Thứ Hai, 24 tháng 6, 2024

Mở đợt thi đua nước rút hoàn thành xây dựng đường dây 500kV mạch 3.

 Thủ tướng yêu cầu mở đợt thi đua cao điểm đặc biệt, “nước rút”, phấn đấu hoàn thành cơ bản việc dựng cột, kéo dây, thử nghiệm trong tháng 6/2024 để tháng 7/2024 tiến hành kiểm tra, làm thủ tục vận hành kỹ thuật, nghiệm thu, hoàn nguyên môi trường và khánh thành dự án, đưa đường dây tải điện 500kV mạch 3 vào hoạt động.

 Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu chỉ đạo. Ảnh: Dương Giang/TTXVN

Tiếp tục kiểm tra, đôn đốc thực hiện dự án Đường dây tải điện 500kV mạch 3 Quảng Trạch - Phố Nối, sáng 23/6, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính kiểm tra triển khai dự án đoạn qua tỉnh Nghệ An và làm việc với lãnh đạo tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và các bộ, ngành, cơ quan liên quan nhằm thúc đẩy triển khai dự án đảm bảo tiến độ.

Thủ tướng Chính phủ và Đoàn công tác đã kiểm tra tình hình thi công dựng cột VT22 tại xã Quỳnh Trang, thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An, thuộc dự án thành phần đường dây 500kV Quỳnh Lưu – Thanh Hóa, có chiều dài 92km, với 200 móng cột (Nghệ An 34 móng cột; Thanh Hóa 166 móng cột).

Vui mừng trước không khí thi công khẩn trương tại công trường dựng cột VT22, có chiều cao tới 88m, khối lượng thép dựng cột trên 200 tấn, việc thi công xây dựng cột trong điều kiện địa hình khó khăn phức tạp, thời tiết bất lợi, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính biểu dương lực lượng thi công được điều động từ nhiều vùng miền của đất nước về chi viện cho dự án, cũng như sự chung tay góp sức của lực lượng tại chỗ của địa phương như đoàn thanh niên… hỗ trợ, tiếp tế phục vụ thi công; các đơn vị nhà thầu không chỉ sử dụng thiết bị, phương tiện hiện đại mà có nhiều sáng kiến kỹ thuật, vận chuyển nguyên vật liệu, xây lắp…

Mở đợt thi đua "nước rút" để hoàn thành đường dây 500KV mạch 3 (Nguồn: vtvgo.vn)

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu lực lượng thi công và nhân dân địa phương tiếp tục phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau thúc đẩy triển khai dự án, đồng thời tổ chức hoàn nguyên, trả lại cảnh quan, môi trường; mong muốn đoàn viên, thanh niên địa phương tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, truyền thống yêu nước, tích cực tham gia dự án, cũng như các phong trào, công trình, dự án quốc gia khác, vì lợi ích đất nước và quê hương; phấn đấu hoàn thành lắp dựng cột vào ngày 27/6.

* Sau khi kiểm tra thực địa thực hiện dự án Đường dây tải điện 500kV mạch 3 Quảng Trạch - Phố Nối tại các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh, tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã làm việc với lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan liên quan và các địa phương nhằm thúc đẩy triển khai dự án đảm bảo tiến độ.

Báo cáo tại buổi làm việc, lãnh đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam cho biết, Dự án đường dây tải điện 500kV mạch 3 từ Phố Nối - Quảng Trạch có tổng chiều dài khoảng 519km; tổng mức đầu tư khoảng 22.356 tỷ đồng. Dự án gồm 4 dự án thành phần: Quảng Trạch – Quỳnh Lưu; Quỳnh Lưu – Thanh Hóa; Thanh Hóa - Nhà máy nhiệt điện Nam Định 1 và Nhà máy nhiệt điện Nam Định 1 – Phố Nối. Các dự án thành phần được khởi công tháng 10/2023 và tháng 1/2024.

Toàn dự án có 1.177 vị trí cột, trong đó, tại Nghệ An có hơn 200 móng cột, Hà Tĩnh có gần 285 móng cột và Thanh Hóa có 299 móng cột. Như vậy, đường dây đi qua 3 tỉnh kể trên chiếm khoảng 2/3 móng cột của đường dây tải điện 500kV mạch 3 Quảng Trạch – Phố Nối.

Với tinh thần triển khai “thần tốc” theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, đến nay, các phần giải phóng mặt bằng, hành lang tuyến, đúc móng cột đã hoàn thành; đang tập trung dựng cột và kéo dây; phấn đấu cơ bản hoàn thành công tác xây dựng trong tháng 6/2024 để sang tháng 7/2024 tổ chức nghiệm thu, đưa đường dây tải điện vào khai thác.

Tại cuộc làm việc, các bộ, ngành và địa phương cũng báo cáo và đề xuất một số nhiệm vụ, nhằm thúc đẩy dự án như việc vận chuyển vật liệu, thiết bị; chuyển đổi mục đích sử dụng đất, rừng; huy động nhân lực có trình độ kỹ thuật, kinh nghiệm, tay nghề cao cho dự án…

Kết luận cuộc làm việc, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, dự án Đường dây tải điện 500kV mạch 3 Quảng Trạch - Phố Nối là công trình có yêu cầu kỹ thuật cao, khối lượng công việc lớn. Với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt; lãnh đạo, chỉ đạo có trọng tâm, trọng điểm, kế thừa thành quả, kinh nghiệm các đường dây trước đây; với tư duy, phương pháp luận, cách làm phù hợp, mặc dù mới được triển khai khoảng 6 tháng, song dự án đã đạt khối lượng công việc khổng lồ, tương đương với công việc thực hiện của 2-3 năm, với chất lượng, kỹ thuật, mỹ thuật công trình được đảm bảo; an toàn lao động, bảo vệ môi trường, đời sống của người dân có đường điện đi qua, nhường mặt bằng cho dự án được đảm bảo.

Thủ tướng đánh giá cao tinh thần chủ động, quyết tâm cao, quyết liệt hoàn thành nhiệm vụ được giao của các bộ, ngành, địa phương và các lực lượng tham gia dự án, nhất là các lãnh đạo và cán bộ, công nhân đã “lăn lộn trên công trường, thậm chí cử cả người sang nước ngoài, kiểm từng contairner để đưa thiết bị về nước”; biểu dương và cảm ơn đội ngũ cán bộ, kỹ sư, công nhân các đơn vị của ngành điện trên khắp mọi miền đất nước đã về hỗ trợ triển khai dự án, lao động hăng say trong thời tiết nắng gắt của miền Trung; cảm ơn nhân dân đã nhường đất cho dự án; bà con, các đoàn thể như phụ nữ, cựu chiến binh và đặc biệt là đoàn thanh niên đã tiếp sức cho các lực lượng thi công và tham gia các phần việc có thể.

“Trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt, khi nắng thì như đổ lửa, khi mưa lại như trút nước, nhưng toàn thể lực lượng tham gia dự án đã nỗ lực không ngừng nghỉ, vượt qua mọi thách thức đạt được tiến độ rất tốt”, Thủ tướng chỉ rõ.

Thủ tướng động viên kỹ sư, công nhân các đơn vị đang thi công dự án Đường dây tải điện 500kV mạch 3 Quảng Trạch - Phố Nối đoạn qua tỉnh Nghệ An. Ảnh: Dương Giang/TTXVN.

Nêu các bài học kinh nghiệm để có được thành công trong việc triển khai dự án cả trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, tổ chức thực hiện…, Thủ tướng nêu rõ phải có quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ sản phẩm, từ đó dễ kiểm tra, giám sát, đánh giá; bố trí các nguồn vốn, tập trung nguồn lực cho dự án; khi triển khai phải huy động cả hệ thống chính trị địa phương vào cuộc, hoàn thành công tác giải phóng mặt bằng trước và huy động lực lượng tại chỗ, phương tiện tại chỗ cho dự án, với tinh thần “đồng lòng, quyết chí, toàn dân, toàn diện, tổng thể” và hiệu quả.

Sau khi có mặt bằng thì phải khẩn trương triển khai đồng loạt, đồng bộ, nhịp nhàng với tinh thần “móng không đợi cột, cột không đợi dây” và “nguồn lực bắt nguồn từ tư duy; động lực bắt nguồn từ sự đổi mới; sức mạnh bắt nguồn từ nhân dân”, “biến không thành có, biến khó thành dễ, biến không thể thành có thể”, phát huy tinh thần “vượt nắng, thắng mưa”, “làm việc 3 ca, 4 kíp”, “ăn tranh thủ, ngủ khẩn trương”, “xuyên ngày nghỉ, xuyên lễ, xuyên Tết”, “chỉ bàn làm, không bàn lùi”, thi công đồng bộ trên tất cả các vị trí, công đoạn, công việc thuộc phạm vi dự án…

Thời gian tới, Thủ tướng yêu cầu mở đợt thi đua cao điểm đặc biệt, “nước rút”, phấn đấu hoàn thành cơ bản việc dựng cột, kéo dây, thử nghiệm trong tháng 6/2024 để tháng 7/2024 tiến hành kiểm tra, làm thủ tục vận hành kỹ thuật, nghiệm thu, hoàn nguyên môi trường và khánh thành dự án, đưa đường dây tải điện 500kV mạch 3 vào hoạt động.

Thủ tướng chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam huy động và dồn lực cho dựng cột, kéo dây, vận hành các trạm biến áp, triển khai các thủ tục cần thiết; quan tâm chăm sóc, đảm bảo sức khỏe cho lực lượng thi công trên công trường.

Các địa phương phối hợp bàn giao hành lang tuyến, huy động lực lượng thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh… hỗ trợ triển khai các công việc khác như vận chuyển nguyên vật liệu, trang thiết bị, phục vụ hậu cần, ăn ở… để công nhân tập trung làm việc; đồng thời rà soát, bảo đảm người dân đã nhường mặt bằng cho dự án đã có cuộc sống tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ.

