đỏ lửa năm 1972, về tình người trong chiến tranh…

Lần giở từng thứ, ông Lâm kể: Chiếc quần ka-ki màu xanh, tôi may cho Ninh khi vào học cấp III. Ngày đó rất nghèo, vô cùng khó khăn vì vải phải mua theo tem phiếu. Ninh mặc chiếc quần này từ năm 1967 đến 1971, khi còn là học sinh cho đến khi trở thành sinh viên và trước khi vào bộ đội. Chiếc quần đã bạc phếch, có đến 5 mụn vá. Còn đây là chiếc khăn bằng vải pô-pơ-lin màu trắng, thêu hai bông hoa hồng của cô gái tên Tuyên, sinh viên cùng lớp, quê Thanh Hóa, tặng Ninh ngày lên đường...

Ninh đã không bao giờ trở lại Bách khoa, ngôi trường mà Ninh hẹn đánh xong giặc Mỹ sẽ trở lại. Mảnh đất Quảng Trị mãi mãi ôm Ninh vào lòng. Trao những kỷ vật cho Giám đốc bảo tàng, ông Lâm hiểu rằng những di vật này sẽ được lưu giữ lại đời đời. Nó chính là cầu nối của quá khứ với hiện tại và tương lai…"

CHUNG TAY HỖ TRỢ, CHĂM SÓC NẠN NHÂN DA CAM

         61 năm đã trôi qua, kể từ ngày 10-8-1961, khi chiếc máy bay đầu tiên của không lực Hoa Kỳ bắt đầu phun rải chất độc, mở màn cho cuộc chiến tranh hóa học kéo dài suốt 10 năm ở miền Nam Việt Nam, cho đến nay, những mất mát, đau thương do thảm họa da cam/dioxin để lại trên đất nước ta vẫn vô cùng nặng nề, nghiêm trọng, đè nặng lên cuộc sống của rất nhiều gia đình nạn nhân.

Hàng trăm nghìn nạn nhân đã và đang sống trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn, thiếu thốn về kinh tế, quằn quại, đau đớn tột cùng về thể xác và tinh thần bởi di chứng da cam. Chưa hết, chất độc da cam/dioxin còn gieo hệ lụy buồn đau xuyên thế hệ, dai dẳng và nhức nhối trong các gia đình nạn nhân, không biết bao giờ mới chấm dứt...

Thực hiện chức năng của một tổ chức xã hội nhân đạo được Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ, Hội Nạn nhân chất độc da cam (NNCĐDC)/dioxin Việt Nam từ khi được thành lập (tháng 1-2004) đến nay luôn nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các ban, bộ, ngành, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, sự phối hợp chặt chẽ của các tổ chức chính trị-xã hội, sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể và nhân dân các địa phương. Hội luôn tích cực, chủ động, sáng tạo, triển khai toàn diện các mặt công tác, đạt nhiều kết quả quan trọng, nhất là đối với công tác chăm sóc, giúp đỡ NNCĐDC.

Tinh thần “Đoàn kết-nghĩa tình-trách nhiệm-vì NNCĐDC” ngày càng lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng; từ đó, rất nhiều hoạt động nghĩa tình, đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc người có công, chăm sóc NNCĐDC được diễn ra. Tính đến nay, toàn hội đã vận động được gần 3.133 tỷ đồng (riêng năm 2021 vận động được hơn 400 tỷ đồng). Từ đầu năm 2022 đến nay, mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng hội đã chủ động, bằng nhiều hình thức vận động các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài ủng hộ, giúp đỡ NNCĐDC được hơn 200 tỷ đồng. Từ nguồn vận động trên, đã có hàng triệu lượt NNCĐDC được thụ hưởng thông qua các hình thức chăm sóc, giúp đỡ thiết thực và hiệu quả; nạn nhân và gia đình họ có thêm động lực, vượt qua khó khăn, bệnh tật. NNCĐDC không ai bị bỏ lại phía sau.

Trong quá trình hoạt động, Hội NNCĐDC/dioxin Việt Nam được các ban, bộ, ngành; tổ chức chính trị-xã hội, cấp ủy, chính quyền các cấp quan tâm, tạo điều kiện, đã thực hiện tốt nhiệm vụ Đảng, Nhà nước giao, tham gia hiệu quả vào công cuộc khắc phục hậu quả chất độc hóa học, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho NNCĐDC. Hội tích cực đề xuất, kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền bổ sung, sửa đổi chế độ, chính sách đối với NNCĐDC; tham mưu, đề xuất và vận động nguồn lực xã hội để chăm sóc, giúp đỡ và đấu tranh đòi công lý cho NNCĐDC.

Với phương châm “Ở đâu có nạn nhân, ở đó có tổ chức hội”, các cấp hội đã tích cực phát triển mạng lưới vươn tới xã, phường, thôn, ấp, tổ dân phố. Đến nay, hội đã có tổ chức thành viên ở 63/63 tỉnh, thành phố, 613 huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, khoảng 6.730 xã, phường, thị trấn có tổ chức hội và hàng nghìn chi hội ở thôn bản, tổ dân phố với hơn 400.000 hội viên. Quỹ NNCĐDC/dioxin đã được thành lập ở Trung ương và 40/63 tỉnh, thành phố, 108 quận, huyện, 539 xã, phường.

Đội ngũ cán bộ hội, nhất là cán bộ cơ sở nhiệt huyết, chăm sóc, giúp đỡ nạn nhân bằng lương tâm và trách nhiệm của mình. Bởi vậy, ngày càng nhiều nạn nhân được thụ hưởng chính sách và được giúp đỡ nhiều hơn về vật chất, tinh thần.

        Khắc phục hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam đối với môi trường và sức khỏe con người là vấn đề vừa cấp bách, vừa lâu dài, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Phát huy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, tinh thần “tương thân tương ái”, chung tay xoa dịu nỗi đau da cam, trong thời gian tới, Hội NNCĐDC/dioxin các cấp cần tập trung vào những nhiệm vụ cụ thể:

Một là, làm tốt công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp, lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện hiệu quả Chỉ thị 43, Chỉ thị 14 của Ban Bí thư Trung ương và Quyết định 2215 của Thủ tướng Chính phủ. Đổi mới công tác tuyên truyền sao cho dư luận trong và ngoài nước hiểu rõ hơn thảm họa da cam ở Việt Nam, từ đó tích cực tham gia hưởng ứng Phong trào “Hành động vì NNCĐDC” bằng nhiều việc làm cụ thể, với tinh thần “không để nạn nhân bị bỏ lại phía sau”.

Hai là, tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị, nhà hảo tâm tổ chức nhiều hoạt động vận động nguồn lực cả trong nước và quốc tế để chăm sóc, giúp đỡ NNCĐDC bảo đảm thiết thực, hiệu quả, phù hợp và mang tính bền vững. Quan tâm, giúp đỡ người dân vùng bị phơi nhiễm chất độc hóa học, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn thông qua các chương trình an sinh xã hội.

Ba là, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện chế độ, chính sách đối với NNCĐDC, bảo đảm không để xảy ra sai phạm, tiêu cực, trục lợi chính sách, thực hiện đúng đối tượng, đầy đủ chính sách theo quy định; đồng thời tiếp tục đề nghị các ngành chức năng xem xét, giải quyết chế độ, chính sách đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học và thế hệ thứ ba là cháu của người hoạt động kháng chiến bị di nhiễm chất độc da cam/dioxin.

Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động đối ngoại nhân dân; kiên trì cuộc đấu tranh đòi công lý cho NNCĐDC và ủng hộ vụ kiện của bà Trần Tố Nga trong giai đoạn mới.

Năm là, các cấp hội NNCĐDC/dioxin tiếp tục phát huy tinh thần “Đoàn kết-nghĩa tình-trách nhiệm-vì NNCĐDC”, tích cực đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hiệu quả hoạt động; làm tốt hơn nữa công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền xây dựng tổ chức hội vững mạnh, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị Đảng, Nhà nước giao là chăm sóc, giúp đỡ và đấu tranh đòi công lý cho NNCĐDC Việt Nam bằng những hình thức và bước đi phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước và đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn mới. Phát huy vai trò nòng cốt của hội, cùng với hệ thống chính trị, toàn xã hội và bạn bè quốc tế chung tay, góp sức, xoa dịu nỗi đau da cam và là chỗ dựa vững chắc của NNCĐDC./.


Nguồn: Báo QĐND

CHIẾN TRƯỜNG K ÁC LIỆT NHƯ THẾ NÀO?

 

           Có thể nói, cuộc chiến ở Campuchia là cuộc chiến vừa bắt buộc vừa là một cuộc chiến hoàn toàn mới đối với Việt Nam.

Đây là một cuộc chiến rất tàn khốc, những mất mát, hy sinh của người lính tình nguyện ở Campuchia là rất lớn và vô cùng khốc liệt. Ví dụ, một loại vũ khí gây thương vong nhiều nhất cho bộ đội ta là mìn. Khmer Đỏ có đủ các loại mìn do nhiều nước cung cấp. Loại mìn zip mà Polpot sử dụng ở Campuchia được làm bằng giấy nhưng có tẩm hóa chất, cứ dính là bị nhiễm độc và hoại tử, nên cứ sứt da, chảy máu là phải cưa chân. Hơn 50% thương binh Việt Nam ở Campuchia là bị thương ở chân, tay...

Tôi đã từng gặp những chiếc xe ô tô chở thương binh Việt Nam ra sân bay Pochentong về nước điều trị, trên xe có 30 thương binh chỉ còn đúng 30 cái chân.

Cái thứ hai đáng sợ ở Campuchia là khí hậu vô cùng khắc nghiệt, nên bộ đội mình hy sinh nhiều. Sốt rét ở Campuchia nhanh vô cùng, nước suối rừng già ở Campuchia độc một cách đáng sợ. Bộ đội ta dù uống hay rửa mặt hoặc tắm đều có thể mắc sốt rét ác tính. Có rất nhiều bộ đội ta đã bị sốt rét lên đến trên 41 độ dẫn đến hoảng loạn thần kinh, đập phá và cuối cùng là suy kiệt, không sống nổi.

Trong quá trình truy quét tàn quân Polpot, có những lần ta mất cả một đại đội vì sốt rét. Có những khu vực cửa rừng ở Campuchia có tượng con voi đá rất to, quay đầu ra. Người dân Campuchia nói: Đến con voi còn phải quay ra thì người vào rừng đó chỉ có chết. Chỉ có bộ đội Việt Nam là dám vào, vẫn chiến đấu và vẫn đánh thắng - nhưng gian khổ vô cùng.

Nhưng dù cho cuộc chiến ấy khốc liệt đến như thế nhưng tính kỷ luật của bộ đội Việt Nam thì không một đội quân nào trên thế giới có thể có được. Cũng có một số ít người vi phạm kỷ luật nhưng tuyệt đại đa số thực hiện rất nghiêm kỷ luật dân vận. Cũng vì tính kỷ luật rất cao này mà bộ đội Việt Nam được dân Campuchia thương thực sự.

Hồi đó bộ đội mình đi làm dân vận thì cũng chỉ giúp dân chứ không có tiền mà cho. Còn chuyện nhường cơm xẻ áo là có thật. Thời đó, nếu bảo một người có tiêu chuẩn 18kg gạo/tháng nhưng cắt đi 5kg để nhường cho người khác là khó nhưng bộ đội Việt Nam chuẩn bị ăn cơm mà thấy trẻ em Campuchia vào bếp thì luôn nhường các em ăn trước. Có thuốc men gì cũng lo cho trẻ em trước. Mà bộ đội ta làm những việc ấy rất tự nhiên, rất bản năng, với tấm lòng của một CON NGƯỜI chứ không vì một điều gì khác.

Điều mà tôi thấy ấn tượng nhất, tự hào nhất là Việt Nam không chỉ trao cho Campuchia cuộc sống, cơm áo, hòa bình mà quan trọng nhất là trao cho đất nước này quyền độc lập, tự chủ kể cả khi còn mấy chục vạn quân đang đóng trên đất Campuchia và chỉ ở đó để giúp dân, giúp Bạn.

Việt Nam chưa bao giờ có điều gì áp đặt đối với Campuchia. Trong sự giúp đỡ toàn diện, to lớn đó, hợp tác quốc phòng là một trong những trụ cột trong quan hệ Việt Nam - Campuchia.

Một phần lớn các cán bộ chỉ huy cấp chiến dịch của Campuchia đều là những người từng học ở Việt Nam. Họ đều thừa nhận học được rất nhiều thứ về nghệ thuật chỉ huy quân đội ở Việt Nam. Mình đã giúp bạn rất nhiều nhưng tôi vẫn nhớ điều đại tướng Lê Đức Anh luôn luôn căn dặn cấp dưới: Điều quan trọng bậc nhất là phải tôn trọng độc lập, tự chủ của bạn. Dù trong hoàn cảnh nào cũng phải tuyệt đối tuân thủ điều này, ai mà vi phạm là “chết với ông Sáu”.

Nguồn: Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh

 

 

 

 

 

NGƯỜI SẴN SÀNG CHẾT ĐỂ BẢO VỆ TƯỢNG BÁC HỒ Ở LIÊN XÔ

 

Năm 1991, nước Nga đảo lộn. Nhân lúc hỗn loạn, có một số kẻ quá khích định phá bỏ Tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh trên Quảng trường mang tên Bác ở Mátxcơva.

Nghe tin, Chủ tịch Hội Hữu nghị Xô - Việt, Thượng tướng Gherman Titov cùng một nhóm những người bạn của Việt Nam đã tức tốc đến ngay hiện trường. Ông đứng vào giữa những kẻ có dã tâm kia và bức tượng, phanh ngực áo quát: “Kẻ nào dám xâm phạm tượng của Người trước hết phải bước qua xác tao”. Sau đó ông và những người bạn của Việt Nam đã thay nhau túc trực bên tượng đài để ngăn chặn những kẻ quá khích.

Tôi đã hỏi đi hỏi lại người kể về xuất xứ câu chuyện thì được biết là ông nghe từ chính các vị lãnh đạo Hội Hữu nghị Nga-Việt và vợ của Titov trong một lần gặp ở Mátxcơva. Gặp bà Tamara ở Hạ Long, tôi kể lại câu chuyện và hỏi có đúng vậy không, bà xác nhận là từng có những kẻ cực đoan định làm vậy với tượng Bác Hồ, nhưng nhân dân đã đứng ra bảo vệ tượng Bác.

“Dưới sự lãnh đạo của Gherman Titov?” - Tôi hỏi. Bà Tamara đáp: “Thì là như vậy”. Trước đó, Titov cũng đóng vai trò quan trọng trong việc Mátxcơva có Quảng trường Hồ Chí Minh và Tượng đài Hồ Chí Minh.

Trên đây là câu chuyện truyền khẩu. Còn đây là tư liệu thành văn. Báo Văn hóa của Nga, số 10 năm 1991 đăng bài về chuyện có những thế lực âm mưu “di dời” tượng Bác, trong đó có đoạn: “Một mưu đồ đê tiện - phi công vũ trụ, Anh hùng Lao động Việt Nam Titov đã nhận định như vậy về kế hoạch của Hội đồng thành phố Mátxcơva chuyển tượng Hồ Chí Minh đi.

G.Titov đã nhắc lại rằng, Hồ Chí Minh, ngoài chuyện là một lãnh tụ chân chính của nhân dân, một nhà tư tưởng, nhà thơ và con người với đạo đức cao thượng nhất còn là một người bạn lớn của Liên Xô, người có nhiều năm sống ở Mátxcơva. Việc di dời, theo ý kiến của Titov, sẽ gây tổn thất không thể đắp bù cho uy tín của Liên Xô ở Việt Nam và trên khắp thế giới”.

Cho đến nay, nhiều thứ ở nước Nga đã thay đổi tận gốc, nhưng tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh và quảng trường mang tên Người vẫn uy nghi ở Mátxcơva.

 

 

 

 

ĐỘI CÔNG BINH VIỆT NAM HOÀN THÀNH NHIỆM VỤ VƯỢT TIẾN ĐỘ TẠI ABU QUSSA

 

            Sau 14 ngày làm việc với tinh thần khẩn trương, Đội Công binh số 1 Việt Nam tham gia Phái bộ An ninh Lâm thời của Liên hợp quốc (LHQ) khu vực Abyei (UNISFA) đã hoàn thành nhiệm vụ thiết lập hàng rào bảo vệ dài 380m tại Trạm Quan sát viên quân sự của phái bộ tại Abu Qussa.

Nhiệm vụ dựng 380m hàng rào bảo vệ bao gồm chôn 127 cột chữ Y, 126 cột chữ I và 1 cổng ra vào rộng 5m. Đây là nhiệm vụ được thực hiện ở địa bàn khó khăn, phức tạp về an ninh nằm giáp ranh giữa Sudan và Nam Sudan, cách vị trí đóng quân của Đội Công binh số 1 khoảng 500km đường bộ (đường đất và đường rừng).

Nhưng với tinh thần trách nhiệm cao nhất, phương pháp làm việc khoa học, sự phối hợp nhịp nhàng giữa đơn vị với các cơ quan chức năng của phái bộ cũng như giữa các thành viên trong đội, nhiệm vụ đã được hoàn thành sớm hơn dự kiến 6 ngày, bảo đảm an toàn tuyệt đối về người và trang bị. Được biết, để tận dụng tối đa thời gian và bảo đảm tiến độ, lực lượng thực hiện nhiệm vụ đã làm việc cả vào ngày nghỉ.

Theo Đại tá Mạc Đức Trọng, Đội trưởng Đội Công binh số 1, lực lượng thực hiện nhiệm vụ lần này gồm 17 đồng chí với đầy đủ trang thiết bị kỹ thuật cầm tay, do Đại úy Nguyễn Văn Khải – Phân đội trưởng, Phân đội Công binh Công trình 1 chỉ huy di chuyển tới nơi thực hiện nhiệm vụ bằng trực thăng.

