Hằng năm, cứ đến dịp Quốc khánh 2-9, người dân thị xã Quảng Trị lại thấy một ông già gầy gò mang theo những bông hoa tươi, đứng trầm ngâm trên bến sông Thạch Hãn như hóa đá rất lâu, rất lâu. Rồi miệng ông mấp máy câu gì đó và từ từ, nhẹ nhàng thả xuống dòng sông từng bông, từng bông hoa…
Khi tôi viết
những dòng này, ông đã về với tiên tổ, nhưng trước khi ra đi, ông đã làm được một
việc mà không phải ai cũng làm được. Đó là tìm kiếm và lưu giữ những di vật,
ghi chép cẩn thận như một bộ “sưu tập mi-ni” về người con trai yêu quý của
mình-liệt sĩ Lê Văn Ninh, người đã ngã xuống chiến trường Thành cổ Quảng Trị
đúng vào ngày 2-9-1972. Ông là Lê Văn Lâm, sinh năm 1923, quê ở xã Nghi Long
(huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An), nguyên là phóng viên, biên tập viên của Thông tấn
xã Việt Nam.
Trước khi qua
đời, ông đã đem một số di vật của liệt sĩ Lê Văn Ninh trao tặng Bảo tàng Lịch sử
Quân sự Việt Nam. Ông kể: Ngày 1-9-1971, Lê Văn Ninh đang là sinh viên Khoa
Hóa, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội thì nhận giấy gọi lên đường nhập ngũ. Trước
khi vào chiến trường, Ninh đã gửi cha giữ hộ những kỷ vật của thời học trò và
nói sẽ nhận lại sau ngày chiến thắng với tâm niệm “đánh tan giặc Mỹ, lại về
Bách khoa”.
Trên đường vào
chiến trường, Ninh đã gửi 11 bức thư về cho gia đình. Lá thư ngày 25-5-1972,
anh viết trên đường hành quân: “Máy bay địch đánh phá suốt ngày. Con không hề
nao núng. Sức khỏe của con vẫn tốt, vẫn dẻo dai. Tinh thần và nghị lực cao.
Càng vất vả gian lao, tinh thần càng thêm vững...”. Ngày 15-7-1972, anh viết
thư về: “Đơn vị con vào đến Quảng Trị, đã bắt đầu chiến đấu. Nhân dân thương bộ
đội, giúp đỡ bộ đội nhiều”.
Không ngờ, đó
lại là lá thư cuối cùng của anh Ninh. Hơn nửa năm sau, ông Lâm đau đớn khi nhận
được thư từ đồng đội của con trai gửi: “Cháu là Lưu Quang Thái, cùng đơn vị với
đồng chí Lê Văn Ninh - con bác, cùng nhập ngũ, cùng chiến đấu bên nhau. Từ
tháng 9 đến nay, cháu nhận được nhiều thư của bác gửi cho đồng chí Ninh nhưng
cháu không dám trả lời vì sợ làm đau lòng hai bác. Nhưng đến hôm nay,
27-3-1973, nhận được lá thư của bác gửi cho đồng chí Ninh ngày 18-2-1973, cháu
gạt nước mắt báo tin cho bác: Đồng chí Lê Văn Ninh đã hy sinh vô cùng anh dũng
ngày 2-9-1972. Cháu xin kể cho hai bác nghe giai đoạn từ khi chiến đấu cho đến
ngày đồng chí Ninh hy sinh: Ngày 13-7-1972, đơn vị vượt sông Thạch Hãn vào chiến
đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị. Tiếp theo đó là những trận chiến đấu quyết liệt
với quân thù. Ngày 14-7-1972, trận đánh lớn nhất của Đại đội 1 (đơn vị của
Ninh). Ninh bị thương nhẹ và đi viện. Đến cuối tháng 8, Ninh trở về đơn vị. Lúc
này, đơn vị đang rút khỏi thành, củng cố và tăng quân. Củng cố được một tuần,
đơn vị lại lao vào những trận đánh quyết liệt. Ngày 2-9, địch chiếm được đầu cầu
Sắt, Quảng Trị. Khẩu đại liên của chúng đặt trên đầu cầu bắn ác liệt theo phố về
dinh tỉnh trưởng. Đại đội 1 được lệnh bằng giá nào cũng phải đánh chiếm được đầu
cầu. Các chiến sĩ dũng cảm lao lên dưới làn hỏa lực của địch, đồng chí Ninh và
nhiều đồng chí đã hy sinh vô cùng anh dũng… Trên sắc cờ kiêu hãnh của Tổ quốc
hôm nay đang tung bay trên bầu trời xanh thẳm hòa bình, có máu của đồng chí
Ninh. Tổ quốc và nhân dân đời đời nhớ ơn những người con đã ngã xuống cho mảnh
đất thiêng liêng…”.
Sự ra đi của
con trai là một cú sốc quá lớn đối với ông Lâm. Nhưng qua lời kể của đồng đội về
chiến công của Ninh, ông cảm thấy vô cùng hãnh diện, tự hào về con trai của
mình.
Từ đó, ông Lâm
tập hợp tất cả những di vật của con thành một bộ sưu tập đặt dưới di ảnh của
Ninh. Mỗi di vật đều có ghi chú cụ thể như một bản “lý lịch hiện vật” rất cẩn
thận. Những di vật này dẫu chỉ là những đồ vật bình thường nhưng ẩn chứa nhiều
câu chuyện xúc động về đời sống xã hội thời chiến tranh, về chàng sinh viên
Bách khoa xếp bút nghiên lên đường bảo vệ Thành cổ Quảng Trị vào mùa hè đỏ lửa
năm 1972, về tình người trong chiến tranh…
Lần giở từng
thứ, ông Lâm kể: Chiếc quần ka-ki màu xanh, tôi may cho Ninh khi vào học cấp
III. Ngày đó rất nghèo, vô cùng khó khăn vì vải phải mua theo tem phiếu. Ninh mặc
chiếc quần này từ năm 1967 đến 1971, khi còn là học sinh cho đến khi trở thành
sinh viên và trước khi vào bộ đội. Chiếc quần đã bạc phếch, có đến 5 mụn vá.
Còn đây là chiếc khăn bằng vải pô-pơ-lin màu trắng, thêu hai bông hoa hồng của
cô gái tên Tuyên, sinh viên cùng lớp, quê Thanh Hóa, tặng Ninh ngày lên đường...
Ninh đã không
bao giờ trở lại Bách khoa, ngôi trường mà Ninh hẹn đánh xong giặc Mỹ sẽ trở lại.
Mảnh đất Quảng Trị mãi mãi ôm Ninh vào lòng. Trao những kỷ vật cho Giám đốc bảo
tàng, ông Lâm hiểu rằng những di vật này sẽ được lưu giữ lại đời đời. Nó chính
là cầu nối của quá khứ với hiện tại và tương lai…"
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét