Thứ Tư, 31 tháng 7, 2024

Sát cánh bên nhau, siết chặt đội ngũ, biến đau thương, mất mát thành hành động

 ĐCSVN) - Sự ra đi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là mất mát to lớn cho Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta. Lúc này, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần tiếp tục sát cánh bên nhau, siết chặt đội ngũ để tiếp tục sự nghiệp to lớn thực hiện công cuộc xây dựng, phát triển đất nước,... vì hạnh phúc của Nhân dân. Đó là nhấn mạnh của GS.TS Tạ Ngọc Tấn, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng lý luận Trung ương

Trong cuộc trao đổi với Phóng viên Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam trước sự ra đi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - người đứng đầu Đảng ta, GS.TS Tạ Ngọc Tấn, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng lý luận Trung ương còn có nhiều suy nghĩ, cảm xúc, cảm nhận về những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

GS.TS Tạ Ngọc Tấn: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đóng góp cực kỳ to lớn về lý luận, xây dựng mô hình tổng kết lý luận, nghiên cứu lý luận, đóng góp vào việc hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam rất đặc trưng. 

Tấm gương của người cộng sản liêm khiết

Phóng viên (PV): Thưa GS.TS Tạ Ngọc Tấn, trải qua nhiều cương vị quan trọng do Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có nhiều cống hiến to lớn, quan trọng cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, nhất là trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng chí có suy nghĩ, cảm nhận gì về những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng?

GS.TS Tạ Ngọc Tấn: Theo tôi, có thể nói một cách rất khái quát đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với Đảng, với đất nước, với Nhân dân tập trung ở 3 điểm chính. Điểm thứ nhất, đồng chí là một nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng, thể hiện vai trò, trách nhiệm của mình trong việc triển khai, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trong bất kỳ trọng trách nào mà đồng chí gánh vác, từ làm lãnh đạo Tạp chí Cộng sản cho đến khi lãnh đạo Thành ủy Hà Nội, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Chủ tịch Quốc hội, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước. Bất cứ ở vị trí công tác nào, đồng chí đều triển khai, chỉ đạo trực tiếp, cặn kẽ từng công việc để hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ.

Đóng góp lớn thứ hai của đồng chí đó là việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận. Có thể nói, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là một trong số ít những đồng chí lãnh đạo cao cấp nhất của Đảng, Nhà nước, đồng thời là một nhà lý luận. Cả cuộc đời của đồng chí gắn bó với hoạt động lý luận, từ khi ra trường năm 1967 cho đến phút cuối đời, lúc nào đồng chí cũng quan tâm đến công tác lý luận và trực tiếp là nhà nghiên cứu lý luận và có đóng góp lớn cho công tác lý luận của Đảng.

Thứ ba, theo tôi, những đóng góp rất đáng trân trọng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đó là đóng góp của một tấm gương, của người cộng sản liêm khiết, một người gương mẫu đi đầu trong việc học tập làm theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ. Cá nhân đồng chí đã thể hiện trong suốt cả cuộc đời hoạt động của mình: Liêm khiết, chuyên cần, nhẫn nại, gần dân, thương dân. Không những thế, đồng chí còn truyền những giá trị tốt đẹp đó cho cả gia đình, cho nên cả gia đình đồng chí là gia đình rất gương mẫu.

PV: Đề nghị GS.TS Tạ Ngọc Tấn nêu rõ vai trò hạt nhân lãnh đạo, xây dựng sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động trong Đảng của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã được thể hiện như thế nào?

GS.TS Tạ Ngọc Tấn: Tổng Bí thư đương nhiên là người đứng đầu của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư. Từ góc độ của mình, tôi nhìn thấy việc đầu tiên, Tổng Bí thư thể hiện vai trò lãnh đạo như trung tâm đoàn kết của Đảng. Trung tâm đoàn kết ở chỗ là đồng chí rất công bằng, rất sòng phẳng, rất chia sẻ, rất rõ ràng với công việc của từng người và luôn tìm mọi cách để đoàn kết Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong mọi tình huống, kể cả những lúc khó khăn, phức tạp nhất. Ví dụ như những lúc mà nước ngoài có những vi phạm vào độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước hay là chống đại dịch COVID-19..., đồng chí đều thể hiện vai trò đặc biệt của người thủ lĩnh của Đảng, Nhà nước.

Thứ hai, đồng chí là người gần như là tạo ra một bước ngoặt đặc biệt trong quá trình lãnh đạo đất nước. Với trách nhiệm là người đứng đầu của Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng và tiêu cực, công cuộc phòng chống tham nhũng, tiêu cực do đồng chí lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp ấy đã tạo nên một bước thay đổi rất quan trọng từ nhận thức đến hành vi của đội ngũ cán bộ về thái độ, trách nhiệm đối với nước, đối với dân. Nó làm thay đổi trách nhiệm của việc một số người cứ quan niệm hạ cánh là an toàn. Nhưng ở đây nếu cứ có tham nhũng, lãng phí thì không có bất cứ một cửa thoát an toàn cho bất cứ người nào. Đấy là nhận thức là rất quan trọng.

Thứ ba nữa là, thể hiện người lãnh đạo, người đứng đầu của Đảng rất gần dân, rất chia sẻ với dân mọi hoạt động, mọi việc làm, mọi hoạt động lãnh đạo đối với Nhà nước, với Đảng, đặc biệt là đối với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị thì đều tập trung vì dân, vì hạnh phúc của dân. Đó là tối thượng.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng phát biểu tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2013 - 2020. Ảnh: Phương Hoa/TTXVN 

Nhà lý luận xuất sắc của Đảng với những đóng góp to lớn

PV: Như Giáo sư vừa trao đổi, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có vai trò, đóng góp quan trọng trong lĩnh vực lý luận, nhất là vai trò trong việc không ngừng bổ sung, hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Giáo sư có thể đánh giá cụ thể những đóng góp đó như thế nào?

GS.TS Tạ Ngọc Tấn: Đồng chí Nguyễn Phú Trọng là một nhà lý luận xuất sắc của Đảng và những đóng góp của đồng chí vào công tác lý luận của Đảng là rất to lớn. Theo tôi có thể nhìn nhận trên mấy khía cạnh như thế này. Thứ nhất, về mặt tổ chức, chỉ đạo thực tiễn thì đồng chí Nguyễn Phú Trọng liên tục là người có vai trò, trách nhiệm rất quan trọng. Kể từ năm 1996, khi đồng chí là Ủy viên của Hội đồng lý luận Trung ương, sau đó là Chủ tịch Hội đồng Lí luận Trung ương khóa II và liên tục là người được Bộ Chính trị phân công chịu trách nhiệm về công tác lý luận của Đảng. Trong quá trình đó, đồng chí là người tham gia trực tiếp trong việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện việc tổng kết 20 năm đổi mới của Đảng. Những  kết quả tổng kết 20 năm đổi mới của Đảng có ý nghĩa rất quan trọng, là nền móng, cơ sở khoa học thực tiễn để phục vụ cho việc bổ sung, phát triển cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bổ sung và phát triển năm 2011 mà Đại hội XI của Đảng đã thông qua. Và trong suốt quá trình đó, đồng chí là người rất quan tâm đến việc trực tiếp triển khai công việc lý luận.

Trong thời kỳ chuẩn bị cho Báo cáo chính trị Đại hội XI của Đảng, đồng thời chuẩn bị cho việc bổ sung, phát triển Cương lĩnh XI, đồng chí trực tiếp chỉ huy các đoàn đi khảo sát, đánh giá, tổng kết thực tiễn ở khắp các địa phương. Đồng chí trực tiếp là Phó Trưởng Ban Chỉ đạo và chịu trách nhiệm phụ trách Tổ Biên tập xay dựng văn kiện để triển khai công việc. Tất cả những công việc cụ thể để chuẩn bị ấy đều có vai trò, trách nhiệm đồng chí Nguyễn Phú Trọng.

Thứ hai, cần phải kể đến vai trò đặc biệt quan trọng của đồng chí Nguyễn Phú Trọng trong việc nghiên cứu, tổng kết, dần dần làm rõ và hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Có thể nói, tổng kết 20 năm đổi mới đó là bước rất quan trọng để dẫn tới một loạt những vấn đề đặt ra. Ví dụ như là khẳng định Nhà nước pháp quyền; khẳng định vai trò cực kỳ quan trọng của việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng; khẳng định vai trò, vị thế của phát triển văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; khẳng định tăng trưởng kinh tế gắn liền với xây dựng, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng, xã hội... Những phần lý luận rất quan trọng như thế hầu như đã được tổng kết, đánh giá trong quá trình tổng kết 20 năm đổi mới của Đảng.

Sau này, với việc bổ sung và phát triển Cương lĩnh thì chúng ta thấy đó là sự khẳng định tiếp theo về mô hình chủ nghĩa xã hội với 8 đặc trưng, sau đó bổ sung và phát triển thêm từ Cương lĩnh 1991. Nếu như nói tác phẩm cụ thể của đồng chí về vấn đề lý luận, mô hình chủ nghĩa xã hội thì có thể nói đến hai tác phẩm rất quan trọng. Tác phẩm đầu tiên là bài phát biểu của đồng chí tại Trường Đảng cao cấp Ni-cô Lô-pết tại thủ đô La Habana, Cuba năm 2012, trong đó đồng chí nói lên những đặc trưng rất cơ bản về nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong đó, lần đầu tiên đồng chí nêu bật 5 giá trị rất quan trọng mà chủ nghĩa xã hội hướng tới, đó là một sự tiếp nhận tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Giá trị thứ nhất là tính chất chung chế độ. Đó là chế độ của dân, do dân, vì dân, tất cả vì hạnh phúc của Nhân dân. Đặc trưng thứ hai đó là đặc trưng về một nền kinh tế phát triển không phải vì làm giàu cho một bộ phận mà là nền kinh tế phát triển gắn liền với văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng, xã hội. 

Giá trị thứ ba đồng chí Nguyễn Phú Trọng nhắc tới đó là những giá trị liên quan đến văn hóa, phát triển một nền kinh tế gắn liền với phát triển văn hóa, rồi bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa vì con người. 

Thứ tư, đồng chí nói đến giá trị liên quan đến mối quan hệ giữa chế độ chúng ta với thiên nhiên, tự nhiên. Đồng chí nói đến giá trị rất quan trọng của chủ nghĩa xã hội. Đó là hướng tới việc phát triển một chế độ trong mối quan hệ gắn bó hài hòa với thiên nhiên, giữ gìn bảo vệ thiên nhiên cho muôn đời con cháu về sau chứ không phải bóc lột thiên nhiên vì lợi ích trước mắt.

Cuối cùng đồng chí nói đến là mối quan hệ về mặt chính trị. Đó là chế độ ta là chế độ của dân, do dân và vì dân, một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vì dân chứ không phải như kiểu nhà nước mà chỉ thu về lợi ích của một nhóm nhỏ giàu có. Có thể nói đấy là năm giá trị khẳng định ngay từ bài phát biểu đó. 

Đến bài thứ hai có thể coi như là tác phẩm kinh điển về nhận thức lý luận về chủ xã hội. Đó là bài “Một số vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam”. Bài đó trở thành cốt tử, trung tâm của những nhận thức lý luận và được hình thành trong cuốn sách do Hội đồng lý luận Trung ương phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật phát hành.

Cuốn sách đó của Tổng Bí thư đã được rất nhiều nước trên thế giới quan tâm, trong đó có cả những trường đại học của Mỹ quan tâm, cho sinh viên đọc những cuốn sách này. Họ đọc những cuốn sách này chính là nghiên cứu về phần nghiên cứu lý luận của Đảng. 

Tiếp nữa, tôi muốn nói đến đóng góp cực kỳ to lớn của đồng chí về lý luận, xây dựng mô hình tổng kết lý luận, nghiên cứu lý luận, đóng góp vào việc hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam rất đặc trưng.

PV: Những đúc kết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã được xuất bản thành rất nhiều những cuốn sách như chúng ta đã thấy trong thời gian gần đây. Theo GS.TS Tạ Ngọc Tấn, những cuốn sách này có ý nghĩa về lý luận, thời sự và thực tiễn như thế nào? 

GS.TS Tạ Ngọc Tấn: Theo tôi được biết, nếu như cuốn “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam” có thể coi là cuốn sách đầu tiên về những vấn đề lý luận của Tổng Bí thư năm 2021. Và suốt trong thời gian ấy đến nay có khoảng gần hai chục cuốn sách của Tổng Bí thư. Đây là những cuốn sách, tôi nghĩ là rất quý vì nó tập hợp quan điểm của Tổng Bí thư về những vấn đề liên quan đến kinh tế - xã hội, chính trị, an ninh quốc phòng, xây dựng Đảng, quan hệ quốc tế... Mỗi cuốn sách ấy tập chung rất nhiều những nhận thức về lý luận của đồng chí không chỉ về thời hiện đại mà nó là một quá trình đồng chí tham gia nghiên cứu lý luận, kể cả những năm tháng đồng chí công tác của Tạp chí Cộng sản cho đến sau này.

Theo tôi, giá trị là tập trung vào hai nghĩa có những nội dung rất thời sự. Đấy là sự khái quát với thời điểm hiện tại về những vấn đề liên quan đến các lĩnh vực đời sống, thể hiện đường lối, chủ trương của Đảng ta dựa trên những nhận thức lý luận, dựa trên tình hình thực tiễn lịch sử rất cụ thể của Việt Nam. 

Thứ hai nữa, đó là sự tiếp nối cả một quá trình nhận thức lý luận, đánh giá của đồng chí Nguyễn Phú Trọng về những vấn đề thời sự.

Thay đổi rất quan trọng về cách thức, phương pháp làm việc

PV: Về xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có những đóng góp quan trọng trong 2 nhiệm kỳ làm Chủ tịch Quốc hội. GS.TS Tạ Ngọc Tấn có thể chia sẻ cụ thể hơn về nội dung này?

GS.TS Tạ Ngọc Tấn: Trong quá trình đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là người đứng đầu của cơ quan lập pháp của đất nước thì tôi cũng là người rất may mắn là Đại biểu Quốc hội khóa XIV, trực tiếp chứng kiến công việc lãnh đạo, chỉ đạo công việc Quốc hội của đồng chí. Cùng với những nhận thức khác qua thông tin, qua tìm hiểu, tôi thấy đóng góp của đồng chí Nguyễn Phú Trọng thể hiện ở mấy điểm. Trước hết là thay đổi rất quan trọng về cách thức, phương pháp làm việc. Từ việc chất vấn các bộ, các ngành, đặt ra những vấn đề đặc biệt là những vấn đề rất thiết thân, bức xúc của đời sống xã hội. Nếu đặt lên bàn chất vấn và những cuộc chất vấn, tôi thấy rất sinh động. Đặc biệt thời điểm đó các cuộc chất vấn được truyền hình trực tiếp. Đấy là một phong cách rất là mới, đồng chí thể hiện vai trò, trách nhiệm của người lập pháp, của người kiểm tra, xem xét, đánh giá quá trình tổ chức thực hiện những quyết định của mình đối với các bộ, các ngành và kể cả Thủ tướng cũng xuất hiện để trả lời những câu hỏi.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng làm việc với Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương năm 2014 (ảnh: TTXVN)

Thứ hai, tôi thấy trong thời kỳ đó là thời kỳ tăng cường đội ngũ bộ máy, đặc biệt là tăng cường việc lựa chọn, xem xét, đánh giá lực lượng đại biểu chuyên nghiệp. Có một điều rất quan trọng nữa là tăng cường vai trò, trách nhiệm và một số công việc có tính chất thường trực mà bộ phận thường trực, bộ phận đại biểu chuyên trách làm việc, xử lý để đi đến những quyết định chung của Quốc hội.

Thứ ba, theo tôi có một vai trò rất quan trọng, thúc đẩy quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Tôi không nhớ con số cụ thể nhưng nhớ là trong suốt thời kỳ đồng chí là Chủ tịch Quốc hội, liên tục xuất hiện các bộ luật. Đó là thời kỳ đóng góp rất quan trọng thúc đẩy để chúng ta hiện nay có một hệ thống luật pháp tương đối hoàn thiện để điều chỉnh các hoạt động của toàn bộ xã hội trên tất cả các lĩnh vực. 

Công cuộc phòng, chống tham nhũng đã tạo ra một bước ngoặt vô cùng quan trọng

PV: Những năm qua, Nhân dân và các cán bộ, đảng viên rất vui mừng, phấn khởi, tăng thêm niềm tin vào Đảng, Nhà nước khi chứng kiến những chủ trương, biện pháp xử lý rất kiên quyết của Đảng, Nhà nước ta trong công tác phòng chống tham nhũngGiáo sư nhìn nhận như thế nào về những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong cuộc chiến chống tham nhũng, tiêu cực?

GS.TS Tạ Ngọc Tấn: Dưới thời kỳ hơn 2 khóa đồng chí Nguyễn Phú Trọng làm Tổng Bí thư - Người đứng đầu của Đảng, trong đó có gần 2 năm kiêm Chủ tịch nước, có thể nói là công cuộc phòng, chống tham nhũng của chúng ta đã tạo ra một bước ngoặt vô cùng quan trọng. Lần đầu tiên hoạt động phòng, chống tham nhũng đã trở thành nghiêm khắc, không có vùng cấm và việc xử lý rất bài bản. Nhiều vụ án ngay lập tức được xem xét, đánh giá, đưa ánh sáng, kể cả những vụ án đã xuất hiện trước đó cả chục năm. Khi có khuất tất, khi có ảnh hưởng đến mất mát tiền, của cải của Nhân dân, đất nước thì đều được đưa ra ánh sáng.

Thứ hai, cuộc phòng chống tham nhũng này thay đổi nhận thức rất lớn trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên, trong toàn bộ hệ thống chính trị. Trước hết là trong hệ thống Đảng, tạo nên nhận thức và xử lý rất nghiêm túc đối với kỷ luật Đảng, phê bình và tự phê bình, đấu tranh trong nội bộ Đảng. Cần phải nói điều đó như vậy. Bởi vì nếu như trước kia, anh có thể giải quyết công việc để anh hạ cánh an toàn thế là xong. Còn bây giờ thì không có. Bây giờ nếu mắc khuyết điểm thì anh phải chịu trách nhiệm với khuyết điểm đó, gắn liền với trách nhiệm đối với vị trí công việc anh xử lý. Thậm chí làm cho người cán bộ nhìn thấy rằng, con đường tham nhũng, lãng phí là con đường cùng. Anh không có cách nào trốn cả, buộc anh phải thực hiện một cách hết sức nghiêm túc, kỷ luật, kỷ cương của Đảng. 

Thứ ba, tôi thấy công cuộc phòng chống tham nhũng là việc làm không chỉ đóng góp vào việc xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh, trong sạch, còn có một vai trò rất quan trọng nữa. Đó là củng cố niềm tin của dân, lấy lại niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và hệ thống chính trị. Người dân rất tin cậy, tin tưởng đồng chí Tổng Bí thư, tin tưởng vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, kể cả những lúc một số cán bộ tương đối lớn bị xử lý kỷ luật, người dân vẫn rất tin cậy vào công cuộc phòng, chống tham nhũng. 

Điều cuối cùng tôi muốn nói, tức là thông qua việc phòng, chống tham nhũng làm trong sạch bộ máy của Đảng, thay đổi nhận thức của người cán bộ, đảng viên đối với chức trách công việc, đối với việc rèn luyện đạo đức, tác phong, kỷ cương của mình đối với thái độ, trách nhiệm trước cấp dưới và trước toàn dân. Đồng thời gắn với đó là quá trình củng cố, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, đối với đất nước, đối với chế độ. Đó chính là một quá trình rất quan trọng để làm công việc bảo vệ Đảng, xây dựng Đảng, tăng cường sức mạnh của Đảng, đặc biệt là sức mạnh lãnh đạo của Đảng. Bởi vì chúng ta biết rằng, quyền lực của Đảng chỉ dựa vào điểm tựa duy nhất - Đó là niềm tin của dân. Khi đã có niềm tin của dân đấy là lúc Đảng có sức mạnh lớn nhất .

Con người của Nhân dân, con người của lịch sử

PV: Vậy Giáo sư có cho rằng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là một con người của Nhân dân, con người của lịch sử?

GS.TS Tạ Ngọc Tấn: Con người của lịch sử thì đương nhiên. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ đi vào lịch sử như một trong những Tổng Bí thư theo tôi quan niệm đó là Tổng Bí thư rất xuất sắc của Đảng. Tất nhiên là đồng chí Tổng Bí thư nào cũng xuất sắc, cũng có những đóng góp to lớn, nhưng riêng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, tôi thấy đó là một sự đóng góp rất đặc biệt. Khi đồng chí là một Tổng Bí thư xuất sắc, một con người rất đặc biệt của Đảng thì đương nhiên rồi - đồng chí là con người của Nhân dân. Vì Đảng chúng ta là Đảng của Nhân dân. 

PV: Giáo sư có thể phân tích rõ hơn góc độ con người của Nhân dân của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng?

GS.TS Tạ Ngọc Tấn: Đảng ta là Đảng của Nhân dân nên Tổng Bí thư đương nhiên là con người của Nhân dân. Con người của Nhân dân thể hiện mấy điều như trên tôi cũng đã phân tích. Thứ nhất, đồng chí thể hiện rất đúng vai trò, lý tưởng của Đảng, là người lãnh đạo của Nhân dân. Là người lãnh đạo thì tài năng, phẩm giá, nhân cách và đặc biệt là tấm gương. Người lãnh đạo chỉ có thể được lòng Nhân dân, chỉ có được sự tín nhiệm của cấp dưới khi thực sự là một tấm gương tốt, “thượng bất chính, hạ tắc loạn”, bên trên mà lộn xộn thì bên dưới tất nhiên không yên. Nhưng nếu một người làm gương tốt, nếu một người đi đầu trong sạch, gương mẫu, nếu người đứng đầu mà bản thân và gia đình thực sự là một tấm gương trong sáng, lành mạnh của đất nước, của chế độ thì ở dưới đương nhiên người dân tôn phục. Và không chỉ tôn phục ông ấy thôi mà còn làm theo ông ấy, đồng thời ủng hộ ông ấy bằng cách chống lại những gì làm ngược với tấm gương của ông ấy. Cho nên đương nhiên Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là con người của Nhân dân.