Đại tá Mạc Đức Trọng cũng cho biết thêm, toàn đội xác định đây là nhiệm vụ mới, có tính chất độc lập cao, với nhiều thử thách nên xác định phải bảo đảm thực hiện tốt công tác chuẩn bị về hậu cần, kỹ thuật, các phương tiện và trang thiết bị nhằm bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ.


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

BỘ TRƯỞNG BỘ CÔNG AN: SIẾT CHẶT QUẢN LÝ FACEBOOK, GOOGLE...

 

            Siết quản lý các dịch vụ internet xuyên biên giới như Facebook, Google... được Bộ trưởng Công an Tô Lâm nêu ra như giải pháp phòng ngừa, xử lý tội phạm công nghệ cao cũng như việc phát tán thông tin xấu, độc trên mạng.

Hàng chục vụ lộ, mất bí mật nhà nước

Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm vừa gửi các đại biểu Quốc hội báo cáo về một số vấn đề liên quan nội dung chất vấn tại phiên họp 14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào ngày 10.8 tới.

Bộ trưởng Tô Lâm thông tin, tình hình an ninh mạng trong nước, an toàn đối với hệ thống an ninh mạng quốc gia tiếp tục diễn biến phức tạp, đặt ra nhiều khó khăn, thách thức.

Ông Lâm dẫn chứng thời gian qua các cơ quan công an đã phát hiện, ngăn chặn các sự cố, nguy cơ gây mất an ninh, an toàn hệ thống mạng, các hoạt động tấn công mạng, gián điệp mạng; phát hiện, xử lý hàng chục vụ việc lộ, mất bí mật nhà nước trên không gian mạng; xác minh, xử lý hàng trăm hệ thống thông tin trong nước bị tin tặc tấn công.

Bộ trưởng Công an đánh giá nguy cơ mất an ninh, an toàn thông tin vẫn ở mức rất cao, đặc biệt tại một số cơ quan T.Ư của Đảng, nhà nước, các tập đoàn tài chính, kinh tế lớn của Việt Nam.

Từ đó, ông Lâm cho biết Bộ Công an sẽ tập trung tham mưu hoàn hiện hành lang pháp lý trên lĩnh vực an ninh mạng, an toàn đối với hệ thống an ninh mạng quốc gia.

Trước mắt, trọng tâm là đề xuất Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ sớm ban hành một số nghị định, như: Nghị định bảo vệ dữ liệu cá nhân, Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trên lĩnh vực an ninh mạng...

Đối với vấn đề tội phạm công nghệ cao, Bộ trưởng Tô Lâm cũng khẳng định, từ đầu năm 2022 đến nay, lực lượng An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao toàn quốc đã phát hiện, khởi tố 474 vụ án, 1.071 bị can liên quan các loại tội phạm sử dụng công nghệ cao xâm phạm trật tự an toàn xã hội.

Trong đó, nổi lên là tội phạm đánh bạc, lừa đảo, chiếm đoạt tài sản, cho vay nặng lãi, tội phạm liên quan đến “tín dụng đen”...

Quản lý chặt thông tin trên mạng

Bộ trưởng Tô Lâm cũng cho hay, để để nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh, xử lý với tội phạm sử dụng công nghệ cao thời gian tới, Bộ Công an sẽ thực hiện nhiều giải pháp.

Trong đó tiếp tục kiến nghị các bộ, ngành tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, internet, ngân hàng thương mại trong việc trao đổi, cung cấp thông tin, dữ liệu phục vụ hoạt động điều tra, xử lý tội phạm; siết chặt quản lý đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xuyên biên giới như Facebook, Google....

Liên quan tới vấn đề phát tán video phản cảm, độc hại trên mạng internet, ông Lâm cũng nêu tình trạng tán phát tin giả, tin sai sự thật trên internet, mạng xã hội đáng báo động và đang diễn biến rất phức tạp, theo chiều hướng gia tăng.

Nói về nguyên nhân của tình trạng trên, ông Lâm cho rằng, Người sử dụng cho rằng, khi cung cấp, phát tán thông tin trên các nền tảng mạng xã hội của nước ngoài khó bị phát hiện danh tính, có tư tưởng “vô danh nên vô trách nhiệm”.

Người dân trong nước ngày càng phụ thuộc vào các mạng xã hội nước ngoài trong bối cảnh Việt Nam chưa có các dịch vụ tương tự phục vụ nhu cầu của nhân dân. Trong khi đó, các doanh nghiệp nước ngoài cung cấp dịch vụ xuyên biên giới vào Việt Nam vẫn tìm cách né tránh, không phối hợp thực hiện ngăn chặn thông tin xấu độc tại Việt Nam.

