Thứ Năm, 11 tháng 8, 2022

Thực trạng quản lý nhà nước về kết hợp phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh

 

Từ yêu cầu kết hợp phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh, thời gian qua, công tác quản lý nhà nước đạt được những kết quả khá toàn diện.

Trong xây dựng thể chế, Nhà nước đã ban hành hệ thống thể chế phát triển KTTT, tạo hành lang pháp lý thuận lợi để giải phóng năng lực sản xuất trong xã hội, khai thác tiềm năng đất nước đi đôi với thu hút vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ bên ngoài, giúp nền kinh tế có những chuyển biến hết sức to lớn. Tăng trưởng GDP trung bình hằng năm của nước ta giai đoạn 2016 - 2019 đạt trên dưới 7%, mức cao trên thế giới. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không ngừng được phát triển. Đây là những điều kiện thuận lợi để Đảng, Nhà nước đầu tư toàn diện cho lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt, từ phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại đến con người nhằm củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước.

Bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội và bộ máy quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh ở Trung ương và địa phương được kiện toàn với các nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm đối với công tác quốc phòng, an ninh theo quy định của Luật Quốc phòng và Luật An ninh quốc gia, trong đó, xác định rõ nhiệm vụ: Tổ chức thực hiện các quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước về quốc phòng trong thời bình và thời chiến theo nhiệm vụ được giao; thực hiện việc kết hợp chặt chẽ quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng trong xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch của bộ, ngành, lĩnh vực được giao phụ trách; bảo vệ an ninh trong các lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, đối ngoại và các lợi ích khác của quốc gia; bảo vệ bí mật nhà nước và các mục tiêu quan trọng về an ninh quốc gia.

Các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch trung và dài hạn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội luôn được nghiên cứu, xây dựng và tổ chức thực hiện trong mối quan hệ với chiến lược quốc phòng, an ninh. Đây là bước tiến quan trọng, thể chế hóa một cách đồng bộ các quan điểm của Đảng, nhất là những tư duy, quan điểm mới về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc bằng các văn bản quy phạm pháp luật - cơ sở pháp lý quan trọng để tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Đồng thời, cũng là căn cứ để chỉ đạo các cấp, các ngành, các lực lượng và địa phương triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.

Trong hoàn thiện các chính sách phân phối thu nhập, lĩnh vực văn hóa - xã hội, Nhà nước chủ động giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội. Nhờ đó, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện; hạn chế một phần sự phân hóa giàu nghèo cũng như khoảng cách về mức sống và cơ hội phát triển giữa các vùng, miền, các dân tộc, giữa nông thôn và thành thị. Chế độ, chính sách đối với cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang và gia đình họ được đặc biệt quan tâm để cán bộ, chiến sĩ yên tâm phục vụ và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Cơ chế, chính sách phát triển khoa học - công nghệ và môi trường không chỉ nhằm nâng cao trình độ công nghệ, cải thiện năng suất lao động mà còn ưu tiên cho các mục tiêu hiện đại hóa nhanh chóng lực lượng quân đội và công an, đặc biệt là trình độ phòng vệ quốc gia trước các nguy cơ an ninh truyền thống và phi truyền thống (chiến tranh mạng, vũ khí sinh học, hóa học, ô nhiễm môi trường...).

Trong triển khai các chính sách hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước chủ động đưa nền KTTT mà Việt Nam xây dựng trở thành một bộ phận hữu cơ của nền KTTT thế giới, “kế thừa có chọn lọc những thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại”, “hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và các yếu tố thị trường, các loại thị trường đầy đủ, đồng bộ, vận hành thông suốt, gắn kết chặt chẽ với các nền kinh tế trên thế giới”, tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực chung của thế giới để phát triển. Các chính sách hội nhập quốc tế, mở rộng thị trường để, một mặt, phát triển nhanh và bền vững kinh tế của đất nước; mặt khác, tạo sự hiểu biết lẫn nhau, tăng cường gắn bó lợi ích kinh tế, quan hệ ngoại giao hữu nghị giữa nước ta với các nước trên thế giới, góp phần hình thành trật tự thế giới mới theo xu hướng bảo đảm an ninh, hòa bình chung cho phát triển, bình đẳng trong quan hệ quốc tế. Đồng thời, trên cơ sở quan hệ hợp tác về đầu tư và thương mại, có chính sách lựa chọn các đối tác hợp tác về quốc phòng, an ninh để tăng cường vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ quốc phòng, an ninh hiện đại và đào tạo nhân lực, phục vụ hiện đại hóa các lực lượng vũ trang.

Sự kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh trong chiến lược phát triển kinh tế được thể hiện ngay trong việc hoạch định mục tiêu phát triển quốc gia, trong huy động nguồn lực, trong lựa chọn và thực hiện các giải pháp chiến lược. Tuy nhiên, một số chính sách vẫn chưa xác định cụ thể các giải pháp để tổ chức thực hiện. Vì vậy, một số quy hoạch, kế hoạch, dự án kinh tế, một số khu kinh tế, khu công nghiệp được bố trí ở các địa bàn không bảo đảm yêu cầu của chiến lược quốc phòng, an ninh. Mặt khác, khi xây dựng các quy hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển kinh tế, các cơ quan ở Trung ương và địa phương dành sự quan tâm chủ yếu đến phương diện lợi ích kinh tế, chưa xem xét đầy đủ tác động của các dự án đó đến vấn đề bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Nguyên nhân của hạn chế này xuất phát từ việc cán bộ, công chức một số cơ quan Trung ương và địa phương chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của việc kết hợp nhiệm vụ phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh; không nắm vững các yêu cầu bảo đảm quốc phòng, an ninh trong xây dựng một số dự án đầu tư. Còn các cơ quan có trách nhiệm phối hợp thẩm tra, thẩm định các dự án đầu tư do thiếu trách nhiệm, không đủ năng lực, hoặc do cả hai nguyên nhân trên, không phát hiện được những nguy cơ tiềm ẩn trong các dự án đầu tư đó đối với quốc phòng, an ninh. Không loại trừ khả năng, vì lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ của ngành, địa phương, hoặc bị mua chuộc, mà cơ quan hoặc công chức chủ trì xây dựng, thẩm định dự án, công chức có thẩm quyền phê duyệt, tổ chức thực hiện dự án đã cố tình bỏ qua các nguy cơ tác động tiêu cực của dự án đối với quốc phòng, an ninh đất nước.

Công tác phối hợp giữa các bộ, ngành trong việc xây dựng thể chế, chính sách, các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngành, lĩnh vực gắn với quốc phòng, an ninh chưa chặt chẽ. Cơ quan quản lý nhà nước ở nhiều địa phương chỉ tập trung nỗ lực để kinh tế địa phương tăng trưởng, tăng nguồn thu mà chưa thật sự chú trọng đến vấn đề quốc phòng, an ninh.

HAIVAN

Kinh tế thị trường đối với quốc phòng, an ninh

 

Quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN có tác động hai mặt đến việc củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh đất nước. Về tác động tích cực:

Thứ nhất, tiềm lực quốc phòng, an ninh của một quốc gia phụ thuộc rất lớn vào trình độ phát triển kinh tế của quốc gia đó. Kinh tế phát triển tạo nền tảng vật chất, kỹ thuật, công nghệ và nhân lực cho quốc phòng, an ninh. Khi kinh tế phát triển, nguồn vốn tích lũy, nguồn thu ngân sách không ngừng được tăng lên chính là điều kiện để phát triển đất nước về mọi mặt. Từ đó, góp phần củng cố và tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh. Kinh tế phát triển gắn với đổi mới kỹ thuật, công nghệ là cơ sở để đổi mới kỹ thuật, công nghệ trong công nghiệp quốc phòng, sản xuất ra các loại vũ khí, phương tiện kỹ thuật phục vụ quốc phòng, an ninh. Kinh tế phát triển cũng là cơ sở để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tăng cường cho các lực lượng vũ trang.

Thứ hai, phát triển KTTT góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, từ đó củng cố và tăng cường lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường ổn định xã hội và tiềm lực quốc phòng, an ninh. Khi cuộc sống về mọi mặt của người dân được nâng cao, tiến bộ, công bằng, dân chủ được tăng cường thì người dân, các lực lượng xã hội yên tâm, tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, vững vàng trước sự lôi kéo, xúi bẩy, kích động của các thế lực thù địch. Cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có cơ hội phát triển toàn diện của nhân dân là nền tảng chính trị vững chắc để tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh.

Thứ ba, KTTT phát triển khơi thông các tiềm lực kinh tế, tác động đến việc tăng cường sức mạnh của lực lượng quân đội và công an cả về vật chất và tinh thần. Về vật chất, kinh tế phát triển, đời sống của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang và gia đình họ sẽ được cải thiện và nâng cao, là cơ sở để nâng cao năng lực thể chất và trí tuệ mọi mặt của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang. Về tinh thần, kinh tế phát triển, đời sống của nhân dân, trong đó có gia đình cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang được cải thiện, giúp cán bộ, chiến sĩ yên tâm phục vụ quân đội, công an; đồng thời, tạo cơ hội để họ tập trung vào công tác huấn luyện, rèn luyện, học tập nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật, đủ kiến thức và kỹ năng làm chủ các phương tiện, vũ khí, khí tài hiện đại, nâng cao sự sẵn sàng, khả năng chiến đấu và chiến thắng.

Thứ tư, KTTT gắn với việc mở cửa, hội nhập quốc tế thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong nước thông qua phát huy các lợi thế, tạo tiền đề vật chất cho tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh. Đồng thời, mở cửa, hội nhập quốc tế tạo sự hiểu biết, sự gắn kết và ràng buộc lẫn nhau về lợi ích kinh tế, đầu tư, thương mại, hạn chế nguy cơ chiến tranh. Bên cạnh đó, xu hướng hội nhập quốc tế đặt ra khả năng và yêu cầu khách quan liên kết các quốc gia trong các thể chế khu vực và toàn cầu. Chủ động hội nhập quốc tế theo yêu cầu phát triển của KTTT, sự tham gia có trách nhiệm vào hoạt động của các tổ chức quốc tế, bên cạnh mở rộng quan hệ kinh tế và ngoại giao song phương, còn góp phần củng cố thế và lực của đất nước trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Sự phát triển KTTT cũng có những tác động tiêu cực đến tiềm lực quốc phòng, an ninh đất nước, cụ thể:

Một là, phát triển KTTT dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội. Đây là một tất yếu do có sự hoạt động và phát huy tác dụng của các quy luật kinh tế khách quan. Sự phân hóa giàu nghèo làm phát sinh những biểu hiện tiêu cực, bất mãn - cơ hội, điều kiện để các thế lực thù địch, tội phạm có thể lợi dụng để dụ dỗ, lôi kéo, mua chuộc, kích động người dân gây tình huống phức tạp về an ninh, trật tự xã hội, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm ảnh hưởng xấu tới việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân.

Hai là, phát triển KTTT tác động đến tư tưởng, tình cảm của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang. Kinh tế thị trường tạo điều kiện cho mọi cá nhân trong xã hội làm giàu hợp pháp và đang có nhiều người, bằng tài năng, sức lực và nguồn lực của mình trở nên giàu có. Nhưng cũng có không ít cá nhân làm giàu bất chính và một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức lợi dụng vị trí công tác có hành vi tham nhũng, nhận hối lộ, có nhiều tài sản bất hợp pháp. Điều này tác động đến nhận thức chính trị, tư tưởng, tình cảm, tâm lý, đạo đức của mỗi con người trong đó có cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang, đặc biệt là đối với những người có hoàn cảnh gia đình khó khăn.

Ba là, đầu tư và thương mại quốc tế bên cạnh những kết quả tích cực mang lại cho nền kinh tế cũng có những tác động tiêu cực tới lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Thông qua con đường hợp tác đầu tư, thương mại, các thế lực thù địch, phản động có thể lợi dụng để thâm nhập vào trong nước, móc nối với các nhân vật bất mãn, phản động, tổ chức các hoạt động chống phá. Cũng thông qua hoạt động đầu tư, thương mại, các thế lực thù địch tìm cách mua chuộc, khống chế cán bộ, công chức trong các cơ quan trọng yếu của Đảng và Nhà nước để cung cấp cho chúng các thông tin liên quan đến quốc phòng, an ninh, phục vụ âm mưu phá hoại, lật đổ. Thông qua đầu tư, đặc biệt là đầu tư vào lĩnh vực giáo dục, đào tạo, văn hóa, nghệ thuật... để truyền bá tư tưởng, văn hóa độc hại, thực hiện chiến lược diễn biến hòa bình.

HAIVAN

NHẬN THỨC ĐÚNG VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO, ĐẤU TRANH VỚI LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI

 

Trong khi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang quyết tâm thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật về phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc thì các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lại tìm cách đưa ra những luận điệu sai trái, ngụy tạo để xuyên tạc, kích động chống phá.
Số tổ chức, đối tượng phản động, cơ hội chính trị đã tự gán cái mác “học giả”, “nhà phản biện” hay nhân danh “những người Việt Nam yêu nước”, “bảo vệ chủ quyền biển, đảo” để đả phá, cho rằng đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về biển, đảo hiện nay đã lỗi thời, không còn phù hợp, từ đó đả kích rằng Việt Nam nếu tiếp tục giữ lập trường như hiện nay “sẽ không giữ được chủ quyền biển, đảo”!
Các thủ đoạn lợi dụng vấn đề chủ quyền biển, đảo để chống phá
Những năm qua, tại Biển Đông xảy ra một số vụ việc phức tạp, có lúc diễn biến căng thẳng, trong đó có các hành động gây hấn, xâm phạm chủ quyền biển đảo như: Vụ việc tàu Viking 02 và tàu Bình Minh 02 của Việt Nam bị cắt cáp năm 2011 và 2012; vụ giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam trên Biển Đông năm 2014; sự kiện tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc khảo sát trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa phía Nam Biển Đông của Việt Nam (từ ngày 4/7/2019 đến ngày 24/10/2019); các hoạt động tập trận trên Biển Đông tại một số thời điểm…
Những sự việc này được các tổ chức, đối tượng phản động triệt để khai thác, nhào nặn, biến tấu thành những luận điệu xảo trá, vu cáo như “Việt Nam nhu nhược, hèn nhát”, “chính quyền Việt Nam làm ngơ về Biển Đông”… Không những thế, các thế lực xấu còn vẽ ra “thuyết âm mưu” khi cho rằng Việt Nam cần phải liên minh quân sự với những nước lớn có thực lực kinh tế, quốc phòng - an ninh mạnh thì mới đủ sức bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia.
Đặc biệt, thông qua chiến lược xoay trục, đổi chiều sang châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ, việc Mỹ tăng cường hợp tác với các nước trong khối ASEAN, trong đó có Việt Nam, nhằm nâng tầm ảnh hưởng đối với khu vực Biển Đông cũng như duy trì thế cân bằng quyền lực của Mỹ tại vùng biển này… cũng trở thành chủ đề mà các thế lực thù địch vin vào để đả phá, công kích.
Nhiều bài viết phê phán rằng, Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng “bốn không” là “tự trói mình” vì tiềm lực kinh tế, quốc phòng - an ninh Việt Nam hiện nay là quá yếu, không thể ba không, bốn không mà xoay xở được; từ đó họ vẽ ra một viễn cảnh cần phải liên minh với Mỹ thì Việt Nam mới giữ được chủ quyền biển, đảo và bảo vệ được lợi ích quốc gia - dân tộc…
Các tổ chức, đối tượng phản động lợi dụng những diễn biến phức tạp tại Biển Đông cũng như đường lối đối ngoại, hướng giải quyết các vụ việc của Việt Nam để tìm cách chế nhạo, tái diễn nhiều chiêu trò, luận điệu xuyên tạc, suy diễn, xem đó là “ngòi nổ” để phá hoại sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc. Đồng thời đưa ra các bài viết lấy danh nghĩa “phân tích khoa học” để nhằm kích động việc “chọn phe” trong các quan hệ đối ngoại của Việt Nam, cổ súy tư tưởng bài trừ nước này, theo nước kia; cho rằng lãnh đạo Đảng, Nhà nước cần phải vì phe này, phe kia để chủ quyền biển, đảo không bị xâm lấn…
Một số bài viết lợi dụng vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo để quy kết rằng, khi đất nước chỉ có một đảng thì không đủ sức mạnh để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, từ đó hướng lái tư tưởng đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.
Mặt khác, qua thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Đảng, Nhà nước, trong đó có việc hỗ trợ ngư dân bám biển, nâng cao chất lượng cuộc sống nhưng bằng lối tư duy thù địch, chống phá, số đối tượng phản động lại đưa ra những lời lẽ hết sức vô lý, cho rằng “chỉ có ngư dân bảo vệ biển, không thấy chính quyền đâu”; vu cáo chính quyền “chỉ quan tâm đến phát triển kinh tế, không lo bảo vệ biển, đảo, không lo cho dân”.
Họ vin vào tình hình ngư dân Việt Nam đánh bắt hải sản ở vùng biển của quốc gia khác, bị lực lượng bảo vệ pháp luật của các nước bắt giữ, xử lý để gieo rắc luận điệu “ngư dân bị bỏ rơi”! Một số bài viết lợi dụng tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật trên biển diễn biến phức tạp; việc các tàu công vụ của nước ngoài tiếp tục có hành vi xua đuổi, khống chế, thu giữ hải sản và ngư cụ của các tàu cá Việt Nam đang hoạt động bình thường ở ngoài khơi Biển Đông để đưa ra đánh giá phiến diện “lực lượng chuyên tránh thực thi pháp luật trên biển làm ngơ, không hoàn thành nhiệm vụ”.
Các đối tượng còn tiến hành phỏng vấn số chống đối, bất mãn gắn với cái mác là các “chuyên gia”, “nhà hoạch định” để đưa ra những so sánh khập khiễng, đánh giá sai lệch về năng lực, khả năng bảo vệ chủ quyền biển đảo của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, kích động việc “sử dụng vũ lực” của lực lượng vũ trang trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo; họ cho rằng trước những hành động gây hấn, xâm chiếm biển, đảo Tổ quốc, nếu không nổ súng là “nhu nhược, hèn nhát”!
Nguy hiểm hơn, các thế lực bên ngoài chỉ đạo, hỗ trợ kinh phí hoạt động; các đối tượng trong nước tích cực tập hợp lực lượng, thu thập tin tức để cung cấp cho bên ngoài tuyên truyền các luận điệu xuyên tạc về tình hình Biển Đông và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam.
Lợi dụng vấn đề chủ quyền biển, đảo, các đối tượng chống phá thông qua các tài khoản mạng xã hội để đẩy mạnh tuyên truyền xuyên tạc chống phá từ bên ngoài, tạo dựng lực lượng chống đối từ bên trong theo kiểu “nội công, ngoại kích” hòng gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” đối với nước ta.
Nhận thức rõ về đường lối, chính sách bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam
Biển, đảo là bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, cấu thành chủ quyền quốc gia, cửa ngõ giao lưu quốc tế, có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước. Bảo vệ biển, đảo chính là bảo vệ một phần máu thịt thiêng liêng của Tổ quốc, giữ vững chủ quyền biển, đảo sẽ góp phần giữ vững chủ quyền của đất nước. Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Việt Nam là điều kiện, nội dung giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, duy trì hòa bình, ổn định và phát triển bền vững.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”.
Đây là quan điểm, chủ trương thể hiện định hướng chiến lược để toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ vững chắc vùng biển, đảo của Tổ quốc. Chúng ta xác định, giải quyết tranh chấp trên Biển Đông là vấn đề lâu dài, do đó cần kiên trì hợp tác tìm kiếm biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp, bảo vệ lợi ích chính đáng của Việt Nam, đồng thời tôn trọng lợi ích chính đáng của các nước trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế.
Thực tế cho thấy, mỗi khi chủ quyền và quyền chủ quyền quốc gia của Việt Nam trên Biển Đông bị xâm phạm, lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta luôn thể hiện tinh thần đấu tranh kiên quyết, kiên trì bằng các biện pháp hòa bình, đó là thông qua các diễn đàn, các cuộc gặp gỡ trong các lĩnh vực chính trị, ngoại giao...
Điều này đã được nêu rõ trong các nghị quyết của Đảng và được chứng minh qua việc giải quyết vấn đề Biển Đông của Việt Nam, với tinh thần thượng tôn pháp luật, giải quyết hòa bình các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế và Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982); kiềm chế, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực; thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và sớm đạt được Bộ quy tắc ứng xử tại Biển Đông (COC).
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã chủ động, tích cực giải quyết từng bước những tồn tại về biên giới lãnh thổ trên biển và đất liền với các nước liên quan nhằm thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác, góp phần củng cố hoà bình, an ninh khu vực, đồng thời tăng cường thế và lực của đất nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam đã ký nhiều văn bản với các nước liên quan đến biển, đảo.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia về biển, tạo khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động khai thác, quản lý và bảo tồn các nguồn tài nguyên biển phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, phục vụ nhiệm vụ tập trung phát triển kinh tế, thúc đẩy quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước, nâng tầm vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Chính sách quốc phòng của Việt Nam mang tính chất hòa bình và tự vệ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế; tích cực, chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, thực hiện phương châm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược.
Chúng ta không đi với nước này để chống lại nước kia; không thụ động chịu tác động hay sự lôi kéo của bất cứ nước lớn nào, nhất là tránh việc trở thành con bài trong tay các nước lớn. Chúng ta thực hiện đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển, góp phần duy trì môi trường hoà bình, ổn định cho phát triển.
Do đó, cần nhận diện, đấu tranh với những chiêu trò suy diễn, phê phán đường lối đối ngoại, đường lối bảo vệ độc lập, chủ quyền của Tổ quốc, đòi hỏi phải “chọn phe” để bảo vệ chủ quyền biển đảo. Tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế.
Chúng ta quán triệt phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong giải quyết vấn đề biển, đảo, trong đó chủ quyền biển, đảo là bất biến, sách lược bảo vệ chủ quyền biển, đảo thì mềm dẻo, linh hoạt; chủ động ứng phó với âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, sự biến động phức tạp của tình hình…
Những quan điểm trên chính là căn cứ chính trị, pháp lý quan trọng để chúng ta cần kiên trì, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc vấn đề chủ quyền biển, đảo của Việt Nam. Mục đích của việc đấu tranh này là làm cho nhân dân Việt Nam hiểu rõ về lập trường, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề chủ quyền biển, đảo; củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay; góp phần làm cho cộng đồng quốc tế hiểu rõ về chủ quyền biển, đảo của Việt Nam./.

CHẤT VẤN THÀNH CÔNG NHƯNG PHẢI CHỜ KIỂM NGHIỆM

 

Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các vị đại biểu đánh giá cao phần trả lời chất vấn, đồng tình và ghi nhận các giải pháp, cam kết của Bộ trưởng các Bộ Công an, Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Chiều 10/8, phát biểu bế mạc phiên chất vấn, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đánh giá, sau một ngày làm việc sôi nổi, khẩn trương, nghiêm túc và đầy tinh thần trách nhiệm, phiên chất vấn thứ hai của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XV đã thu hút sự quan tâm, chú ý rộng rãi của Nhân dân và cử tri cả nước, hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình dự kiến và đạt được các yêu cầu đề ra.
Các nhóm vấn đề thuộc 2 lĩnh vực được lựa chọn chất vấn tại phiên họp là đúng và trúng, phù hợp với diễn biến thực tế đời sống, bám sát thứ tự ưu tiên trong rất nhiều vấn đề được đại biểu Quốc hội, Nhân dân, cử tri và dư luận xã hội quan tâm. Diễn biến của phiên chất vấn cho thấy tinh thần sát thực tế rất thiết thực, tâm huyết, thẳng thắn và trách nhiệm cao đối với cả người hỏi và người trả lời chất vấn.
“Chúng tôi tạm tổng kết thành 5 chữ T như vậy là thực tế, thiết thực, tâm huyết, thẳng thắn và trách nhiệm cao. Tôi thấy có thể tóm lược không khí và diễn biến của phiên chất vấn bằng 5 chữ T như vậy”, Chủ tịch Quốc hội đánh giá.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các vị đại biểu Quốc hội đánh giá cao phần trả lời chất vấn, đồng thời đồng tình và ghi nhận các giải pháp, cam kết của Bộ trưởng các Bộ Công an, Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng như ý kiến của các thành viên Chính phủ có liên quan tại phiên chất vấn.
Căn cứ vào báo cáo của 2 Bộ và diễn biến của phiên chất vấn, để phiên chất vấn thực sự thành công trên thực tế, Ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực được chất vấn.
“Báo cáo với đại biểu Quốc hội, chúng ta hay nói là phiên chất vấn thành công, với thành công tốt đẹp, nhưng hôm nay thành công ở lúc chất vấn, còn có thành công thực sự tốt đẹp hay không thì phải có một thời gian nữa để kiểm nghiệm lại việc thực hiện các lời hứa và các cam kết như thế nào”, Chủ tịch Quốc hội cho hay.
Trên cơ sở kết quả phiên chất vấn, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ ban hành Nghị quyết về chất vấn. Đề nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện Nghị quyết khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành.
Chủ tịch Quốc hội cũng đề nghị Bộ Công an, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc thực hiện nghị quyết này tại phiên họp tháng 9 hàng năm. Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình và trách nhiệm giám sát việc thực hiện Nghị quyết khi được ban hành.
“Trên cơ sở Nghị quyết và thực tiễn thi hành pháp luật, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội chủ động tổ chức các phiên giải trình hoặc giám sát theo từng lĩnh vực phụ trách, góp phần giải quyết có hiệu quả các vấn đề thực tiễn đặt ra, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của đồng bào, cử tri và Nhân dân cả nước”, Chủ tịch Quốc hội nêu.
-:- Báo Tiền Phong -:-
1

QUAN HỆ VIỆT NAM - LÀO NGÀY CÀNG PHÁT TRIỂN, ĐI VÀO CHIỀU SÂU, THIẾT THỰC VÀ HIỆU QUẢ


Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bày tỏ vui mừng về mối quan hệ Việt Nam - Lào ngày càng phát triển, đi vào chiều sâu, thiết thực và hiệu quả trên các lĩnh vực, góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế-xã hội của mỗi nước, đồng thời nêu những định hướng về hợp tác giữa các ngành, các cấp của hai Đảng, hai nước trong thời gian tới.
Ngày 10/8, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tiếp đồng chí A-nụ-phạp Tụ-na-lôm, Bí thư Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thủ đô Viêng Chăn đang có chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam.
Đồng chí A-nụ-phạp Tụ-na-lôm bày tỏ vui mừng sang thăm Việt Nam, cảm ơn Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tiếp và dành cho Đoàn những tình cảm nồng ấm, thắm thiết, trân trọng chuyển lời thăm hỏi thân thiết của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Thoong-lun Xỉ-xu-lít tới Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Đồng chí chúc mừng và hết sức tự hào về những thành tựu quan trọng, to lớn mà Việt Nam đã đạt được trong thời gian qua, bày tỏ tin tưởng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đứng đầu, nhân dân Việt Nam tiếp tục giành được nhiều thành tựu mới, to lớn hơn nữa thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII. Đồng chí A-nụ-phạp Tụ-na-lôm cảm ơn về sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn mà Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã dành cho Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào từ trước đến nay, trong đó có Thủ đô Viêng Chăn.
Đồng chí vui mừng về mối quan hệ hợp tác giữa hai Đảng, hai nước ngày càng chặt chẽ, phát triển trên các lĩnh vực, dù trong tình hình khu vực, quốc tế diễn biến phức tạp và mỗi nước đều có những khó khăn phải vượt qua. Đồng chí khẳng định, Lào sẽ cùng với Việt Nam giữ gìn, vun đắp, phát huy và truyền tiếp cho các thế hệ mai sau mối quan hệ đoàn kết đặc biệt này. Đây là mối quan hệ “có một không hai” trên thế giới, là tài sản quý báu của hai dân tộc, là quy luật tồn tại và phát triển và là một trong những nhân tố bảo đảm thắng lợi của cách mạng mỗi nước.
Đồng chí A-nụ-phạp Tụ-na-lôm thông báo với đồng chí Tổng Bí thư khái quát về tình hình Lào, tình hình Thủ đô Viêng Chăn gần đây, nhất là kết quả triển khai Nghị quyết Đại hội XI của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 05 năm lần thứ IX. Đồng chí cho biết, Lào đang tích cực triển khai thực hiện hai chương trình quốc gia là giải quyết các khó khăn về kinh tế, tài chính và phòng chống ma túy. Đồng chí thông báo với đồng chí Tổng Bí thư về kết quả Hội đàm với đồng chí Đinh Tiến Dũng và kết quả hợp tác thiết thực trên nhiều lĩnh vực giữa hai Thủ đô, khẳng định Thủ đô Viêng Chăn sẽ cùng với Thủ đô Hà Nội triển khai thực hiện có hiệu quả Thỏa thuận giữa Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước và Thỏa thuận hợp tác giữa hai Thủ đô.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chào mừng đồng chí A-nụ-phạp Tụ-na-lôm sang thăm Việt Nam, đánh giá cao ý nghĩa chuyến thăm trong Năm Đoàn kết hữu nghị Việt Nam - Lào 2022 và việc hai bên vừa qua đã phối hợp tổ chức thành công Lễ kỷ niệm 60 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao và 45 năm Ngày ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam - Lào tại Thủ đô hai nước. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chúc mừng những thành tựu toàn diện mà Lào đã đạt được sau hơn một năm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XI, trong đó có sự đóng góp tích cực của Thủ đô Viêng Chăn trong bối cảnh phức tạp của tình hình quốc tế và tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tin tưởng dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Nhân dân Lào sẽ tiếp tục giành được nhiều thành tựu mới, to lớn hơn nữa, khẳng định Việt Nam luôn coi trọng và dành ưu tiên hàng đầu cho mối quan hệ đặc biệt vừa là đồng chí vừa là anh em Việt Nam - Lào và ủng hộ mạnh mẽ, toàn diện công cuộc đổi mới của Lào.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bày tỏ vui mừng về mối quan hệ Việt Nam - Lào ngày càng phát triển, đi vào chiều sâu, thiết thực và hiệu quả trên các lĩnh vực, góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế-xã hội của mỗi nước, đồng thời nêu những định hướng về hợp tác giữa các ngành, các cấp của hai Đảng, hai nước trong thời gian tới. Đồng chí Tổng Bí thư nhắc lại những ấn tượng tốt đẹp về Thủ đô Viêng Chăn, đánh giá cao kết quả hợp tác chân tình ngày càng hiệu quả giữa hai Thủ đô, trong đó có trao đổi kinh nghiệm về công tác xây dựng Đảng, hợp tác về kinh tế, thương mại, đầu tư, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, giúp đào tạo nguồn nhân lực, chia sẻ, giúp đỡ kịp thời trong phòng, chống dịch bệnh Covid-19. Đồng chí Tổng Bí thư khẳng định ý nghĩa của mối quan hệ giữa hai Đảng, hai nước không chỉ là láng giềng mà còn là đồng chí, anh em, nhấn mạnh tầm quan trọng của mối quan hệ hợp tác giữa các địa phương hai nước, mong Thủ đô Viêng Chăn tiếp tục phối hợp chặt chẽ và hợp tác với Thủ đô Hà Nội và các tỉnh, thành của Việt Nam tăng cường trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm toàn diện trên các lĩnh vực và hai Thủ đô cần thi đua cùng thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội của mỗi Đảng.
Nhân dịp này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trân trọng chuyển lời thăm hỏi thân thiết và lời chúc tốt đẹp tới đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Thoong-lun Xi-xu-lít, các đồng chí lãnh đạo cấp cao và nguyên Lãnh đạo cấp cao Lào.
ST (Theo Báo ĐCS)

NGUYỄN VĂN TUẤN MANG DANH TRÍ THỨC LỘNG NGÔN XUYÊN TẠC

 

Vụ án ở Tịnh thất Bồng lai hay còn gọi là Thiền am bên bờ vũ trụ đã được Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đưa ra xét xử sơ thẩm trong 2 ngày 20 và 21/7/2022. Tòa đã tuyên phạt bị cáo Lê Tùng Vân mức án 5 năm tù. Các bị cáo Lê Thanh Nhất Nguyên, Lê Thanh Tùng Dương và Lê Thanh Hòa Nguyên cùng mức án 4 năm tù; bị cáo Lê Thanh Nhị Nguyên 3 năm 6 tháng và bị cáo Cao Thị Cúc 3 năm tù. Các bị cáo này bị tuyên án trong vụ án “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” xảy ra tại Tịnh thất Bồng lai xã Hòa Khánh Tây, huyện Đức Hòa, Long An. Hội đồng xét xử xác định, hành vi của các bị cáo được thực hiện nhiều lần, vi phạm nghiêm trọng đến an ninh trật tự địa phương. Cáo trạng truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Các bị cáo có tổ chức, bàn bạc, thống nhất, phân công vai rõ ràng. Sau khi tòa sơ thẩm khép lại, các bị cáo đã làm đơn kháng cáo và một ngày gần đây phiên tòa phúc thẩm vụ án này sẽ được mở ra. Cần chú ý, sự việc xảy ra ở Tịnh thất Bồng lai đã gây bức xúc trong dư luận trong suốt thời gian qua, nhưng việc xem xét các hành vi vi phạm pháp luật (nếu có) cần được phân định tại tòa án. Điều đáng nói ở đây là một số tổ chức, cá nhân khoác áo “dân chủ, nhân quyền” nhảy vào bình luận, tung tin sai lệch với mục đích chống phá chính quyền, bôi nhọ chế độ nhà nước Việt Nam.
Tôi muốn đề cập đến ông “Giáo sư” Nguyễn Văn Tuấn và bài viết vừa đăng tải trên mạng xã hội của ông ta với cái tiêu đề “Những khuyết tật qua một phiên tòa dị kỳ” nhân phiên xét xử sơ thẩm vụ án ở Tịnh thất Bồng lai.
Thứ nhất, ông Nguyễn Văn Tuấn cho rằng phiên tòa có tới 8 “khuyết tật”. Đọc kỹ 8 cái gọi là “khuyết tật” mà ông Tuấn nêu ra như: thiếu sự độc lập giữa lập pháp, tư pháp và hành pháp; hình sự hóa một câu thành ngữ; chứng cớ … thì thiết nghĩ đây không phải là tư duy và khẩu khí của một kẻ tự cho mình là “giáo sư”. Chẳng hạn, ông Tuấn cho rằng “khuyết tật về chứng cớ” vì “Các luật sư đại diện Thiền Am phát hiện một video được dùng để cáo buộc họ lại xuất phát từ một kênh Youtube giả mạo những người trong Thiền Am. Kênh Youtube này, theo cộng đồng mạng phát hiện, chỉ được lập ra để nói xấu Thiền Am và chỉ đăng được 3 cái video! Ấy vậy mà một video như thế được dùng làm bằng chứng để cáo buộc mấy người trong Thiền Am!”.
Thưa ông Tuấn, cáo trạng vụ án đã nêu rõ: “Từ năm 2019 đến năm 2022, các bị can gồm Lê Tùng Vân, Lê Thanh Hoàn Nguyên, Lê Thanh Nhất Nguyên, Lê Thanh Nhị Nguyên, Lê Thanh Tùng Dương, Cao Thị Cúc và Lê Thu Vân đã đăng tải 5 video clip và 1 bài viết trên các trang mạng xã hội, trong đó có hai kênh Youtube “ 5 chú tiểu -Thiền am bên bờ vũ trụ” và “Nhất Nguyên- Hoàn Nguyên Oficial”. Các clip và bài viết này có chứa nội dung sai sự thật, bịa đặt, xuyên tạc nhằm tuyên truyền, kích động, xúc phạm đến uy tín của Công an huyện Đức Hòa, xúc phạm Phật giáo, xúc phạm danh dự và nhân phẩm ông Trần Ngọc Thảo (pháp danh Thích Nhật Từ) và đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội ở địa phương. Rõ ràng đến như vậy thì không thể gọi là “khuyết tật về chứng cứ” ông Tuấn nhé!
Điều đáng vạch mặt “giáo sư” Nguyễn Văn Tuấn trong bài viết này khi ông cho rằng: “Người ta không ngạc nhiên với bản án là vì hầu như tất cả các bản án ở Việt Nam được xử theo điều luật 331 đều đã được định trước. Tất cả 6 người trong Thiền Am bị kết tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.” Đó là một tội danh mà các cơ quan nhân quyền quốc tế nhận xét là ‘rất mơ hồ,’ hiểu theo nghĩa muốn kết tội ai cũng được” .
Xin thưa, không “rất mơ hồ” và “muốn kết tội ai cũng được” như luận điệu của ông Tuấn, bởi lẽ: Về phương diện luật pháp quốc tế, Khoản 2 Điều 29, Tuyên ngôn Nhân quyền quốc tế năm 1948 khẳng định: “Trong khi hành xử những quyền tự do của mình, ai cũng phải chịu những giới hạn do luật pháp đặt ra, bảo đảm những quyền tự do của người khác cũng được thừa nhận và tôn trọng, những đòi hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng và an lạc chung trong một xã hội dân chủ cũng được thỏa mãn”. Hàng loạt các quốc gia cũng đã đặt ra những điều khoản cụ thể để ngăn chặn việc lợi dụng quyền tự do, dân chủ xâm phạm các mối quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Ví dụ: Hiến pháp nước Đức quy định “Ai lợi dụng tự do ngôn luận, đặc biệt là tự do báo chí, tự do tuyên truyền… làm công cụ chống lại trật tự của xã hội tự do dân chủ sẽ bị tước bỏ quyền công dân”. Cũng xin được nói thêm, việc kêu gào bỏ Điều 331 này của Bộ luật Hình sự đã được nhiều kẻ cơ hội chính trị trước ông Tuấn đặt ra, chẳng lẽ ông lại “đạo văn” một lần nữa như nhiều người từ lâu đã tố cáo ông chăng?
Thứ hai, đôi lời về “giáo sư” Nguyễn Văn Tuấn: Cách đây gần 6 năm, ngày 7/12/2016, báo Nhân dân đã đăng bài viết: “Trí thức đích thực sẽ không hành xử như vậy” của Việt Quang -Hoài Ân vạch mặt vị “giáo sư” này. Theo chính ông Tuấn trong bài trả lời phỏng vấn mang tên “Con đường khoa học có nhiều thú vị” thì ông ta là: Nhà nghiên cứu loãng xương nổi tiếng thế giới; có hơn 250 công trình nghiên cứu khoa học đã đăng trên các tạp chí y khoa, khoa học quốc tế; giáo sư y khoa của nhiều trường đại học danh tiếng; king nghiệm làm nghiên cứu tại nhiều nước trên thế giới; hợp tác với hơn 30 viện, bệnh viện, nhiều trường đại học trên thế giới… Lý lịch có vẻ “tầm cỡ” và lại luôn xuất hiện trên internet như thế, việc bỗng dưng Nguyễn Văn Tuấn khóa tài khoản trên facebook, đóng blog cá nhân khiến một số người bất ngờ nhưng lại không bất ngờ với những người thường phản biện, trao đổi, phê phán Nguyễn Văn Tuấn. Vì họ biết sự việc này là không ngẫu nhiên. Nhiều người, nhiều bài báo gần đây đã đưa ra những chứng lý cụ thể để nói ông này “đạo văn”, thậm chí đạo văn cũng không xong và lý lịch chuyên môn của ông ta được thổi phồng một cách quá đáng. Không biết ông ta đã có đóng góp gì về khoa học Việt Nam không, nhưng chỉ qua ý kiến bàn luận ngoài chuyên môn của Nguyễn Văn Tuấn đã thấy, ở ông này có nhiều điều không bình thường. Về Việt Nam làm việc, được một số tờ báo giới thiệu, phỏng vấn ông ta đã viết rất bậy bạ rằng: “Tôi thấy bi quan cho cái viễn cảnh hòa giải- hòa hợp dân tộc. Sẽ không có hòa giải dân tộc khi cái ý thức hệ đó còn ngự trị trên đất nước ta. Sẽ không có hòa hợp dân tộc khi còn có những con người đánh đồng cái ý thức hệ đó như là một giá trị dân tộc”. Không biết căn cứ vào đâu mà ông Tuấn cho rằng “Chính quyền Việt Nam phân biệt có 4 loại Việt kiều”. Thử hỏi nếu đúng như vậy thì một kẻ có nhiều phát ngôn tùy tiện, bậy bạ như Nguyễn Văn Tuấn có thể về nước làm việc được không? Ông ta ca ngợi Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Thị Minh Hằng…thể hiện tình cảm với “cờ vàng” và “Việt Nam Cộng hòa” với một số văn nghệ sỹ hải ngoại nổi tiếng chống Cộng. Rất tiếc một số tờ báo, trang tin ở Việt Nam còn cả tin, thiếu kiểm chứng nên đã quảng bá cho Nguyễn Văn Tuấn như một người tài năng, tâm huyết với đất nước. Vì vậy ông ta càng huyênh hoang, khoác lác đến mức không còn biết mình là ai.
Đất nước và người dân Việt Nam cần những bài viết mang hàm lượng tri thức và khả dụng cao từ các vị trí thức chứ không phải “món gỏi xã hội chấm mù tạt” như những phát ngôn và hành vi của Nguyễn Văn Tuấn. Hãy ngậm miệng nói bừa, nói ẩu lại để thành người tử tế ông Nguyễn Văn Tuấn nhé!
ST
Ảnh: Dẫn bị cáo Lê Tùng Vân vào tòa sáng 20/7
Có thể là hình ảnh về 3 người và mọi người đang đứng

Hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay

 

Có thể hiểu quá trình hội nhập quốc tế của một đất nước (quốc gia) là sự tham gia vào hệ thống thế giới và trở thành một bộ phận cấu thành của chỉnh thể thế giới, trước hết là bộ phận cấu thành của “nền kinh tế thế giới”, “nền chính trị thế giới” và “nền văn minh nhân loại”. Sự tham gia ở đây là thông qua các hoạt động tương tác (hợp tác, cạnh tranh và đấu tranh...) với các bộ phận cấu thành khác nhau trong “hệ thống”, bao gồm cả việc gia nhập hay rút khỏi các “phân hệ” khác nhau trong hệ thống. Tất cả các hoạt động này đều là hoạt động có chủ đích, nhằm: 1- Phát triển quốc gia; 2- Khẳng định bản sắc quốc gia; 3- Giành vị thế xứng đáng cho quốc gia trong hệ thống; 4- Tham gia hoàn thiện và phát triển hệ thống...

Cần loại bỏ lối suy nghĩ giản đơn nhưng cũng khá phổ biến hiện nay ở Việt Nam, rằng “hội nhập quốc tế” là hình thức phát triển cao của “hợp tác quốc tế”. Vấn đề là ở chỗ “hợp tác quốc tế” và “hội nhập quốc tế” là thuộc các lớp khái niệm khác nhau. Hợp tác quốc tế chỉ là một trong nhiều phương thức tương tác giữa các nước với nhau; bên cạnh hợp tác quốc tế còn có cạnh tranh, đấu tranh, liên minh, liên kết, đối đầu, chiến tranh... Điểm cơ bản là ở chỗ, khác với khái niệm “hội nhập quốc tế”, khái niệm “hợp tác quốc tế” không đề cập tới việc cấu thành hệ thống chỉnh thể thế giới.

Để đánh giá thực trạng hội nhập quốc tế của một quốc gia, cần lấy phạm vi, mức độ tham gia và vị thế của quốc gia đó trong các mặt đời sống của cộng đồng quốc tế, trong các hệ thống thế giới làm tiêu chí:

Về chiều “rộng - hẹp”, có ba cấp độ hội nhập: Một là, hội nhập hẹp, khi quốc gia hội nhập chỉ tham gia một vài lĩnh vực trong đời sống cộng đồng quốc tế; hai là, hội nhập tương đối rộng, khi quốc gia hội nhập tham gia phần lớn các lĩnh vực trong đời sống cộng đồng quốc tế; ba là, hội nhập rộng, khi quốc gia hội nhập tham gia tất cả các lĩnh vực trong đời sống cộng đồng quốc tế.

Về chiều “nông - sâu”, cũng có ba cấp độ hội nhập: Một là, hội nhập nông, khi quốc gia hội nhập hầu như không có vị trí, vai trò trong cộng đồng quốc tế; hai là, hội nhập tương đối sâu, khi quốc gia hội nhập có vị trí, vai trò nhất định trong cộng đồng quốc tế; ba là, hội nhập sâu, khi quốc gia hội nhập có vị trí, vai trò đáng kể trong cộng đồng quốc tế. Nói theo ngôn ngữ của lý thuyết hệ thống, hội nhập sâu là trường hợp quốc gia hội nhập với tư cách là một bộ phận cấu thành hệ thống, có ảnh hưởng đáng kể đến việc hình thành và phát triển “tính trồi” (emergent) của cả hệ thống; còn hội nhập nông là trường hợp quốc gia hội nhập hầu như không có ảnh hưởng đến việc hình thành và phát triển “tính trồi” của cả hệ thống.

Với cách tiếp cận trên, có thể thấy, sau hai thập niên chủ động và tích cực hội nhập quốc tế từ Đại hội IX của Đảng đến nay, Việt Nam từng bước tham gia tất cả các lĩnh vực của đời sống chính trị - xã hội quốc tế; trở thành thành viên có trách nhiệm, có vị trí, vai trò và ảnh hưởng nhất định trong cộng đồng quốc tế, cả về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội... Điều đó có nghĩa là Việt Nam tích cực hội nhập vào chỉnh thể thế giới. Do vậy, để phát triển đất nước trong bối cảnh mới của “toàn cầu hóa” và giai đoạn mới của “hội nhập quốc tế”, cần quan tâm một số vấn đề lớn sau:

Thứ nhất, nhận thức đúng về “toàn cầu hóa” và “hội nhập quốc tế” để làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đặc biệt, cần thấy rõ bước phát triển mới của toàn cầu hóa trong những năm tới khi cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ; từ đó, tính toán sách lược, chiến lược trong tiến trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.

Thứ hai, Việt Nam hiện tham gia các mặt đời sống chính trị - xã hội quốc tế, tức là đã hội nhập rộng vào chỉnh thể thế giới, nhưng mới chỉ dừng ở mức độ hội nhập tương đối sâu với vị trí, vai trò nhất định trong một số lĩnh vực. Tiến trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam đã đưa Việt Nam trở thành bộ phận cấu thành của chỉnh thể thế giới. Tới đây, cần xác định việc giành lấy vị trí, vai trò ngày càng đáng kể trong nền kinh tế thế giới, nền chính trị thế giới và nền văn minh nhân loại là nội dung chủ yếu của tiến trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Về kinh tế, cần phấn đấu giành chỗ đứng trong các chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu; ưu tiên thúc đẩy phát triển nhanh các ngành kinh tế số và công nghiệp 4.0. Cơ hội đang mở ra cho Việt Nam ở thời hậu dịch bệnh COVID-19, không được bỏ lỡ. Muốn thế, cần ưu tiên phát triển các mạng kết nối Việt Nam với thế giới, cả “kết nối cứng” và “kết nối mềm”.

Về chính trị, tiếp tục nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ với các nước lớn, nhất là các nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, trong ASEAN. Chủ động tham gia xử lý các vấn đề quốc tế và khu vực. Thể hiện vai trò của Việt Nam “là bạn, đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.

Về văn hóa - xã hội, cần đẩy mạnh quảng bá lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ Việt Nam với thế giới; bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản thiên nhiên, công viên địa chất, công viên sinh thái, di sản văn hóa thế giới, cả vật thể lẫn phi vật thể; khẳng định các giá trị xã hội và truyền thống tốt đẹp của Việt Nam, bản sắc Việt Nam; tích cực tham gia sáng tạo các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, khoa học... có tầm ảnh hưởng quốc tế; tham gia xử lý các vấn đề nhân đạo trên trường quốc tế; tham gia đấu tranh với các hiện tượng, hoạt động phi văn hóa, phản văn hóa, chống lại nhân loại... Cần đặc biệt quan tâm việc nhân thêm và phát huy “sức mạnh mềm” của đất nước, cạnh tranh về “sức mạnh mềm” trên trường quốc tế. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, các phương tiện truyền thông xã hội ngày càng có vai trò lớn trong quảng bá văn hóa và cả trong “xâm lăng” văn hóa, lan tỏa các giá trị xã hội và cả làm xói mòn các giá trị xã hội, phát huy “sức mạnh mềm” và cả hạn chế “sức mạnh mềm” của các quốc gia, phát triển ổn định xã hội và cả gây bất ổn xã hội... Phương tiện truyền thông xã hội trở thành một hiện tượng văn hóa, một kênh thông tin, một công cụ quản trị. Bên cạnh việc tăng cường quản lý nhà nước đối với các phương tiện truyền thông xã hội, một số nước chủ động sử dụng và phát huy vai trò kênh thông tin, công cụ quản trị của các phương tiện truyền thông này. Việt Nam cần có cách tiếp cận mới đối với các phương tiện truyền thông xã hội, không chỉ dừng ở chỗ coi chúng là đối tượng quản lý.

Thứ ba, khi triển khai các hoạt động hội nhập quốc tế, luôn nảy sinh những vấn đề cần xử lý về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Đơn cử như, trong tiến trình hội nhập quốc tế, cần luôn điều chỉnh, sửa đổi hệ thống pháp luật trong nước, tuy nhiên, phải có lộ trình, bước đi cẩn trọng, để vừa củng cố độc lập, tự chủ, vừa hội nhập quốc tế thành công. Hay là vấn đề đối phó với nguy cơ lệ thuộc vào thị trường bên ngoài, lệ thuộc kinh tế dẫn đến lệ thuộc về chính trị...; hoặc vấn đề phải đối phó với sự xâm lăng văn hóa, xử lý hiện tượng giao thoa văn hóa trong hội nhập quốc tế, những mâu thuẫn trong xây dựng con người Việt Nam dưới tác động của trào lưu hình thành công dân toàn cầu, sự xâm nhập của các giá trị xã hội không phù hợp đối với nước ta...

Thứ tư, Việt Nam cần chủ động và tích cực tham gia vào việc đổi mới, cải tổ, cải cách hay thiết lập các định chế toàn cầu và khu vực; đóng góp nhiều hơn vào xây dựng “luật chơi”, coi đây là lợi ích quan trọng của quốc gia.

Thứ năm, trong quá trình hội nhập quốc tế, luôn nảy sinh ngày càng nhiều những tranh chấp. Ngoài những cơ chế quốc tế phổ biến, thế giới còn có những cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế mang tính khu biệt, chuyên ngành mà ta chưa có nhiều kinh nghiệm. Do đó, vấn đề cấp bách trong quá trình hội nhập là nâng cao năng lực phòng, chống, xử lý, giải quyết những tranh chấp quốc tế, gắn với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên sâu về các lĩnh vực này.

HAIVAN

Thực tiễn về “toàn cầu hóa” hiện nay


Những năm gần đây, ở Việt Nam, cũng như trên thế giới, có ý kiến cho rằng, “toàn cầu hóa” đang chững lại; thậm chí có ý kiến đề cập đến “phi toàn cầu hóa”. Luồng ý kiến này nhấn mạnh đến xu hướng gia tăng hoạt động bảo hộ ở nhiều nước trên thế giới, đến cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc và những tranh chấp về thương mại giữa các trung tâm kinh tế lớn của thế giới, đến việc Mỹ đe dọa rút và đã rút khỏi một vài định chế quốc tế... Do vậy, câu hỏi đặt ra hiện nay là phải chăng toàn cầu hóa đang chững lại? Việc trả lời câu hỏi này là một trong những cơ sở căn bản để Đại hội XIII của Đảng hoạch định đường lối phát triển đất nước trong những năm tiếp theo.

Xét về bản chất, “toàn cầu hóa” là quá trình hình thành nên “cái toàn cầu”, phân biệt với “cái khu vực” (chỉ liên quan đến những khu vực địa - kinh tế - chính trị nhất định trên thế giới), “cái phe, khối” (chỉ liên quan đến các tập hợp lực lượng trên thế giới), “cái quốc gia - dân tộc” (chỉ liên quan đến từng đất nước). Xã hội loài người ngày nay, với nền kinh tế thế giới, nền chính trị thế giới và nền văn minh nhân loại, cho thấy toàn cầu hóa đã tiến rất xa và sâu rộng; đồng thời, khẳng định “toàn cầu hóa” thực sự là một xu thế khách quan, không thể đảo ngược. Điều rõ ràng là, dù còn rất nhiều hạn chế, khiếm khuyết hay khuyết tật... trong cả ba hệ thống lớn nói trên, nhưng nhu cầu phát triển nội tại, tự thân của xã hội loài người chính là gốc rễ quy định xu thế toàn cầu hóa. Điều đáng chú ý là tiến trình toàn cầu hóa không diễn ra một cách tuyến tính, mà có những bước nhảy vọt, gắn với các cuộc cách mạng trong lực lượng sản xuất xã hội loài người. Có thể khẳng định rằng, trong thời gian tới, khi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0) bùng nổ, nhất định sẽ có bước nhảy vọt mới trong tiến trình toàn cầu hóa, toàn cầu hóa hoàn toàn không chững lại.

Sự gia tăng các hoạt động bảo hộ trong những năm gần đây không đồng nghĩa với việc chia cắt thị trường thế giới thành những thị trường quốc gia hay phe, khối biệt lập, không làm đứt đoạn các dòng đầu tư xuyên quốc gia, không làm mất đi các vấn đề toàn cầu nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế thế giới mà việc giải quyết chúng đòi hỏi phải tăng cường hợp tác và những nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế. Có chăng, chủ nghĩa bảo hộ chỉ đặt ra những “trở ngại” mới về thuế quan và phi thuế quan cho lưu thông hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, mà những trở ngại này luôn tồn tại trong tiến trình toàn cầu hóa. Những số liệu thống kê của thế giới về thương mại và đầu tư cho thấy rất rõ rằng, bất chấp sự gia tăng của các hoạt động bảo hộ trong những năm gần đây, thương mại thế giới và đầu tư quốc tế vẫn tăng lên.

Việc hình thành “cái toàn cầu” trong quá trình toàn cầu hóa kéo theo việc ra đời các định chế toàn cầu, như Liên hợp quốc và các tổ chức thuộc Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)... Các định chế này không phải là “nhất thành, bất biến”, cơ chế hoạt động của chúng phải luôn cần đổi mới, cập nhật cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của “cái toàn cầu”. Đây là sự thích nghi, bảo đảm sức sống, nâng cao tính hiệu quả của các định chế quốc tế, chứ không phải và càng không thể ngăn cản tiến trình toàn cầu hóa. Bước phát triển mới của toàn cầu hóa gắn với sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 tất yếu kéo theo những đổi mới, cải tổ, cải cách các định chế toàn cầu hiện có và có thể ra đời những định chế quản trị toàn cầu mới.

HAIVAN