Góp phần to lớn hoàn thiện thể chế trong hoạt động của Đảng

PV: Cùng với việc xử lý nghiêm kỷ luật những cán bộ vi phạm thì Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng trực tiếp chỉ đạo ban hành rất nhiều những quy định, quy chế của Đảng để chấn chỉnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Những quy định như thế đã có ý nghĩa như thế nào để chúng ta tiếp tục công cuộc phòng chống tham nhũng thưa Giáo sư?

GS.TS Tạ Ngọc Tấn: Trong những đánh giá tổng kết của các kỳ đại hội thì các báo cáo chính trị đều nhấn mạnh một điều là điểm yếu nhất chúng ta vẫn là tổ chức thực hiện. Muốn tổ chức thực hiện tốt thì phải có một thể chế cực kỳ hoàn thiện. Ngay trong Đảng cũng vậy, muốn để các tổ chức Đảng hoạt động một cách chuẩn chỉnh, thực sự đúng vai trò, trách nhiệm của tổ chức Đảng thì lúc đó phải có hệ thống thể chế cực kỳ chặt chẽ. Ban Chấp hành Trung ương dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hoàn thiện những quy định, những quy chế, những định chế trong hoạt động của Đảng từ nguyên tắc tổ chức này. Cách thức làm việc của các cấp ủy cho đến các tổ chức hoạt động, rồi mối quan hệ giữa cơ quan...,  tất cả những chuyện đó chính là hoàn thiện thể chế trong hoạt động của Đảng. Và khi chúng ta có một thể chế hoàn chỉnh, hợp lí, thông minh, đủ hiệu lực thì lúc bấy giờ nó sẽ có vai trò rất quan trọng trong việc tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu quả lãnh đạo và cầm quyền của Đảng. 

PV: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng còn là người đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức của người cán bộ, đảng viên và nhiều lần nhấn mạnh “Danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất”. Trong bối cảnh chúng ta đang chuẩn bị tổ chức Đại hội XIV của Đảng thì công tác cán bộ cần được quan tâm như thế nào, thưa Giáo sư?

GS.TS Tạ Ngọc Tấn: Nói đến đạo đức thì đời nào cũng cần, chỗ nào cũng cần, cộng đồng nào cũng cần. Bởi vì đạo đức nói cho cùng đó là những chuẩn mực hành xử tốt đẹp của con người. Con người phải hướng tới cách hành xử trong mối quan hệ với nhau, trong mọi mối quan hệ thật tốt đẹp. Đấy chính là những chuẩn mực đạo đức. Và đương nhiên rồi, chính vì vai trò rất quan trọng của đạo đức đó nên chúng ta mới có một yêu cầu trong nội dung xây dựng Đảng là xây dựng Đảng về đạo đức. 

Đạo đức gắn liền với chuẩn mực trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, gắn liền với trách nhiệm của người công dân Việt Nam trong thời đại mới. Chính vì thế cho nên là đạo đức ấy không đơn thuần chỉ là những tiêu chuẩn có tính chất tốt đẹp mà phải gắn với nó là những điều kiện, những luật lệ, những đảm bảo để những chuẩn mực đạo đức ấy không chỉ là được ủng hộ, thực hiện mà còn được bảo vệ trong những môi trường phức tạp.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trò chuyện, trao đổi với GS.TS Tạ Ngọc Tấn. 

Đôi khi những người hành xử đạo đức lại không phải là những người được bảo vệ an toàn. Cho nên hoạt động đạo đức này theo quan niệm Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thì nó phải gắn liền với hệ thống kỷ cương, chặt chẽ, kỷ luật, đi đôi với sự tự giác của con người về mặt đạo đức, nó phải gắn bó chặt chẽ với nhau. Đương nhiên là nói đến đạo đức thì nói như Bác Hồ: Sông có nguồn, cây có cội, con người thì có đạo đức là gốc, không có đạo đức làm việc gì cũng hỏng. Bác Hồ đã khẳng định phải có “hồng”, có “chuyên”. Nếu có “hồng” mà không có “chuyên” làm việc việc gì cũng khó. Nhưng có “chuyên” mà không có “hồng” thì làm việc gì cũng hỏng. Đạo đức chính là căn cốt ở đó.

Tin cậy vào sự lãnh đạo có tính tập thể của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương

PV: Với những đóng góp quan trọng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng như vậy, khi nghe tin Tổng Bí thư không còn nữa, Giáo sư có suy nghĩ, cảm xúc như thế nào?

GS.TS Tạ Ngọc Tấn: Có thể nói là sự ra đi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là sự mất mát lớn cho Đảng, cho Nhà nước và cho Nhân dân ta. Tôi nghĩ là mất mát, đau thương đã đành nhưng lúc này không phải lúc để chúng ta ngồi lại với những đau thương, mất mát. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân sát cánh bên nhau, siết chặt đội ngũ. Đặc biệt là tin cậy vào sự lãnh đạo có tính tập thể. Tôi muốn nói là lãnh đạo tập thể và trách nhiệm cá nhân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với Đảng ta, đặc biệt trong lúc khó khăn như thế này. Chúng ta hết sức sát cánh lại với nhau để tin cậy vào sự sáng suốt, tinh thần đoàn kết, ý thức trách nhiệm của tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương để chúng ta vượt qua mất mát, đau thương này, tiếp tục sự nghiệp to lớn, công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, đẩy mạnh đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và lớn hơn hết vì hạnh phúc của Nhân dân. Đây là điều mà ngay từ đầu tiên khi thành lập Đảng, Đảng và Bác Hồ chúng ta đã mong muốn...

PV: Xin trân trọng cảm ơn GS.TS Tạ Ngọc Tấn đã dành cho chúng tôi buổi trao đổi đầy ý nghĩa ngày hôm nay./.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn

 ĐCSVN) - Trong suốt cuộc đời cách mạng với 55 năm hoạt động liên tục, dù ở cương vị nào, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng dành những tình cảm, sự quan tâm đặc biệt cho sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống cho người nông dân nước ta. Từ thực tiễn tới lý luận, rồi từ lý luận tới thực tiễn, Tổng Bí thư đã để lại những di sản vô cùng quý báu với các chính sách lịch sử, mang tính thời đại về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Nông dân Việt Nam nhiệm kỳ 2023 - 2028 (Ảnh: HNDVN) 

 Lý luận về nông nghiệp, nông dân, nông thôn được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nâng lên tầm cao mới, mang tính thời đại

Ngay sau khi được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội lần thứ XI của Đảng (nhiệm kỳ 2011 - 2016), đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã đã dành nhiều thời gian, tâm huyết để làm việc với từng Ban, bộ, ngành Trung ương và các địa phương trọng điểm về tình hình thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Trong mỗi buổi làm việc, chuyến thăm, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đều trực tiếp khảo sát tình hình thực tế ở cơ sở, sau đó dành thời gian để lắng nghe các ý kiến báo cáo, đề xuất, từ đó đưa ra những kết luận, gợi mở đầy sâu sắc.

Chính nhờ sự quan tâm sâu sát đó nên trong suốt giai đoạn từ năm 2011 đến nay, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, trực tiếp là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nông nghiệp, nông thôn luôn có sự tăng trưởng mạnh mẽ, luôn bằng và vượt chỉ tiêu đề ra tại các kỳ Đại hội của Đảng (trên 3% mỗi năm), riêng năm 2023 tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp đã cán mốc cao kỷ lục với 3,83% và tiếp tục duy trì đà này trong 6 tháng đầu năm 2024; xuất khẩu toàn ngành nông lâm thủy sản bình quân tăng trưởng trên 8%/năm, đến năm 2023 đạt kim ngạch kỷ lục 53,22 tỷ USD, cơ cấu xuất khẩu các mặt hàng có sự thay đổi tích cực, giá trị thặng dư thương mại đạt tới 12,07 tỷ USD vào năm 2023; tỷ lệ số xã đạt tiêu chí nông thôn mới đạt 78%, trong đó có tới 2.113 xã nông thôn mới nâng cao (tính đến tháng 6/2024); đặc biệt thu nhập của người nông dân tăng gấp 4,5 lần (vượt mục tiêu đề ra là 2,5 lần); tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn bình quân giảm 1-1,5%.

Điểm qua các số liệu trên, có thể khẳng định, các vấn đề lý luận về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nâng lên một tầm cao mới, trở thành một tư tưởng, một di sản, là kim chỉ nam để hoạch định con đường cho nông nghiệp, nông thôn phát triển cả về trước mắt, cả về lâu dài. Trong các phát biểu của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn chỉ rõ, nông nghiệp - nông dân - nông thôn là ba thành tố có quan hệ mật thiết, gắn bó, không thể tách rời; có vai trò, vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là cơ sở, lực lượng to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Bước sang giai đoạn phát triển mới với bối cảnh đất nước và thế giới có nhiều thay đổi, nhất là tác động từ đại dịch COVID-19, các vấn đề liên quan đến địa chính trị, tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng (nhiệm kỳ 2021- 2026), Đảng đã đặt vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn lên một tầm cao mới, nhằm hướng đến mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 khi lần đầu tiên Nghị quyết Đại hội đã đề cập đến nội dung về “nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh”. Những nội dung này có dấu ấn rất lớn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với vai trò là Trưởng Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIII.

Trên cơ sở đó, ngày 16/6/2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành ba Nghị quyết rất quan trọng của Hội nghị lần thứ Năm BCH Trung ương Đảng khóa XIII, đó là Nghị quyết số 18-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao; Nghị quyết số 19-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 20-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới. Đây được coi là ba Nghị quyết mang tính lịch sử trong một Hội nghị của Trung ương nhằm giải quyết căn cơ các vấn đề của nông nghiệp, nông thôn, nông thôn, từ vấn đề về đất đai đến đổi mới tư duy sản xuất, thúc đẩy hợp tác, liên kết, khẳng định vai trò của kinh tế tập thể trong nông nghiệp.

Phát biểu bế mạc Hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhắc tới ba vấn đề lớn, đó là: Thứ nhất, phải khẳng định Nông dân là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển nông nghiệp. Thứ hai, phải nhận thức và xác định rõ, nông nghiệp là một lợi thế của quốc gia, là trụ đỡ của nền kinh tế. Thứ ba, phải hướng tới xây dựng nông thôn hiện đại, phồn vinh, hạnh phúc, dân chủ, văn minh.

  Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng các đại biểu dự Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Nông dân Việt Nam lần thứ VIII nhiệm kỳ 2023  - 2028 (Ảnh: HNDVN)

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đặc biệt nhấn mạnh: “Phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống của nông dân và người dân nông thôn là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, là nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống chính trị. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc giám sát, phản biện và vận động đoàn viên, hội viên, người dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn khẳng định vai trò chủ thể, trung tâm của người nông dân  

Tháng 9/2011, lần đầu tiên Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có buổi thăm và làm việc đầu tiên với Ban Thường vụ Trung ương Hội Nông dân Việt Nam về tình hình thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Tại buổi làm việc, lần đầu tiên Tổng Bí thư đã nhắc tới khái niệm, vai trò chủ thể, trung tâm của người nông dân trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời, Tổng Bí thư đánh giá cao sự chủ động, tích cực của Hội Nông dân Việt Nam trong việc tham gia xây dựng và thực hiện Nghị quyết 26, song cũng đặt ra hàng loạt các vấn đề cần giải quyết mà cho đến ngày hôm nay vẫn còn nguyên giá trị và tính thời sự. Tổng Bí thư đã chỉ ra các vấn đề từ giai cấp nông dân đang biến đổi như thế nào trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) của đất nước, vấn đề chuyển dịch sang sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường định hướng XHCN cho đến các vấn đề về đất đai, tri thức hóa nông dân, đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

Đặc biệt, Tổng Bí thư đã đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò “chủ thể” của người nông dân khi lưu ý: “Phải nắm bắt được hiện nay nông dân đang có tâm tư gì, nguyện vọng gì, có yêu cầu, đề xuất gì với Đảng, Nhà nước. Lâu nay, chúng ta bàn về phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới rất nhiều nhưng lại chưa bàn sâu về nông dân, xây dựng giai cấp nông dân…”.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Hợp tác xã chè Hảo Đạt, xã Tân Cương của tỉnh Thái Nguyên (Ảnh: HNDVN) 

Tổng Bí thư cũng đặc biệt lưu ý, phát triển CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn phải đặt trong tổng thể CNH, HĐH đất nước với nông dân là chủ thể, từ đó phải quan tâm đến nông dân, đặt nông dân trong sự nghiệp CNH, HĐN đất nước, phải nâng cao đời sống, vật chất, tinh thần cho nông dân.

Phát biểu bế mạc tại Hội nghị lần thứ Năm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nhắc đến vai trò trung tâm, chủ thể của người nông dân, để từ đó làm gì cũng phải vì người nông dân, lấy lợi ích của người nông dân là mục tiêu cao nhất, khi Tổng Bí thư khẳng định: “Chú trọng nâng cao trình độ, năng lực làm chủ của nông dân theo hướng phát triển toàn diện, văn minh; phát huy tinh thần yêu nước, đoàn kết, tự chủ, tự lực, tự cường, đổi mới sáng tạo; ý chí vươn lên, khát vọng xây dựng quê hương, đất nước phồn vinh, hạnh phúc… Phát triển nông nghiệp, nông thôn phải hướng tới nâng cao toàn diện đời sống vật chất, tinh thần của nông dân và người dân nông thôn; lấy lợi ích của người dân là mục tiêu cao nhất”.

Đáng chú ý, năm 2017, đoàn 87 Nông dân Việt Nam xuất sắc 30 năm Đổi Mới đã được trực tiếp tiếp kiến Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, có thể nói đây là sự kiện lịch sử đối với nông dân Việt Nam. Phát biểu tại buổi tiếp, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đánh giá cao việc Trung ương Hội Nông dân Việt Nam tổ chức Chương trình “Tự hào Nông dân Việt Nam 30 năm Đổi Mới”, gắn với việc kỷ niệm 87 năm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam một cách thiết thực. “Thời gian gần đây, báo chí, dư luận đưa nhiều thông tin về tiêu cực, không hay thì việc tổ chức một hoạt động như tôn vinh 87 Nông dân Việt Nam xuất sắc 30 năm Đổi mới là rất tích cực, rất đáng hoan nghênh…”, Tổng Bí thư khen ngợi. Đồng thời, Tổng Bí thư cũng khẳng định: “Thành tựu Đổi Mới đất nước với nhiều thành tựu của chúng ta, có phần đóng góp rất to lớn của giai cấp nông dân, Hội Nông dân Việt Nam và của mỗi các bác Nông dân Việt Nam xuất sắc đang ngồi ở đây… Nông dân xuất sắc 1 năm đã khó, Nông dân xuất sắc 10 năm càng khó hơn, đằng này lại là Nông dân Việt Nam xuất sắc 30 năm Đổi mới. Điều này là rất mừng, cảm ơn giai cấp nông dân…”.

Khẳng định như vậy, nhưng Tổng Bí thư cũng dành những lời nhận xét, gửi gắm rất ân cần, mộc mạc khi khẳng định nông dân là lực lượng vô cùng quan trọng, là đội quân chủ lực, thời gian tới nông dân vẫn đóng vai trò xung kích trên mặt trận phát triển nông nghiệp, trong hội nhập quốc tế. “Đất nước  còn nhiều việc phải làm, nông dân, nông nghiệp càng không được thỏa mãn. Vì vậy, nông dân cần giúp nhau phát triển, nông dân giỏi cần giúp nông dân chưa giỏi, tích cực đào tạo lớp trẻ, giúp nhiều người còn chưa biết làm ăn… Bên cạnh giúp nhau phát triển đời sống kinh tế, nông dân cần giúp nhau trong đời sống tinh thần, giúp đỡ người nghèo, người cô đơn, ủng hộ xây dựng nông thôn mới”- Tổng Bí thư gửi gắm.

Với tổ chức Hội Nông dân Việt Nam, dấu ấn sâu đậm nhất, mang tính bước ngoặt, lịch sử, đó là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã trực tiếp ký ban hành Nghị quyết số 46-NQ/TW, ngày 20/12/2023 của Bộ Chính trị về “Đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội Nông dân Việt Nam đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới”, với quan điểm tiên tiến, cụ thể và rõ ràng, đó là: Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội Nông dân và phong trào nông dân; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân và xây dựng tổ chức hội là trách nhiệm của hệ thống chính trị và xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó chủ yếu, trực tiếp là cấp uỷ, chính quyền và BCH Hội Nông dân các cấp.

Đặc biệt, đến dự và phát biểu tại phiên khai mạc trọng thể Đại hội Đại biểu toàn quốc Hội Nông dân Việt Nam lần thứ VIII (nhiệm kỳ 2023 - 2028) ngày 26/12/2023 tại Hà Nội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã dành tình cảm đặc biệt cho giai cấp nông dân, Hội Nông dân Việt Nam. Mở đầu nội dung bài phát biểu, Tổng Bí thư nói: “Tôi xin phép đặt tên cho tiêu đề phát biểu của tôi là: Phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng giai cấp nông dân và Hội Nông dân Việt Nam quyết tâm phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ vẻ vang của dân tộc trong thời kỳ mới”.

Đồng thời, Tổng Bí thư nêu ý nghĩa của tiêu đề bài phát biểu, tức là vừa có kế thừa những thành tựu, kết quả, những kinh nghiệm của nhiều khóa trước, đồng thời cũng nhìn về tương lai, để chúng ta dự báo những tình huống khả năng có thể xảy ra, lường trước và chúng ta có những chủ trương cho sát, đúng với thực tiễn cuộc sống để phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò vô cùng to lớn của nông dân nước ta.

Tổng Bí thư cũng đặt vấn đề: “Vì nước ta là một nước đi lên từ nông nghiệp, giờ đang công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà bây giờ đi trên đường thì thấy hiện đại hóa nhanh lắm, công nghiệp hóa cũng rất nhanh. Tôi đã có không ít lần phát biểu: Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng:  Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

Trong suốt bài phát biểu dài hơn 40 phút, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã hơn một lần nhắc đến vai trò chủ thể, trung tâm của người nông dân, những nhiệm vụ mới của Hội Nông dân Việt Nam khi nhấn mạnh: “Gắn xây dựng giai cấp nông dân với phát triển nông nghiệp và quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá nông thôn, tạo điều kiện để cư dân nông thôn trở thành cư dân đô thị mà không dẫn đến di cư quy mô lớn”, “cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh” và xác định “nông dân là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển nông nghiệp; kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới”.

Để cụ thể hóa và thực hiện được các mục tiêu trên, khi đề nghị, chỉ đạo với Hội Nông dân Việt Nam, giai cấp nông dân Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng dành những lời phát biểu rất bình dị vừa mang tính chỉ đạo, vừa mang tính động viên, khích lệ, khi nói: “Tôi tha thiết kêu gọi và đề nghị các cấp Hội Nông dân nước ta cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hội; xây dựng Hội Nông dân Việt Nam chúng ta ngày càng vững mạnh, thực sự là tổ chức đại diện cho quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nông dân; phát huy thật tốt vai trò là trung tâm, nòng cốt cho phong trào nông dân, là cầu nối giữa nông dân với Đảng, Nhà nước; là nhân tố tích cực trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, liên minh “công nhân - nông dân - trí thức”; chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đối ngoại nhân dân".

Đồng thời, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đặt ra yêu cầu: Việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Hội phải đáp ứng được yêu cầu nâng cao trình độ, đời sống vật chất và tinh thần của nông dân cùng với sự phát triển của đất nước; phát huy vai trò nông dân là chủ thể, là trung tâm trong phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới, tăng cường dân chủ ở cơ sở, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh; tích cực hội nhập quốc tế, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm gia đình thương binh Đinh Phi, hộ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở làng Tung Ke 2, xã Ayun, huyện Chư Sê, tỉnh Gia La trong chuyến công tác tại Tây Nguyên tháng 4/2017 (Ảnh: Trí Dũng, Báo Nông nghiệp Việt Nam) 

Những chuyến đi “về với dân” và những câu chuyện giản dị của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Trong 3 nhiệm kỳ trên cương vị Tổng Bí thư, với tầm tư duy chiến lược, lý luận sâu sắc mang tính thời đại, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có nhiều chuyến đi ”về với dân” ở nơi khó khăn nhất như bản Ayun Chư Sê (Gia Lai), Vinh Quang (Kon Tum), Tây Trà (Quảng Ngãi), Mường Lát (Thanh Hóa), Bản Bo (Lai Châu)... Những chuyến đi này của Tổng Bí thư, ngoài câu chuyện về thực tế, còn là minh chứng cho sự đúng đắn của trong việc đưa lý luận vào thực tiễn đời sống, sản xuất.

Tháng 8/2011, chỉ sau 7 tháng đảm nhận trọng trách mới, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có chuyến thăm và làm việc tại tỉnh An Giang về tình hình thực hiện Nghị quyết số 26. Tại chuyến thăm này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã trực tiếp kiểm tra tình hình phát triển nông nghiệp, nông thôn và nắm bắt đời sống nông dân ở xã Vĩnh Phú (huyện Thoại Sơn). Từ thực tế chuyến thăm này, Tổng Bí thư khẳng định: Thực tế tại Vĩnh Phú là minh chứng sống động cho thấy chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong việc chăm lo phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã từng bước đi vào thực tế cuộc sống, mang lại những kết quả rõ nét trên cả 3 lĩnh vực: Sản xuất nông nghiệp phát triển; bộ mặt nông thôn không ngừng đổi mới; đời sống người dân nông thôn ngày càng được cải thiện, nâng cao.

“Các ý kiến, kiến nghị của bà con nông dân và các ngành chức năng huyện Thoại Sơn, của chính quyền ở Vĩnh Phú về những vấn đề phát sinh từ thực tiễn, những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại, như: Tình trạng mất mùa - được giá, được mùa - mất giá; việc hạn chế các khâu trung gian trong việc cung ứng vật tư nông nghiệp cho nông dân, cũng như tiêu thụ nông sản, nhằm bảo vệ quyền lợi cho nông dân và thúc đẩy sản xuất phát triển... là một minh chứng sinh động, cụ thể mà Đảng và Nhà nước cần xem xét, điều chỉnh thông qua các chính sách, giải pháp đúng đắn” - Tổng Bí thư Nguyến Phú Trọng khẳng định.

Khi đồng bằng sông Cửu Long xảy ra hạn mặn nặng nề được đánh giá là “trăm năm mới có một lần”, Tổng Bí thư đã trực tiếp thị sát tình hình xâm nhập mặn tại xã Tân Thanh, huyện Giồng Trôm (tháng 3/2016) để thăm hỏi, tìm hiểu, động viên nông dân và kiểm tra việc thực thi nghị quyết, chính sách về nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở cơ sở.

Trực tiếp đến cánh đồng lúa Tân Thanh, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã cùng bà con nhân dân và cán bộ địa phương chứng kiến ruộng lúa đang độ ngậm sữa, trổ bông nhưng đã chết vì nước mặn xâm nhập quá sâu trong nội đồng. Tổng Bí thư đã ân cần động viên bà con đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, vượt qua giai đoạn khó khăn do ảnh hưởng từ thiên tai, biến đổi khí hậu đang ngày càng rõ nét, nghiêm trọng ở đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là Bến Tre, trong đó có huyện Giồng Trôm và nhiều huyện, xã, thị trấn trên địa bàn tỉnh.

Ngay sau chuyến thăm đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo các cơ quan chức năng phải có các chính sách, biện pháp căn cơ để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu ở đồng bằng sông Cửu Long. Cụ thể hóa chỉ đạo của Tổng Bí thư, đến tháng 11/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Câu chuyện, ví dụ đơn giản trên cho thấy, tầm nhìn, tư duy chiến lược của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng mang tầm vóc lớn khi một mặt, Tổng Bí thư vừa đánh giá vấn đề đưa lý luận vào thực tiễn, đồng thời từ thực tiễn, Tổng Bí thư đã chỉ đạo xây dựng các chính sách, giải pháp thông qua các Nghị quyết cụ thể.

Hay như hồi tháng 4/2019, khi vừa giữ vị trí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã đến tham quan mô hình nuôi tôm công nghiệp của Công ty CP Trung Sơn, tại xã Dương Hòa, huyện Kiên Lương. Tại đây, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã vào xưởng lạnh xem công nhân thực hiện các quy trình chế biến tôm; ra tận đầm tôm xem và nghe thuyết trình quy trình nuôi tôm công nghiệp.

Trực tiếp thăm quan mô hình sản xuất khép kín của công ty, từ sản xuất 1,5 tỷ con tôm giống, đến nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao với diện tích trên 1.000 ha, sau đó là chế biến thủy sản, Tổng Bí thư đã khẳng định, Kiên Giang có lợi thế về phát triển nông nghiệp, với cây lúa, con tôm. Qua đó, cũng minh chứng cho thực tế về việc đổi mới sản xuất nông nghiệp theo chuỗi, có sự liên kết, tập trung đã được nêu trong các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.

Trong chuyến thăm làm làm việc với Đảng bộ, Chính quyền tỉnh Thái Nguyên (tháng 1/2023), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã dành thời gian để nắm bắt tình hình nông nghiệp, nông thôn khi tới thăm Hợp tác xã chè Hảo Đạt, xã Tân Cương (TP. Thái Nguyên). Tại đây, Tổng Bí thư đã tham quan đồi chè và nơi chế biến chè, cùng hái chè với các công nhân Hợp tác xã chè Hảo Đạt và dành thời gian trò chuyện, động viên người lao động đang làm việc tại đây. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã cùng thưởng trức trà Thái Nguyên tại Không gian trưng bày của Hợp tác xã và trò chuyện với Giám đốc Hợp tác xã. Tổng Bí thư bày tỏ niềm vui khi được đến thăm Tân Cương - vùng đất được mệnh danh “đệ nhất danh trà” của Thái Nguyên và cả nước và vui hơn khi thấy cây chè đã thực sự trở thành cây làm giàu của người dân vùng đất Tân Cương, giúp cho đời sống của người làm chè ngày càng khấm khá, giàu có.

Có thể nói trong suốt thời gian giữ cương vị là người đứng đầu của Đảng, của đất nước, trong mỗi chuyến thăm về các địa phương, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đều dành thời gian, tình cảm để thăm các mô hình sản xuất nông nghiệp, tình hình xây dựng nông thôn mới, đời sống của người nông dân ở mỗi địa phương mà Tổng Bí thư đến thăm. Đây là điều đặc biệt của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng muôn vàn kính mến với nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta.

Có thể khẳng định, những di sản của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng để lại cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta là vô giá và vô cùng quý báu. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo và sự quan tâm sâu sát của đồng chí Tổng Bí thư, nhiều các chủ trương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã được ra đời, ban hành thông qua các Nghị quyết của Đảng, các chính sách của Nhà nước và chắc chắn sẽ còn được đúc rút, cụ thể hóa trong rất nhiều quyết sách dành cho tam nông hiện nay và các giai đoạn tiếp theo nhằm thực hiện được mong muốn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về đẩy mạnh phát triển nông nghiệp thịnh vượng, nông dân giàu có, nông thôn hiện đại, văn minh./.

Nhức nhối xâm phạm bản quyền trên không gian mạng

 Vi phạm bản quyền tại Việt Nam trên môi trường số từ nhiều năm nay vẫn diễn ra phổ biến, gây thiệt hại hàng ngàn tỉ đồng. Các cơ quan chức năng cũng đã vào cuộc nhưng dường như vấn nạn này vẫn chưa được đẩy lùi một cách hiệu quả.

Hội thảo khoa học quốc tế "Bảo vệ bản quyền sách trên không gian mạng" đã đánh giá thực trạng đáng báo động của việc vi phạm bản quyền trên không gian mạng hiện nay.  (Ảnh:CM)

 

Vi phạm bản quyền vẫn diễn ra phổ biến

Tại Hội thảo khoa học quốc tế "Bảo vệ bản quyền sách trên không gian mạng" do Hội Xuất bản Việt Nam tổ chức đã khẳng định: sự phát triển như vũ bão của Internet và sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ, đặc biệt là các công nghệ số đã tạo điều kiện cho các tác giả, chủ sở hữu quyền, các đơn vị xuất bản có thể truyền bá, lưu trữ tác phẩm nhanh chóng và rộng rãi hơn. Nhưng chính sự phát triển này của công nghệ trong khi mà các yếu tố quan trọng khác như năng lực quản lý nhà nước, năng lực quản trị của doanh nghiệp, nhà xuất bản và ý thức bảo vệ bản quyền của người sử dụng còn hạn chế khiến tình trạng vi phạm bản quyền tác giả trong hoạt động xuất bản ngày càng trở nên nghiêm trọng với nhiều hình thức tinh vi, phức tạp, đe dọa nghiêm trọng sự phát triển ổn định, bền vững của nhiều nền xuất bản, trong đó có các quốc gia ASEAN.

Theo Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, hiện nay nạn sách giả, sách lậu đã có thể gọi là “quốc nạn”. Nó giống như một thứ vi rút, một thứ dịch bệnh liên tục bào mòn sức khỏe văn hóa, sức khỏe tinh thần của cộng đồng. Nhìn xa hơn, nạn sách giả, sách lậu còn làm xấu hình ảnh của đất nước, làm ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh nói chung và kinh doanh văn hóa của Việt Nam nói riêng. Với một quốc gia mà nạn xâm phạm bản quyền diễn ra ngang nhiên từ năm này qua năm khác với quy mô ngày càng lớn, các nhà đầu tư hiển nhiên sẽ dè dặt khi hợp tác. Dẹp hay không dẹp được tệ nạn này, nó sẽ cho thấy năng lực quản lý và quyết tâm của nhà nước trong việc làm trong sạch hóa môi trường văn hóa và kinh doanh của đất nước.

Theo số liệu nghiên cứu năm 2022 của Media Partners Asia, Việt Nam đứng thứ ba trong khu vực (sau Indonesia và Philippines) về tỷ lệ vi phạm bản quyền trên không gian số. Tính theo đầu người, Việt Nam đứng thứ nhất, với khoảng 15,5 triệu người xem bất hợp pháp, làm thất thoát khoảng 348 triệu USD. Vi phạm quyền tác giả trên không gian số được thể hiện với nhiều hình thức khác nhau, và ảnh hưởng đến hầu hết các nội dung văn hóa - nghệ thuật: văn học, hội họa, âm nhạc, điện ảnh... Chưa bao giờ, vấn nạn xâm phạm quyền tác giả đối với các nội dung trên nền tảng số gióng lên hồi chuông báo động không chỉ cho các lực lượng chức năng mà còn là các cá nhân, tập thể liên quan như hiện nay.

Năm 2023, Thanh tra Bộ VHTTDL phối hợp với các cơ quan có liên quan ngăn chặn, bảo đảm thuê bao/người sử dụng dịch vụ viễn thông của doanh nghiệp trên toàn lãnh thổ Việt Nam không truy cập được vào 2.763 wesbite, 3.611 link có nội dung vi phạm; xem xét, xử lý các tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan. Đồng thời, gửi hàng nghìn khuyến cáo tới doanh nghiệp khai thác, sử dụng hình ảnh, âm thanh, video, sử dụng chương trình phần mềm máy tính trong sản xuất, hoạt động kinh doanh thương mại, hoạt động quảng cáo chấp hành các quy định của pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan…Mặc dù hành lang pháp lý liên tục hoàn thiện, với nhiều quy định chặt chẽ được bổ sung nhưng thực tế vẫn cho thấy nạn xâm phạm bản quyền vẫn diễn ra phổ biến và chưa mấy thuyên giảm.

Tại Hội thảo khoa học “Quản lý hoạt động phổ biến phim trên không gian mạng tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” vừa được Cục Điện ảnh tổ chức, các nhà quản lý, nhà phát hành, phổ biến phim… tiếp tục “kêu trời” khi quản lý phổ biến phim trên không gian mạng vẫn vấp phải vô vàn thách thức bởi nạn xâm phạm bản quyền.Theo đại diện BHD, tình trạng ăn cắp bản quyền phát hành trên không gian mạng vẫn còn rất phổ biến, gây thiệt hại vô cùng lớn cho nhà sản xuất, phát hành và phổ biến phim. Nhiều tên miền cung cấp phim miễn phí cho người xem khi buộc phải gỡ phim lại chạy sang miền khác mà vẫn thu hút đông khán giả thích “xem chùa”. Có những phim cơ quan quản lý nhà nước cấm thì chỉ vài tháng sau đã xuất hiện trên mạng nhan nhản, thành ra việc cấm trở thành… “bắt cóc bỏ đĩa”.

Có hơn 4 triệu lượt xem lậu giải Ngoại hạng Anh tại Việt Nam. (Ảnh: Theo VTV.vn) 

 

Hoàn thiện hệ thống pháp luật và tăng cường các giải pháp về CNTT để bảo vệ quyền tác giả

Trước thực trạng đáng báo động về việc vi phạm bản quyền trên không gian mạng diễn ra từ nhiều năm nay, câu hỏi đặt ra là tại sao vấn nạn này vẫn chưa được đẩy lùi?

Bảo vệ bản quyền sách trên không gian mạng nói riêng và quyền tác giả nói chung trên không gian mạng là một thách thức lớn trong thời đại số hóa không chỉ của riêng Việt Nam mà của chung rất nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên việc Việt Nam được liệt vào danh sách đứng đầu về tỷ lệ vi phạm bản quyền trên không gian mạng phải chăng đã phần nào cho thấy hiệu quả thực sự của hệ thống quy định pháp luật trong lĩnh vực này?

 Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ là phải “hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ”. Ngoài ra, việc “tăng cường công tác bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ” cũng được đặt ra trong nhiệm vụ chung về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nằm trong Chiến lược của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030.

Theo Cục Bản quyền tác giả, hiện tại các hành lang pháp lý của chúng ta đã ngày càng hoàn thiện và đã quy định nhiều biện pháp để các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có thể áp dụng để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình. Ngoài việc áp dụng biện pháp công nghệ bảo vệ quyền, đưa thông tin quản lý quyền hoặc áp dụng các biện pháp công nghệ khác nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; các chủ thể quyền có thể yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải chấm dứt hành vi xâm phạm, gỡ bỏ và xóa nội dung vi phạm trên môi trường mạng viễn thông và mạng Internet, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại; yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật này và các quy định pháp luật khác; thậm chí, khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Tại Hội thảo khoa học “Quản lý hoạt động phổ biến phim trên không gian mạng tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” nhiều chuyên gia đều khẳng định: Thực tế việc bùng nổ Internet đặt ra nhu cầu cấp thiết về việc ứng dụng công nghệ vào hoạt động phổ biến phim trên không gian mạng nhằm giải quyết những thách thức, đồng thời tự tạo ra cơ hội để phát triển dịch vụ. Đối với lĩnh vực cụ thể là bảo vệ quyền tác giả trong lĩnh vực điện ảnh trên không gian mạng, cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp như hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan nói chung, quyền tác giả tác phẩm điện ảnh nói riêng; nâng cao nhận thức, ý thức bảo vệ quyền, đẩy mạnh áp dụng các biện pháp công nghệ và thông tin quản lý quyền, chủ động yêu cầu xử lý khi có hành vi xâm phạm quyền; tăng cường công tác truyền thông, tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan...

Để bảo vệ quyền tác giả, giá trị, công sức của việc sáng tạo giá trị tri thức và cũng chính là bảo vệ bạn đọc, đã đến lúc chúng ta phải có những hạnh động quyết liệt để đẩy lùi vấn nạn này. Để làm được điều chắc chắn cần có sự chung tay phối hợp đấu tranh của tất cả các ngành, các quốc gia nhưng có lẽ trên hết vẫn là ý thức của người dân.