Có
thể hiểu quá trình hội nhập quốc tế của một đất nước (quốc gia) là sự tham gia
vào hệ thống thế giới và trở thành một bộ phận cấu thành của chỉnh thể thế
giới, trước hết là bộ phận cấu thành của “nền kinh tế thế giới”, “nền chính trị
thế giới” và “nền văn minh nhân loại”. Sự tham gia ở đây là thông qua các hoạt
động tương tác (hợp tác, cạnh tranh và đấu tranh...) với các bộ phận cấu thành
khác nhau trong “hệ thống”, bao gồm cả việc gia nhập hay rút khỏi các “phân hệ”
khác nhau trong hệ thống. Tất cả các hoạt động này đều là hoạt động có chủ
đích, nhằm: 1- Phát triển quốc gia; 2- Khẳng định bản sắc quốc gia; 3- Giành vị
thế xứng đáng cho quốc gia trong hệ thống; 4- Tham gia hoàn thiện và phát triển
hệ thống...
Cần
loại bỏ lối suy nghĩ giản đơn nhưng cũng khá phổ biến hiện nay ở Việt Nam, rằng
“hội nhập quốc tế” là hình thức phát triển cao của “hợp tác quốc tế”. Vấn đề là
ở chỗ “hợp tác quốc tế” và “hội nhập quốc tế” là thuộc các lớp khái niệm khác
nhau. Hợp tác quốc tế chỉ là một trong nhiều phương thức tương tác giữa các
nước với nhau; bên cạnh hợp tác quốc tế còn có cạnh tranh, đấu tranh, liên
minh, liên kết, đối đầu, chiến tranh... Điểm cơ bản là ở chỗ, khác với khái
niệm “hội nhập quốc tế”, khái niệm “hợp tác quốc tế” không đề cập tới việc cấu
thành hệ thống chỉnh thể thế giới.
Để
đánh giá thực trạng hội nhập quốc tế của một quốc gia, cần lấy phạm vi, mức độ
tham gia và vị thế của quốc gia đó trong các mặt đời sống của cộng đồng quốc
tế, trong các hệ thống thế giới làm tiêu chí:
Về
chiều “rộng - hẹp”, có ba cấp độ hội
nhập: Một là, hội nhập hẹp, khi quốc gia hội nhập chỉ tham gia
một vài lĩnh vực trong đời sống cộng đồng quốc tế; hai là, hội
nhập tương đối rộng, khi quốc gia hội nhập tham gia phần lớn các lĩnh vực trong
đời sống cộng đồng quốc tế; ba là, hội nhập rộng, khi quốc gia
hội nhập tham gia tất cả các lĩnh vực trong đời sống cộng đồng quốc tế.
Về
chiều “nông - sâu”, cũng có ba cấp độ hội
nhập: Một là, hội nhập nông, khi quốc gia hội nhập hầu như không có
vị trí, vai trò trong cộng đồng quốc tế; hai là, hội nhập tương đối
sâu, khi quốc gia hội nhập có vị trí, vai trò nhất định trong cộng đồng quốc
tế; ba là, hội nhập sâu, khi quốc gia hội nhập có vị trí, vai trò
đáng kể trong cộng đồng quốc tế. Nói theo ngôn ngữ của lý thuyết hệ thống, hội
nhập sâu là trường hợp quốc gia hội nhập với tư cách là một bộ phận cấu thành
hệ thống, có ảnh hưởng đáng kể đến việc hình thành và phát triển “tính trồi”
(emergent) của cả hệ thống; còn hội nhập nông là trường hợp quốc gia hội nhập
hầu như không có ảnh hưởng đến việc hình thành và phát triển “tính trồi” của cả
hệ thống.
Với
cách tiếp cận trên, có thể thấy, sau hai thập niên chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế từ Đại hội IX của Đảng đến nay, Việt Nam từng bước tham gia tất cả
các lĩnh vực của đời sống chính trị - xã hội quốc tế; trở thành thành viên có
trách nhiệm, có vị trí, vai trò và ảnh hưởng nhất định trong cộng đồng quốc tế,
cả về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội... Điều đó có nghĩa là Việt Nam tích
cực hội nhập vào chỉnh thể thế giới. Do vậy, để phát triển đất nước trong bối
cảnh mới của “toàn cầu hóa” và giai đoạn mới của “hội nhập quốc tế”, cần quan
tâm một số vấn đề lớn sau:
Thứ
nhất, nhận thức đúng về “toàn cầu hóa” và “hội nhập quốc tế” để làm
cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất
nước, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đặc biệt, cần thấy rõ
bước phát triển mới của toàn cầu hóa trong những năm tới khi cuộc Cách mạng
công nghiệp 4.0 bùng nổ; từ đó, tính toán sách lược, chiến lược trong tiến
trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Thứ
hai, Việt Nam hiện tham gia các mặt đời sống chính trị - xã hội
quốc tế, tức là đã hội nhập rộng vào chỉnh thể thế giới, nhưng mới chỉ dừng ở
mức độ hội nhập tương đối sâu với vị trí, vai trò nhất định trong một số lĩnh vực.