Các bộ ngành rà soát, tiếp tục triển khai các công việc, xử lý các vấn đề theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao như vướng mắc liên quan tới chuyển đổi đất rừng…

Các cơ quan truyền thông tăng cường thông tin thành quả triển khai dự án; đồng thời phân tích bài học hay, kinh nghiệm quý, nhất là trong công tác chỉ đạo, huy động nguồn lực, sự phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương, đơn vị trong triển khai dự án để truyền cảm hứng, áp dụng trong công tác chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện cho các dự án sau này; góp phần xây dựng đất nước ta ngày một hùng cường, thịnh vượng, người dân ngày càng hạnh phúc, ấm no./. 

Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2024

Nguồn cảm hứng cho vị Đại tướng đọc thơ

 

Mỗi lần trở lại thăm Trường Sĩ quan Chính trị, tôi như được trẻ lại trong bầu không khí tươi vui, tràn đầy nhiệt huyết của những con người luôn khát khao dâng hiến trí tuệ và sức lực cho sự nghiệp đào tạo cán bộ chính trị.

Mùa thi dặm dài nỗi nhớ

 

Chiều đi trên phố, nắng chiếu nghiêng nghiêng vẽ bóng người đổ dài dưới mặt đường. Con phố nhỏ có hàng cây xanh mát khẽ xao động khi có gió thoảng qua. Dừng xe bên quán nước vỉa hè, tôi gọi cốc trà đá mát lạnh. Ngồi ngắm nhìn phố xá, dòng người vẫn hối hả ngược xuôi. Chiếc xe máy từ từ đỗ lại. Người đàn ông trông vẻ khắc khổ cất lời:

Gia đình là động lực

 

Gắn bó với Viện Y học dự phòng Quân đội tròn 11 năm, Thiếu tá Võ Sơn Tùng đã đóng góp nhiều đề tài, sáng kiến cho Viện, cho Cục Quân y, Tổng cục Hậu cần và giành được nhiều giải thưởng. Để có những thành công ấy, theo anh Tùng, phía sau anh luôn có điểm tựa gia đình vững chắc, giúp anh vững bước trên con đường quân ngũ.

Sân chơi bổ ích dịp hè về

 

Với các em học sinh đồng bào dân tộc thiểu số vùng dự án Khu Kinh tế-Quốc phòng (KT-QP) A So-A Lưới (huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế), những ngày hè năm 2024 thực sự bổ ích khi được tham gia lớp dạy bơi miễn phí do Đoàn KT-QP 92 (Quân khu 4) phối hợp với Huyện đoàn A Lưới tổ chức. Thông qua lớp học, các em được đào tạo bài bản về kỹ năng bơi lội, cách phòng tránh tai nạn đuối nước, đồng thời tạo môi trường học tập, vui chơi lành mạnh, an toàn.

Cảnh giác trước các "tin bẩn"

 

Mọi người cần hết sức cảnh giác trước những thông tin suy diễn, không có kiểm chứng đăng trên mạng xã hội; đồng thời kiến nghị với Đảng, Nhà nước cần chỉ đạo các cơ quan chức năng nghiên cứu, đưa ra giải pháp hữu hiệu phòng, chống “tin bẩn”.

"Tôi không lạc đề"!

 

Họp Đảng ủy xã đánh giá về công tác phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đồng chí Lê là Đảng ủy viên, Bí thư Chi bộ thôn Đoài phát biểu thẳng thắn:

Trái ngọt cho những nỗ lực, cố gắng

 

Là kỹ sư của Khoa Trang bị, Bệnh viện Quân y 4, Cục Hậu cần Quân khu 4, công việc của Thiếu tá Nguyễn Thị Tâm được ví như bác sĩ của các loại máy móc.

Ước mơ của chiến sĩ Sùng Sinh

 

Được phục vụ lâu dài trong Quân đội, trở thành sĩ quan Hải quân là ước mơ của Trung sĩ Sùng Sinh, người dân tộc Mông, chiến sĩ Trạm ra-đa 485, Trung đoàn 151, Vùng 1 Hải quân.

Câu chuyện sau những tấm ảnh liệt sĩ

 

Mới đây, chúng tôi tham gia cùng nhóm phục dựng ảnh chân dung liệt sĩ do anh Phùng Quang Trung phụ trách và đoàn làm phim tài liệu của Điện ảnh Quân đội nhân dân dự chương trình “Thanh Miện quê hương - Ngày trở về” tại huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.

Những bữa ăn đặc biệt giữa trùng khơi

 

Để đến được với Trường Sa là điều không hề dễ dàng, cần có một sức khỏe tốt để vượt qua hàng nghìn hải lý với điều kiện thời tiết, sóng gió trên biển bất thường. Vì vậy mới thấy vai trò quan trọng của những "anh nuôi" trên các tàu chở đoàn đại biểu đến thăm Trường Sa. Họ là những người thầm lặng đứng sau bảo đảm sức khỏe cho cả đoàn công tác để có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ đề ra.

Nữ bác sĩ quân y hết mình vì nhiệm vụ​

 

Đến Bệnh viện Quân y 120, Cục Hậu cần Quân khu 9 nhiều người đều biết đến Thiếu tá, bác sĩ chuyên khoa 1 Phạm Thị Ánh Tuyết, Chủ nhiệm Khoa Cán bộ, Phó chủ tịch Hội Phụ nữ Bệnh viện Quân y 120.

Mỗi đảng viên phải có trách nhiệm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

 ĐCSVN) - Mỗi đảng viên phải ý thức rõ trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bởi vì danh dự và uy tín của Đảng không thể tách rời danh dự, uy tín của mỗi đảng viên

Ngày 22/10/2018, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Nghị quyết khẳng định và tiếp tục cụ thể hóa: “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là bảo vệ Đảng, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”.

Đảng viên phải ý thức rõ trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Với góc nhìn của một đảng viên sinh hoạt chi bộ tại địa bàn dân cư, tôi thấy có những vấn đề cần trao đổi, thảo luận để làm sáng tỏ nhiệm vụ của người đảng viên trong nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Trong sinh hoạt hằng ngày, khi tiếp xúc với mọi người, mọi thành phần trong xã hội, chúng ta không thể không nghe những tiếng khen, lời chê hoặc phê phán sự lãnh đạo của Đảng, công tác quản lý, điều hành xã hội của Nhà nước. Có những lời khen đúng, chê hoặc phê bình đúng, cần phải nghe để kiến nghị các cấp sửa chữa làm cho tốt hơn. Song, cũng có những sự phê phán, phản bác với luận điệu sai trái, thù địch, chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ ... Là đảng viên, chúng ta cần nhìn cho đúng bản chất của từng sự việc để chống lại, phản bác, đấu tranh lại những luận điệu sai trái của những cá nhân, thế lực thù địch!

Nếu chú ý một chút, chúng ta có thể thấy các thế lực thù địch, những cá nhân phản động, những người trước kia hoạt động cách mạng hoặc công tác trong cơ quan Đảng, Nhà nước, nhưng do bất mãn hoặc vì lý do nào đó đã quay ngoắt lại nói xấu Đảng, Nhà nước, xuyên tạc, bóp méo sự thật lịch sử ...

Đối với Đảng và Nhà nước ta, các thế lực thù địch, cá nhân phản động, cơ hội... thường lu loa rằng: Đảng không thể chống tham nhũng thành công, vì chế độ độc đảng cầm quyền sẽ thủ tiêu đấu tranh; muốn chống tham nhũng thành công thì phải mở rộng dân chủ, thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; chia sẻ trên mạng xã hội những bài viết có nội dung xuyên tạc, phỉ báng Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta; nói xấu, xúc phạm lãnh tụ, lãnh đạo Đảng, Nhà nước; xuyên tạc, bôi nhọ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chê bai quản lý yếu kém, tham nhũng; bịa đặt, suy diễn thiếu căn cứ gây hiểu lầm, hoang mang trên cộng đồng mạng và trong nhân dân nhằm làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ... Trên thực tế ở nơi này, nơi khác, có những đảng viên vẫn còn sinh hoạt đảng, lại đi nói xấu Đảng, phê phán đường lối, chủ trương của Đảng thiếu căn cứ, nói ẩu, nói bừa. Có người nói thẳng rằng còn ở trong đảng là vì quyền lợi chính trị của gia đình mình, chứ thật tình không thiết tha gì với lý tưởng của Đảng. Chính vì thấy được thực trạng đó, nên Đảng mới chỉ ra sự thoái hóa chính trị “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”...của một bộ phận đảng viên.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và công nghệ thông tin, mạng xã hội phát triển mạnh mẽ, các thế lực thù địch tăng cường móc nối, cấu kết với những phần tử cơ hội chính trị, ra sức xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng, với ý đồ làm lung lay nhận thức, niềm tin của nhân dân vào chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng; lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, khoét sâu những yếu kém, sơ hở, mất cảnh giác của ta để bóp méo, xuyên tạc sự thật... Thời điểm họ xuyên tạc thường vào những dịp, những sự kiện lớn như: đại hội đảng các cấp, toàn quốc, hay mới đây là dịp kỷ niệm 46 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước(30/4/1975 - 30/4/2021) và cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội Khóa XV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026.... Luận điệu nói xấu, xuyên tạc là nhằm hạ thấp ý nghĩa to lớn của chiến thắng giải phóng hoàn toàn miền Nam; rằng giải phóng được Sài Gòn gần như nguyên vẹn là nhờ trước đó Dương Văn Minh đã “chủ động hoà hợp hoà giải”; hay “Việt Nam không nên kỷ niệm Ngày Chiến thắng 30/4 nếu muốn hòa hợp dân tộc”! Còn trong cuộc bầu cử, chúng xuyên tạc rằng việc bầu cử ở nước ta chỉ là hình thức, không minh bạch, không dân chủ; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác bầu cử; bịa đặt, tung tin sai sự thật về công tác nhân sự; kích động, kêu gọi người dân không tham gia bầu cử; lợi dụng việc "tự ứng cử" để gây rối; kêu gọi cử tri “tẩy chay bầu cử”, “không đi bỏ phiếu”, “bỏ phiếu trắng”… với mong muốn tỷ lệ cử tri tham gia bầu cử thấp. Và hơn thế nữa, thông qua việc tuyên truyền với luận điệu “tẩy chay bầu cử”, các thế lực phản động, thù địch còn muốn phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phục vụ cho các âm mưu, hoạt động chống phá của chúng.

Hơn ai hết, nhân dân Việt Nam biết rất rõ về tình hình đất nước của mình. Trong 46 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành của Nhà nước, kinh tế Việt Nam không ngừng phát triển , đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện. Những thành tựu trong thực hiện công cuộc đổi mới đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Nghị quyết số 35-NQ/TW “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, chính là kim chỉ nam hành động của toàn thể đảng viênvà Nhân dân ta nhằm đề cao cảnh giác, không bị động, lúng túng trước những luận điệu và âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, những cá nhân phản động, bất mãn chế độ. Quá trình thực hiện tốt Nghị quyết 35-NQ/TW sẽ giúp cho từng đảng viên nhìn lại mình, nâng cao nhận thức trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Cụ thể hơn, trong mỗi cuộc họp chi bộ, trong cuộc sống hằng ngày, mỗi đảng viên từ lời nói, việc làm phải là hạt nhân của sự đoàn kết ở địa phương, trong cơ quan, nơi cư trú... Mặt khác, mỗi đảng viên khi tham gia mạng xã hội, cần thận trọng khi tham khảo, sử dụng thông tin đăng tải trên mạng xã hội. Nếu nhận thấy có thông tin thiếu kiểm chứng về nguồn gốc, thông tin có sự sai biệt so với thông tin chính thức, thông tin có nội dung, luận điệu xuyên tạc, đả kích nền tảng tư tưởng của Đảng, nói xấu Đảng, Nhà nước và chế độ... thì phải có ý kiến đấu tranh,phản bác lại những thông tin sai trái đó một cách sắc bén; không im lặng cho qua hoặc thờ ơ, xem như mình vô can. Mỗi đảng viên phải ý thức rõ trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bởi vì danh dự và uy tín của Đảng không thể tách rời danh dự, uy tín của mỗi đảng viên./.

                                                                                            Nguon: dangcongsan.vn

Sáng tạo lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới

 TCCS - Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đại hội XIII của Đảng khẳng định, sau 35 năm đổi mới, “lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”(1). Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua hơn 35 năm đổi mới cho thấy sự sáng tạo lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm gia đình có công với cách mạng ở Bản Sáng, xã Quang Chiểu , huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa _Ảnh: TTXVN

Lý luận về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam có vị trí then chốt, vai trò bao trùm trong hệ thống lý luận chính trị, phản ánh mô hình tổng thể, đặc trưng bản chất của chế độ chính trị gắn với mục tiêu, phương thức, con đường phát triển đất nước. Đóng vị trí then chốt, vì lý luận này chế định đến các phân hệ - lĩnh vực khác của lý luận chính trị; đóng vai trò bao trùm vì nó thiết kế nên mô hình CNXH ở Việt Nam và vạch ra con đường hiện thực hóa từng bước mô hình đó trong từng chặng đường, từng bước phát triển.

Đặc trưng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam

Xác định mô hình CNXH với những đặc trưng cấu trúc phản ánh chất lượng phát triển của mô hình ở dạng hoàn chỉnh trong tương lai là một trong những vấn đề lý luận cơ bản đầy khó khăn, phức tạp, luôn được Đảng ta bổ sung, phát triển gắn với những bước tiến của tư duy, nhận thức. Trước đây, các nhà sáng lập CNXH khoa học chỉ mới đưa ra một số phác thảo cơ bản có tính dự báo về đặc trưng của CNXH dựa trên sự phân tích của các ông về các hình thái kinh tế - xã hội mà loài người đã trải qua trong lịch sử, đặc biệt là những giới hạn cần phải “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa. Thực tiễn phát triển của CNXH cho thấy, CNXH về bản chất và mục tiêu là thống nhất, nhưng mô hình phát triển ở thời kỳ quá độ rất đa dạng, phong phú, do chế định bởi trình độ phát triển, đặc thù về lịch sử, văn hóa của từng quốc gia - dân tộc. Trên nền tảng chủ nghĩa duy vật biện chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp cận CNXH từ nhiều phương diện khác nhau: Từ chủ nghĩa yêu nước và khát vọng giải phóng dân tộc, từ phương diện đạo đức, từ góc độ văn hóa, từ chủ nghĩa nhân văn. Người kiến tạo đặc trưng CNXH là một chế độ phản ánh chất lượng phát triển mới, trình độ phát triển mới thực sự ưu việt, đầy tính nhân văn cao cả. “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”(2). Người khẳng định: “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”(3). Đối với Việt Nam, CNXH là con đường phát triển tất yếu do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo “nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”(4). Những thành quả to lớn của cách mạng Việt Nam trong gần thế kỷ qua càng chứng minh giá trị và sức sống mãnh liệt của tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là tư tưởng về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.

Ngay từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định dứt khoát, đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa (XHCN) mà làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về CNXH, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp. Đồng thời, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI đã thành lập Tiểu ban nghiên cứu, xây dựng “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, mà cốt lõi chính là xác định rõ mô hình CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam trong điều kiện mô hình CNXH hiện thực ở các nước Đông Âu, Liên Xô rơi vào khủng hoảng, rồi sụp đổ; công cuộc đổi mới ở nước ta mới bắt đầu khởi động; môi trường chiến lược toàn cầu thay đổi nhanh chóng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) được công bố vào lúc mà CNXH hiện thực ở các nước Đông Âu, Liên Xô sụp đổ dây chuyền đã thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, đồng thời đặt ra cho Đảng ta yêu cầu phải phát huy cao độ sức sáng tạo lý luận để tìm tòi mô hình CNXH và con đường đi lên CNXH phù hợp thực tiễn đất nước và đặc điểm thời đại, khắc phục chủ nghĩa giáo điều dưới mọi hình thức và phòng ngừa chủ nghĩa cơ hội, nguy cơ chệch hướng XHCN.

Sáng tạo lý luận của Đảng thể hiện ở xác định mô hình CNXH Việt Nam với 6 đặc trưng. Đó là: 1- Do nhân dân lao động làm chủ; 2- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; 3- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; 4- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; 5- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; 6- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Đây là những đặc trưng cấu trúc phản ánh bản chất hay mục tiêu cơ bản, chất lượng phát triển của CNXH ở Việt Nam mà nhân dân ta phấn đấu xây dựng và hướng tới dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Chính thực tiễn công cuộc đổi mới giúp Đảng ta có những hiểu biết, nhận thức mới về CNXH. Vì vậy, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung, phát triển thành 8 đặc trưng của CNXH Việt Nam: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(5).

So với Cương lĩnh năm 1991 thì Cương lĩnh năm 2011 đã bổ sung 2 đặc trưng mới, đó là “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạoVới 8 đặc trưng này, CNXH mà nhân dân ta phấn đấu xây dựng là “một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người”(6). Đây cũng là mô hình CNXH “hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm(7). Cùng với sự phát triển của công cuộc đổi mới, bên cạnh việc xác định rõ những đặc trưng bản chất, cốt lõi của CNXH, Đảng ta ngày càng có những nhận thức đầy đủ hơn về thời kỳ quá độ lên CNXH, nhất là phương thức hiện thực hóa mục tiêu XHCN trong từng chặng đường phát triển đất nước phù hợp quy luật khách quan.

Các đặc trưng mô hình CNXH phản ánh mục tiêu mang tính bản chất của chế độ XHCN nêu trong Cương lĩnh đã trở thành ngọn cờ quy tụ, tập hợp lực lượng toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là đích hướng tới chứa đựng lý tưởng khoa học, động cơ đạo đức, vì dân tộc trường tồn, đất nước phát triển, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, vì tiến bộ xã hội và lương tri, phẩm giá con người, vì một thế giới tốt đẹp hơn. Mang lý tưởng khoa học nên đích hướng tới được luận chứng bằng căn cứ khoa học, khắc phục những quan niệm chủ quan, giáo điều trước đómang động cơ đạo đức nên CNXH hướng tới giá trị cao đẹpkhác với động cơ vụ lợi, hành động xu thời, cơ hội chủ nghĩa. Đặc trưng CNXH nêu trên không chỉ thể hiện ở dạng cấu trúc hoàn chỉnh phải định hướng cho tương lai, mà còn phải từng bước được hiện thực hóa, định hình trong quá trình đổi mới đất nước mà người dân được chứng thực bằng chất lượng sống cải thiện hằng ngày, bằng sức mạnh, tiềm lực, uy tín và vị thế đất nước được nâng lên.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thăm hỏi công nhân, nông dân vùng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao tại tỉnh Nghệ An _Ảnh: TTXVN

Tính đan xen phức tạp và đấu tranh gian khổ, lâu dài giữa cái mới với cái cũ, cái tiến bộ với cái thoái bộ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Muốn đạt tới mục tiêu chủ nghĩa cộng sản, tất yếu phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài với tư cách là những nấc thang trung gian - như chỉ dẫn của C. Mác và Ph. Ăng-ghen: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản(8). Trên cơ sở lý luận về sự phát triển “rút ngắn”, “không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” với tư cách là hình thức quá độ “gián tiếp” đi lên CNXH được các nhà sáng lập CNXH khoa học khởi phát, V.I. Lê-nin cho rằng, “cần phải có một thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”(9) gắn với những điều kiện và biện pháp để thực hiện bước quá độ ấy.

Trước đổi mới, Đảng ta chưa nhận thức đầy đủ về thời kỳ quá độ lên CNXH là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường với những bước đi trung gian; vì vậy, đã vấp phải tư tưởng nóng vội, chủ quan, duy ý chí, bắt hiện thực khuôn theo các đặc trưng CNXH ở dạng cấu trúc hoàn chỉnh của tương lai. Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986), trong khi khởi xướng đường lối đổi mới, đã khắc phục tư tưởng “đốt cháy giai đoạn” nêu trên bằng việc “chặng đường hóa”, “lộ trình hóa” cho cả thời kỳ quá độ với khẳng định: “Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng”(10). Trong đó, “chặng đường đầu tiên” là bước quá độ nhỏ trong bước quá độ lớn với mục tiêu đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề vững chắc cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cương lĩnh năm 1991 xác định: “Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường. Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau”.

Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001), trên cơ sở tổng kết thực tiễn 15 năm đổi mới, đã lượng hóa những cái phải “bỏ qua”, lượng giá những cái cần “kế thừa” chủ nghĩa tư bản để thực hiện quá độ lên CNXH: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”(11); đồng thời, khẳng định “xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ(12). Tính đan xen, khó khăn, phức tạp của thời kỳ quá độ được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế”(13).

Với những thành tựu lý luận hiện nay, phân kỳ thời kỳ quá độ được xác định gồm: “Chặng đường đầu tiên” có nhiệm vụ tạo trạng thái ổn định vững chắc để chuẩn bị tiền đề thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - “Chặng đường thứ hai” của thời kỳ quá độ - nhằm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Trù liệu ban đầu của Đảng là hoàn thành cơ bản mục tiêu của “Chặng đường thứ hai” vào năm 2020, nhưng vì nhiều lý do khác nhau, chúng ta đã phải điều chỉnh lộ trình. Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu đến năm 2025 nước ta là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao, là một cách diễn đạt về điều chỉnh lộ trình tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xác định nội dung cho chặng đường “hậu công nghiệp hóa” là phấn đấu trở thành nước phát triển.

Cương lĩnh năm 2011 của Đảng xác định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử... Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”(14). Như vậy, nhận thức lý luận về thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam từng bước được bổ sung, phát triển, ngày càng hoàn thiện. Đó là cơ sở để Đảng ta tiếp tục khẳng định, thực hiện quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, khó khăn, phức tạp; vì thế, phải kiên trì, không chủ quan, nóng vội; phải xuất phát từ thực tiễn của đất nước, tôn trọng quy luật khách quan, tránh giáo điều, rập khuôn, máy móc. Thành công hay thất bại của sự nghiệp xây dựng CNXH phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, của bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, như khẳng định của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”(15).

Ứng dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất _Nguồn: vapa.org.vn

Phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam

Phương hướng xây dựng CNXH Việt Nam là một nội dung quan trọng, luôn được Đảng nhận thức, bổ sung phù hợp với từng giai đoạn. Đại hội VI (năm 1986) nêu tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN. Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh theo con đường XHCN, điều quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế - xã hội kém phát triển, vượt qua mọi rào cản đối với công cuộc xây dựng CNXH.

Cương lĩnh năm 1991 của Đảng xác định phương hướng cơ bản là: 1- Xây dựng nhà nước XHCN, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân; 2- Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại; không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; thiết lập từng bước quan hệ sản xuất XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu; 3- Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN; 4- Tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa; 5- Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước; 6- Xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam; nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng; 7- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn nhiệm vụ lãnh đạo sự nghiệp cách mạng XHCN ở nước ta.

Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh năm 2011 đã bổ sung, phát triển thành 8 phương hướng: 1- Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; 2- Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; 3- Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; 4- Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; 5- Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; 6- Xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất; 7- Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; 8- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Trong các phương hướng xây dựng CNXH Việt Nam, sáng tạo lý luận quan trọng thể hiện ở việc Đảng ta xác định 3 trụ cột: Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho phát triển đất nướcKinh tế thị trường định hướng XHCN là công cụ, phương tiện giải phóng sức sản xuất, phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH Việt Nam; Nhà nước pháp quyền XHCN là hình thức tối ưu bảo đảm quyền lực nhà nước của nhân dân và thực thi, bảo vệ  quyền dân chủ của nhân dân.

Nhận thức về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN được bắt đầu từ khi đất nước bước vào đổi mới và tiếp tục được bổ sung qua các nhiệm kỳ đại hội của Đảng. Đại hội XIII của Đảng yêu cầu thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, đó là “nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”. Theo đó, việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường là một trong ba khâu đột phá chiến lược, được Đảng ta xác định từ Đại hội XI. Điểm mới lần này là nội hàm được xác định rộng và cụ thể hơn, đó là “hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”(16)

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng”(17) của Đảng. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho CNXH, nâng cao đời sống của nhân dân. Kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây chính là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Mô hình kinh tế này bảo đảm tính thống nhất giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Chính thực tiễn phát triển mô hình kinh tế này đã “đem lại những thay đổi to lớn, rất tốt đẹp cho đất nước trong 35 năm qua”(18).

Tổng kết việc xây dựng Nhà nước cách mạng Việt Nam, có thể thấy, trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã kế thừa các giá trị phổ quát của nhà nước pháp quyền trong lịch sử nhân loại, đồng thời sáng tạo nên những giá trị riêng có của Việt Nam. Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được Đảng xác định là một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng để hiện thực hóa các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình đi lên CNXH ở nước ta.

Cương lĩnh năm 2011 khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”(19)

Đại hội XIII của Đảng xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Sự vận hành của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải tuân thủ nghiêm túc “nguyên tắc pháp quyền”, giải quyết tốt mối quan hệ giữa “Nhà nước, thị trường và xã hội”, từ đó Nhà nước tạo lập, dẫn dắt, kiến tạo môi trường chính trị, pháp lý, xã hội để các chủ thể kinh tế - xã hội hoạt động thuận lợi, cạnh tranh lành mạnh, phát huy tối đa năng lực, sức sáng tạo và nguồn lực, lợi thế của mình. Để thực hiện được định hướng này, Đại hội XIII của Đảng xác định rõ mục tiêu “xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động”, “lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”(20). Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định.

Thực tiễn đổi mới của Việt Nam đã chứng tỏ Nhà nước pháp quyền XHCN là hình thức tối ưu thực hiện quyền lực của nhân dân, “là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”(21), như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định.

Những phương hướng này là kết quả tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, tham chiếu kinh nghiệm quốc tế, khẳng định Đảng ta ngày càng làm sáng rõ hơn kiểu quá độ “gián tiếp” từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH phù hợp trình độ, điều kiện của Việt Nam và thích ứng với xu hướng mới của thế giới.      

Các mối quan hệ lớn cần nắm vững và giải quyết tốt trong quá trình thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Trong quá trình xây dựng CNXH, Đảng ta đã tổng kết, hệ thống hóa và xác định các mối quan hệ lớn và đề cập lần đầu tiên trong Cương lĩnh năm 2011. Đại hội XI của Đảng nhận thức, khi thực hiện 8 phương hướng xây dựng CNXH phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt 8 quan hệ lớn là: 1- Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; 2- Giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; 3- Giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN; 4- Giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN; 5- Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; 6- Giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN; 7- Giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; 8- Giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

Đưa điện về buôn làng _Ảnh: Đỗ Tuấn Ngọc

Tổng kết 5 năm giải quyết các mối quan hệ lớn này, Đại hội XII hoàn chỉnh mối quan hệ “giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa”, thành mối quan hệ “giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa”, nhằm làm rõ hơn nhận thức rằng trong CNXH vẫn tồn tại nền kinh tế thị trường; và bổ sung mối quan hệ “giữa Nhà nước và thị trường”. Hội nghị Trung ương 5 khóa XII đã hoàn thiện mối quan hệ “giữa Nhà nước và thị trường”, thành mối quan hệ giữa “Nhà nước, thị trường và xã hội”.

Tại Đại hội XIII, Đảng tiếp tục có những nhận thức, bổ sung mới về các mối quan hệ lớn. Đó là điều chỉnh, bổ sung mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”, thành “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”; điều chỉnh mối quan hệ “giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”, thành “giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”; điều chỉnh mối quan hệ “giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, thành “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ”. Đặc biệt, xuất phát từ thực tiễn, Đảng bổ sung mối quan hệ “giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”(22).

Như vậy, Đảng đã có những điều chỉnh, bổ sung từng mối quan hệ một cách chặt chẽ, đầy đủ, thành 10 mối quan hệ lớn cần giải quyết. Đây là những vấn đề mang tính quy luật khách quan, tồn tại, vận động trong điều kiện quá độ “gián tiếp”, phải được nhận thức sâu sắc và giải quyết thường xuyên ở mọi cấp độ, mọi lĩnh vực. Mười mối quan hệ lớn là sự khái quát cao nhận thức lý luận của Đảng trên con đường thực hiện quá độ lên CNXH.

Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên CNXH có nhiều nội dung, mỗi nội dung có quy luật phát triển riêng, gắn với diễn trình lịch sử từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng. Trên đây là những nội dung cốt lõi thể hiện sáng tạo lý luận về CNXH và con đường lên CNXH ở Việt Nam của Đảng ta. Thành tựu công cuộc đổi mới hơn 35 năm qua khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo của mô hình CNXH và quá độ lên CNXH mà Đảng ta đã tìm tòi, khẳng định, khái quát thành mô hình đặc trưng, phương thức thực hiện và phương hướng chỉ đạo. Tuy nhiên, bổ sung, phát triển, hoàn thiện lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là một quá trình, phải dựa trên tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận. Tinh thần sáng tạo và kinh nghiệm thực tiễn dày dặn là cơ sở cho Đảng ta nâng tầm trí tuệ, tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH, nhất là những vấn đề lý luận về các chặng đường “hậu công nghiệp hóa” và sau khi hoàn thành mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào giữa thế kỷ XXI./.

                                                                                                Nguon: tapchicongsan.org.vn