Từ đó, ông Lâm cho biết, Bộ Công an phối hợp với Bộ Thông tin - Truyền thông yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, internet quản lý chặt chẽ thông tin trên không gian mạng.

Cùng đó, thực hiện chức năng quản lý nhà nước, yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xuyên biên giới tại Việt Nam tuân thủ, chấp hành đầy đủ quy định của pháp luật Việt Nam trên lĩnh vực đảm bảo an ninh, an toàn thông tin mạng.


 

 

 

CỐ TỔNG BÍ THƯ LÊ KHẢ PHIÊU: ĐẢNG KHÔNG ĐỂ “NGƯỜI TRUNG MẮC NẠN, KẺ GIAN VUI MỪNG”.

 

        Quần chúng không sợ hi sinh, chỉ sợ hi sinh không được tổ chức biết. Đảng dứt khoát không làm "người trung mắc nạn, kẻ gian vui mừng" cố Tổng bí thư Lê Khả Phiêu nói.

Năm 1991, tòa soạn báo Quân đội Nhân dân giao cho tôi tháp tùng anh Lê Khả Phiêu - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị đi thăm, kiểm tra một số đơn vị quân đội đóng quân phía Nam.

Anh Phiêu dặn tôi chỉ đưa một tin lên báo vào ngày kết thúc chuyến đi công tác. Biết tôi là lính chiến đấu ở chiến trường Trị Thiên Huế từ năm 1968 và cả thời chống Mỹ, đánh quân Pôn Pốt, đánh quân Trung Quốc xâm lược, có nhiều thành tích trong chiến đấu, đã từng là cán bộ chỉ huy đơn vị, cán bộ cơ quan 18 năm rồi mới đi làm báo, anh Phiêu rất thích.

Ngày đi đơn vị, tối anh Phiêu bảo tôi ở lại chơi trò chuyện rồi hãy về. Kể chuyện chiến đấu ở Trị Thiên, anh Phiêu vẫn nhớ trận Cô Pung mà tôi là xạ thủ số 1 súng cao xạ 12,7 ly, trong 30 phút đã bắn rơi tại chỗ 14 máy bay trực thăng và bắn bị thương 11 chiếc rơi ở đồng bằng.

Trận ấy vang dội cả Quân khu, cả chiến trường, báo đài đăng bài, nói nhiều. Trận thắng Cô Pung ấy được báo cáo điển hình tại đại hội thi đua quyết thắng của Quân khu Trị Thiên Huế tháng 12/1970.

Đại đội 3 và tiểu đoàn 54 chúng tôi được tuyên dương Anh hùng. Anh Phiêu bảo: “Hồi đó hơi cầu toàn, bây giờ phát hiện làm lại có khi cậu được tuyên dương Anh hùng đấy”.

Năm 1998, anh Nguyễn Mạnh Đẩu - Cục trưởng Cục Chính sách vào TP.HCM gặp và bảo tôi: “Cụ Phiêu phê vào hồ sơ của Truật rằng: Cùng chiến đấu với đồng chí Truật còn nhiều người là nhân chứng đang công tác hoặc đã nghỉ hưu. Anh Đẩu cho xác minh và làm Anh hùng cho đồng chí Truật. Nhưng mình trình báo thì anh Phạm Thanh Ngân - Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị nói “vẫn phải làm từ cơ sở lên”. Khó thế”!

ĐẢNG, NHÀ NƯỚC KHÔNG QUÊN CÔNG LAO CỦA AI

Tháng 2/2013, khi đi kỷ niệm 45 năm tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 tại TP Huế, tôi nói với anh Phiêu: “Em vẫn chưa được Anh hùng anh ạ”. Anh Phiêu cười và nói: “Để về mình nhắc Bộ Quốc phòng, thành tích của cậu dày mà”.

Sau đó anh Nguyễn Mạnh Đẩu vào đề nghị với lãnh đạo Quân khu 4 nên ngày 10/8/2015, nhân kỷ niệm 70 năm thành lập nước, tôi được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân do lập thành tích đặc biệt xuất sắc trong chống Mỹ cứu nước.

Cũng trong chuyến công tác năm 1991 ấy, tôi hỏi: “Anh Phiêu có nhớ cụ Lê Minh Hội nữa không?” Anh Phiêu bảo: “Hồi Trị Thiên mình là Trưởng phòng Tổ chức thì anh Hội làm Tuyên huấn. Vợ anh Hội là cô Huệ do mình giới thiệu. Ở Campuchia anh Hội làm phó cho mình”.

Tôi nói: “Hồi làm Chủ nhiệm Chính trị Sư đoàn 324 cụ Hội nổi tiếng nói thời sự, giảng chính trị rất hay nhưng bây giờ về hưu lại làm thầy bói”. Anh Phiêu cười rồi hỏi: “Có nhiều người tới xem không?”. Tôi nói: “Dạ, đông lắm”.

Hôm sau anh Phiêu bảo tôi mua tút thuốc lá 555 rồi cùng ghé thăm cụ Lê Minh Hội. Vào nhà ông Hội, anh Phiêu cười rồi nói: “Truật bảo bây giờ anh coi bói đắt khách lắm, coi cho tôi một quẻ được không?”.

Ông Hội nghiêm trang nói: “Biết nhau rồi, không nói quá khứ làm tin nữa mà nói thì tương lai nhé: Cậu tu cho tốt thì sẽ làm vua”.

Anh Phiêu hỏi: “Thế nào là tu cho tốt?”. Ông Hội nói: “Tu tốt là sống tử tế như lâu nay cậu vẫn sống với mọi người ấy. Nhưng làm vua thì nên bỏ bớt thói quen khi còn làm quan”.

Mọi người ngồi quanh bàn đều cười vui vẻ. Sau này khi anh Phiêu được phong hàm Thượng tướng, Thường trực Ban Bí thư rồi lên Tổng bí thư, cụ Hội gọi tôi sang bảo: “Truật thấy anh coi đúng không? Cậu cố gắng giúp ông Phiêu nhé. Chuyện phong Anh hùng cho cậu thì chắc chắn được. Đảng và Nhà nước không quên công lao của ai đâu”.

SAI THÌ SỬA, SỬA TRIỆT ĐỂ

Sau này, tôi nhiều lần làm việc, báo cáo tình hình mà tôi biết được cho Anh. Có lần anh Phiêu trầm ngâm bảo tôi: “Cậu thật thà quá!”. Thấy tôi chăm chú nhìn, anh Phiêu cười rồi nói: “Cổ nhân dạy: Thật thà là cha quỷ quái. Nhưng làm việc phải cẩn thận hơn. Phân tích, tổng hợp, đưa ra giải pháp tốt nhất. Làm nhà báo Cách mạng thì phải quan hệ thật rộng để có nhiều thông tin nhưng phải giữ lòng mình thật trong sáng, đạn bọc đường bây giờ nhiều lắm”.

Một lần tôi báo cáo anh Phiêu về tình trạng do luật sĩ quan mà cấp úy được nghỉ hưu, còn cấp tá thì phải phục viên. Việc này ảnh hưởng rất lớn đến tâm tư, tình cảm của sĩ quan tại ngũ và những người sắp thành sĩ quan quân đội. Anh Phiêu nghe rất chăm chú rồi nói: “Cậu viết bài nói tình hình này lên báo Quân đội Nhân dân đi. Anh sẽ xử lý”. Tôi về viết ngay bài “Được về hưu và phải phục viên” đăng Diễn đàn Chủ nhật của báo. Bài báo gây xôn xao dư luận.

Gặp lại tôi, anh Phiêu khen và nói: “Quân ủy Trung ương đã có chỉ thị không cho sĩ quan cấp tá phục viên. Những trường hợp đã cho phục viên thì ai đủ 20 năm tại ngũ được cho chuyển chế độ thành nghỉ hưu. Sai thì sửa, sửa triệt để. Không để anh em bị thiệt thòi. Quần chúng không sợ hi sinh, chỉ sợ hi sinh không được tổ chức biết. Đảng dứt khoát không làm “người trung mắc nạn, kẻ gian vui mừng”.

Khi mới lên Tổng bí thư, vào TP.HCM chuẩn bị tang lễ cho Cố vấn, nguyên Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, anh Phiêu gọi tôi vào, cho tôi xem điếu văn ngày mai anh sẽ đọc và bảo: “Anh Lê Xuân Tùng, nguyên trợ lý anh Nguyễn Văn Linh viết đấy. Truật xem góp ý đi”. Tôi ngập ngừng. Anh bảo: “Đọc và góp ý thoải mái. Dân chủ mà”.

RẤT TÂM ĐẮC VẤN ĐỀ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG, CHỐNG THAM NHŨNG

Trước lúc Trung ương 8 ra Nghị quyết 6 lần 2, anh Phiêu rất tâm đắc vấn đề chỉnh đốn Đảng, chống tiêu cực, chống tham nhũng. Bây giờ đọc lại và thấy Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng triển khai chương trình, chiến dịch chống tham nhũng, xây dựng Đảng, tôi nghĩ nếu từ Đại hội 9, 10, 11 mà làm theo Nghị quyết 6 lần 2 của Đại hội 8 thì Đảng ta mạnh lắm, và thất thoát, lãng phí sẽ giảm biết bao nhiêu…

Là người may mắn có nhiều dịp làm việc, báo cáo cho anh Phiêu, được anh dạy dỗ, hướng dẫn, tiếp đón chân tình, ấm áp như người anh em, kỷ niệm đẹp có nhiều, không lời nào nói hết được.

Nay anh Phiêu về với tổ tiên, về với thế giới người hiền, mất mát này không có gì bù đắp nổi.

Nhắc lại kỷ niệm với anh Phiêu là nén nhang thành kính của đứa em, đồng chí, đồng đội.

Thân quý tiễn Anh - cố Tổng bí thư Lê Khả Phiêu muôn vàn kính yêu.


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA, NGÀY 11/8

 

    “Các chú hãy ra sức phát huy ưu điểm, sữa chữa nhược điểm, khó không nản, thắng không kiêu, cùng với đơn vị bạn và nhân dân quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp bảo vệ miền Bắc, ủng hộ cách mạng giải phóng miền Nam tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà”.

Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Thư gửi cán bộ và chiến sĩ Hải quân”, Báo Nhân dân đăng số 4147, ngày 11 tháng 8 năm 1965.

Nhân dịp Kỷ niệm 10 năm Ngày truyền thống của Quân chủng Hải quân, Bác Hồ đã gửi thư chúc mừng và biểu dương thành tích trong xây dựng, chiến đấu và chiến thắng của Hải quân; đồng thời, Người nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ Quân chủng Hải quân cần tiếp tục phát huy truyền thống và thành tích đã đạt được, chủ động khắc phục khó khăn, gian khổ, phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Thấu triệt lời Bác Hồ dạy, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân chủng Hải quân đã phát huy truyền thống “Quyết chiến, quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng ra quân đánh thắng ngay từ trận đầu; bất chấp mưa bom, bão đạn và muôn vàn khó khăn, gian khổ trên những chuyến tàu không số trở đầy hàng hóa, ngày đêm vượt biển chi viện đắc lực cho tiền tuyến lớn miền Nam, dệt nên một huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển, tham gia cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân năm 1975, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam như Bác hằng mong ước. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Quân chủng Hải quân luôn nắm vững tình hình, chủ động tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng có chủ trương, đối sách đúng đắn, phù hợp trong xử lý các vấn đề nhạy cảm xảy ra trên biển; tập trung xây dựng Quân chủng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu, làm nòng cốt bảo vệ vững chắc chủ quyền, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định các vùng biển, đảo và thềm lục địa của Tổ quốc, tiếp tục giữ vững và phát huy truyền thống “Chiến đấu anh dũng, mưu trí sáng tạo, làm chủ vùng biển, quyết chiến, quyết thắng” của Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng.

 

 

 

 

 

 

Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa

 

Quan điểm BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy là hoàn toàn đúng đắn, xuất phát từ bài học kinh nghiệm được đúc kết từ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, đồng thời thể hiện bước phát triển quan trọng từ thực tiễn và lý luận của Đảng về quốc phòng, an ninh (QPAN), đối tác, đối tượng, về BVTQ trong tình hình mới.

Từ xưa đến nay, đất nước ta đã áp dụng nhiều biện pháp, như: Tích cực hoạt động bang giao, giữ hòa khí với các nước láng giềng, tránh chiến tranh khi còn có thể; chăm lo xây dựng, củng cố lực lượng quân đội, tiềm lực quốc gia; giữ vững biên giới; thực hiện kế sách khoan thư sức dân... Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, Việt Nam cũng phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước”.

Thực tế cho thấy, BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy là tư tưởng chỉ đạo, hành động xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Kế sách này được vận dụng sáng tạo, linh hoạt thông qua việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và "thế trận lòng dân"; thực hiện tốt chủ trương kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với QPAN trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội... Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động không ngừng chống phá kế sách BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Vì vậy, Đảng, Nhà nước ta đã đề ra nhiều giải pháp để đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn chống phá này. Đặc biệt, ngày 22-10-2018 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Tiếp đó, ngày 4-6-2019, Ban Bí thư ban hành Kết luận số 53-KL/TW về việc chỉ đạo đấu tranh ngăn chặn, xử lý, gỡ bỏ, triệt phá tin giả, thông tin sai sự thật, xấu độc trên internet, mạng xã hội. Hai văn bản này tạo khuôn khổ phối hợp đồng bộ, có hiệu quả giữa các cơ quan làm nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là trên không gian mạng.