Tiến trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam đã đưa Việt Nam
trở thành bộ phận cấu thành của chỉnh thể thế giới. Tới đây, cần xác định việc
giành lấy vị trí, vai trò ngày càng đáng kể trong nền kinh tế thế giới, nền
chính trị thế giới và nền văn minh nhân loại là nội dung chủ yếu của tiến trình
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Về
kinh tế, cần phấn đấu giành chỗ đứng trong
các chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu; ưu tiên thúc đẩy phát triển nhanh các
ngành kinh tế số và công nghiệp 4.0. Cơ hội đang mở ra cho Việt Nam ở thời hậu
dịch bệnh COVID-19, không được bỏ lỡ. Muốn thế, cần ưu tiên phát triển các mạng
kết nối Việt Nam với thế giới, cả “kết nối cứng” và “kết nối mềm”.
Về
chính trị, tiếp tục nâng cao vị thế của Việt
Nam trong quan hệ với các nước lớn, nhất là các nước Ủy viên Thường trực Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc, trong ASEAN. Chủ động tham gia xử lý các vấn đề quốc
tế và khu vực. Thể hiện vai trò của Việt Nam “là bạn, đối tác tin cậy, thành
viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
Về
văn hóa - xã hội, cần đẩy mạnh quảng bá
lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ Việt Nam với thế giới; bảo tồn và phát huy giá trị
của các di sản thiên nhiên, công viên địa chất, công viên sinh thái, di sản văn
hóa thế giới, cả vật thể lẫn phi vật thể; khẳng định các giá trị xã hội và
truyền thống tốt đẹp của Việt Nam, bản sắc Việt Nam; tích cực tham gia sáng tạo
các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, khoa học... có tầm ảnh hưởng quốc tế; tham
gia xử lý các vấn đề nhân đạo trên trường quốc tế; tham gia đấu tranh với các
hiện tượng, hoạt động phi văn hóa, phản văn hóa, chống lại nhân loại... Cần đặc
biệt quan tâm việc nhân thêm và phát huy “sức mạnh mềm” của đất nước, cạnh
tranh về “sức mạnh mềm” trên trường quốc tế. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công
nghiệp 4.0, các phương tiện truyền thông xã hội ngày càng có vai trò lớn trong
quảng bá văn hóa và cả trong “xâm lăng” văn hóa, lan tỏa các giá trị xã hội và
cả làm xói mòn các giá trị xã hội, phát huy “sức mạnh mềm” và cả hạn chế “sức
mạnh mềm” của các quốc gia, phát triển ổn định xã hội và cả gây bất ổn xã
hội... Phương tiện truyền thông xã hội trở thành một hiện tượng văn hóa, một
kênh thông tin, một công cụ quản trị. Bên cạnh việc tăng cường quản lý nhà nước
đối với các phương tiện truyền thông xã hội, một số nước chủ động sử dụng và
phát huy vai trò kênh thông tin, công cụ quản trị của các phương tiện truyền
thông này. Việt Nam cần có cách tiếp cận mới đối với các phương tiện truyền
thông xã hội, không chỉ dừng ở chỗ coi chúng là đối tượng quản lý.
Thứ
ba, khi triển khai các hoạt động hội nhập quốc tế, luôn nảy sinh
những vấn đề cần xử lý về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích
cực hội nhập quốc tế. Đơn cử như, trong tiến trình hội nhập quốc tế, cần luôn
điều chỉnh, sửa đổi hệ thống pháp luật trong nước, tuy nhiên, phải có lộ trình,
bước đi cẩn trọng, để vừa củng cố độc lập, tự chủ, vừa hội nhập quốc tế thành
công. Hay là vấn đề đối phó với nguy cơ lệ thuộc vào thị trường bên ngoài, lệ
thuộc kinh tế dẫn đến lệ thuộc về chính trị...; hoặc vấn đề phải đối phó với sự
xâm lăng văn hóa, xử lý hiện tượng giao thoa văn hóa trong hội nhập quốc tế,
những mâu thuẫn trong xây dựng con người Việt Nam dưới tác động của trào lưu
hình thành công dân toàn cầu, sự xâm nhập của các giá trị xã hội không phù hợp
đối với nước ta...
Thứ
tư, Việt Nam cần chủ động và tích cực tham gia vào việc đổi mới,
cải tổ, cải cách hay thiết lập các định chế toàn cầu và khu vực; đóng góp nhiều
hơn vào xây dựng “luật chơi”, coi đây là lợi ích quan trọng của quốc gia.
Thứ
năm, trong quá trình hội nhập quốc tế, luôn nảy sinh ngày càng
nhiều những tranh chấp. Ngoài những cơ chế quốc tế phổ biến, thế giới còn có
những cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế mang tính khu biệt, chuyên ngành mà
ta chưa có nhiều kinh nghiệm. Do đó, vấn đề cấp bách trong quá trình hội nhập
là nâng cao năng lực phòng, chống, xử lý, giải quyết những tranh chấp quốc tế,
gắn với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên sâu về các lĩnh vực này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét